Nó kia rồi”, Wazir
bin Talal la to, át đi tiếng ồn động cơ chiếc Sikorsky. Hắn trở sang mạn phải máy bay, cho Sarah thấy chiếc Alexandra, du thuyền khổng lồ của
Zizi, đang rẽ sóng về hướng tây hòn đảo. “Cô thấy nó đẹp chứ?”
“Nó rất to”, Sarah hét trả lời lại.
“Dài hai trăm bảy mươi lăm phút”, bin Talal nói một cách tự hào, cứ như thể hắn là người đóng tàu.
Hai trăm bảy mươi lăm, Sarah nghĩ bụng. Nhưng ai đo đếm nhỉ? Yossi đã từng
miêu tả nó như là một vương quốc nổi. Cô chợt nghĩ đến Gabriel và mọi
người. Lần cuối cô liên lạc với họ là vào chiều chủ nhật, lúc Eli Lavon
gặp cô trên phố Oxford khi cô đang mua vài thứ lặt vặt cho chuyến đi.
Anh bảo, chúng tôi sẽ luôn ở bên cạnh cô, nhưng đừng tìm chúng tôi, và
cũng đừng cố gắng liên lạc làm gì, trừ phi đó là tình huống cực kỳ khẩn
cấp. Chúng tôi sẽ tự đến, chúc cô một chuyến đi thoải mái.
Sarah
ngả lưng vào ghế. Cô vẫn đang mặc quần jeans và chiếc áo len mặc lúc
khởi hành. Mới chỉ xa cách cái se lạnh của Luân Đôn mười tiếng, mà cơ
thể cô bắt đầu phản ứng với cái nóng nhiệt đới đang lan tỏa. Ống quần
jeans gần như dính chặt vào đùi, còn áo lạnh bó sát vào cổ. Cô liếc nhìn bin Talal, có vẻ hắn đã quen với việc thay đổi khí hậu đột ngột. Nhìn
hắn trong trang phục vét đen, được cắt may khéo léo, cà vạt chỉn chu,
khuôn mặt dài, mắt nhỏ, đen và bộ râu tỉa gọn, người ta có thể lầm tưởng hắn là nhà tài phiệt. Chỉ đôi tay to bè, thô kệch mới tố cáo được thân
phận thực sự của hắn.
Tiếng ồn của động cơ máy bay làm câu chuyện bị ngắt quãng, nhưng Sarah thấy vui vì điều đó. Càng lúc cô càng thấy
ghét bin Talal, từ sáng sớm đến giờ hắn hiện diện bên cô mọi lúc mọi
nơi, và cố tỏ ra lịch sự. Tại sân bay, hắn nằng nặc đòi đi chung với cô
đến các gian hàng miễn thuế và dành trả tiền bằng thẻ tín dụng công ty
khi cô mua một tuýp dưỡng da. Trong suốt chuyến bay, hắn tỏ ra quan tâm
đặc biệt tới cuộc sống của cô. Cô Sarah ơi, kể cho tôi nghe về thời thơ
ấu của cô đi... Cô Sarah ơi, kể cho tôi nghe về niềm đam mê hội họa của
cô nào... Cô Sarah ơi, nói cho tôi biết tại sao cô lại rời thủ đô
Washington đến Luân Đôn vậy... Để hắn khỏi làm phiền, cô giả vờ ngủ. Hai tiếng sau, khi cô giả vờ thức dậy, hắn lại lân la gạ chuyện. Cô nói cha cô từng làm ở Citicorp à? Có khi ông ấy và ngài al-Bakari đã từng gặp
nhau đấy. Ngài al-Bakari cũng thường làm ăn với Citicorp... Sarah bèn
đeo tai nghe vào và xem phim. Bin Talal cũng vậy.
Khi cô nhìn ra
cửa sổ lần nữa, chiếc Alexandra đang sừng sững giữa trời. Cô nhìn thấy
Nadia và Rahimah đang đứng trên boong trước, đón ánh nắng cuối ngày, tóc dài xõa bay trong gió. Đằng boong sau, hai gã Abdul đang hội ý riêng
với Herr Wehrli, chuẩn bị cho kế hoạch tiếp theo. Nổi bật hơn cả là
Zizi, trong trang phục trắng, đang vẫy tay chào cô. Sarah nghĩ thầm,
phải quay lại thôi. Hãy trả tôi lại đất liền. Ngài hãy ở lại đây, thưa
ngài bin Talal. Còn tôi sẽ quay lại Luân Đôn, cám ơn. Nhưng cô biết
không thể quay lại. Gabriel đã giúp cô có được cơ hội cuối ở căn nhà an
toàn tại Surrey, và cô đã gật đầu đồng ý tiếp nhận nó.
Chiếc máy
bay Sikorsky hướng về đuôi tàu và nhẹ nhàng đáp xuống sân bay. Hình ảnh
lần lượt thoáng qua trong đầu Sarah: Zizi đứng trong phòng tranh của
Jullian, lên tiếng nhắc nhở rằng không ai có thể giả tạo điều gì với hắn cả, dù là trong kinh doanh lẫn nghệ thuật. Tôi không phải là kẻ lừa
gạt, cô tự nhủ khi bước ra khỏi trực thăng. Tôi là Sarah Bancroft. Tôi
từng làm quản lý ở hãng Phillips tại Washington. Bây giờ tôi làm cho
phòng tranh Isherwood. Tôi không cần tiền hay cần công việc của ông.
Thật vậy, tôi chẳng muốn liên quan gì với ông cả.
Bin Talal dẫn
cô về phòng. Nó rộng hơn rất nhiều so với căn hộ của cô ở Chelsea: một
phòng ngủ dài có chỗ ngồi, phòng tắm ốp đá cẩm thạch, có bồn tắm mát xa, khoảnh ban công rộng hiện đang đón ánh nắng cuối cùng trong ngày. Gã
Arập Xêút đặt túi xách của cô lên chiếc giường to trong phòng và bắt đầu kéo khoá, mở giỏ ra. Sarah ngăn lại.
“Không cần đâu. Tôi tự biết bảo quản túi xách của mình mà, cám ơn anh nhé!”
“Nhưng tôi e rằng đây là điều tôi nên làm, thưa cô Sarah”.
Hắn đẩy nắp túi qua một bên và bắt đầu lôi từng món ra khỏi túi.
“Anh đang làm gì vậy?”
“Chúng tôi có những nguyên tắc của mình, thưa cô Sarah”. Vẻ lịch sự giả tạo
của bin Tatal biến mất. “Nhiệm vụ của tôi là giúp các vị khách quý tuân
thủ những nguyên tắc ấy. Không thuốc lá, không rượu bia, không mại dâm
dưới bất cứ hình thức nào”. Hắn giơ quyển tạp chí thời trang cô mua ở
sân bay Miami và nói tiếp. “Tôi e rằng phải tịch thu quyển này. Cô có
mang theo bia rượu gì không?”
Cô lắc đầu. “Và cũng không có thuốc lá”.
“Cô không hút thuốc à?”
“Thỉnh thoảng, nhưng tôi ít hút”.
“Tôi cần giữ điện thoại di động của cô cho đến lúc cô rời tàu Alexandra”.
“Sao vậy?”
“Bởi vì hành khách không được phép sử dụng điện thoại trên boong tàu, dẫu
sao thì điện thoại của quý vị cũng không hoạt động được do nguồn điện
của tàu”.
“Nếu chúng không hoạt động, tại sao anh phải tịch thu?”
“Tôi cho rằng điện thoại của cô có chức năng chụp hình, thu âm và lưu trữ những file âm thanh hình ảnh trên máy phải không ạ?”
“Người bán hàng có giới thiệu những chức năng đó, nhưng tôi ít khi sử dụng lắm”.
Hắn chìa bàn tay to bè và nói. “Tôi cần điện thoại của cô. Cô hãy yên tâm là nó sẽ được bảo quản tốt”.
“Tôi còn có việc của riêng mình, tôi không muốn bị tách rời khỏi thế giới thực tại”.
“Cô có thể tùy nghi sử dụng hệ thống điện thoại vệ tinh trên tàu”.
Và quý ngài có thể nghe lén chứ gì?
Cô ngần ngừ lấy điện thoại ra, tắt máy rồi đưa cho hắn.
“Bây giờ, tới phiên máy quay phim của cô. Ngài al-Bakari không thích xung
quanh mình có máy quay phim, nhất là khi ngài đang thư giãn. Ở đây không được phép quay phim ngài, quay phim nhân viên hay bất cứ vị khách nào
khác”.
“Ngoài tôi ra, còn có nhiều khách khác à?”
Hắn giả vờ không nghe thấy câu hỏi của cô. “Cô có mang theo Blackberry hay bất cứ loại PDA 1nào không?”
Cô đưa cho hắn xem. Hắn lại chìa tay ra.
“Nếu anh đọc được thư điện tử của tôi, xin hãy giúp tôi…”
“Tôi chẳng muốn đọc thư điện tử của cô làm gì, thưa cô Sarah, chúng ta càng
sớm kết thúc những thủ tục này thì cô sẽ càng sớm có thời gian nghỉ ngơi đấy”.
Cô lại phải đưa máy Blackberry cho hắn.
“Cô có mang theo máy nghe nhạc Ipod, hay bất cứ thiết bị nghe nhạc nào khác không?”
“Anh đang đùa với tôi à”.
“Ngài al-Bakari của chúng tôi cho rằng những thiết bị cá nhân ấy không thích
hợp ở đây. Dẫu sao thì phòng của cô cũng được trang bị những dàn âm
thanh hiện đại nhất, chưa kể các thiết bị nghe nhìn khác. Cho nên cô
không cần máy của mình”.
Cô đưa máy Ipod cho hắn.
“Còn thiết bị điện nào khác không?”
“Máy sấy tóc”.
Hắn lại chìa tay ra.
“Anh lấy máy sấy tóc của phụ nữ làm gì?”
“Cô có thể sử dụng máy sấy tóc trong phòng tắm, nó tương thích với hệ thống điện trên tàu. Còn tạm thời, tôi sẽ bảo quản đồ của cô, để khỏi có điều đáng tiếc xảy ra”.
“Tôi hứa sẽ không dùng”.
“Máy sấy tóc của cô, thưa cô Sarah”.
Cô lôi máy sấy tóc ra khỏi va-li, và đưa cho hắn.
“Ngài al-Bakari có tặng cho cô một món quà trong tủ quần áo đấy. Có lẽ ngài
sẽ vui khi thấy cô mặc nó để tham dự buổi ăn tối vào lúc 9 giờ tối nay.
Tôi nghĩ cô cần nghỉ ngơi một chút. Cô cũng mệt rồi, và múi giờ cũng
khác nhau nữa”.
“Dĩ nhiên là vậy”.
“Cô có muốn tôi đánh thức cô lúc 8 giờ không?”
“Tôi có thể tự lo được. Vì tôi có mang theo một chiếc đồng hồ báo thức”.
Hắn nở một nụ cười khô khan. “Tôi cần phải mang nó đi luôn”.
Sarah hơi ngạc nhiên vì mình ngủ được, một giấc ngủ không mộng mị, rồi cô
choàng tỉnh trong bóng tối bao phủ, và tự hỏi mình đang ở đâu. Làn gió
biển ấm áp mơn man ngực cô như hơi ấm của người yêu dấu, để cô chợt nhận ra mình đang trên tàu Alexandra và hoàn toàn chỉ có một mình. Cô nằm
bất động một hồi, tự hỏi liệu có ai đang theo dõi mình không. Hãy tự nhủ rằng chúng đang theo dõi mọi hành động của mình, lắng nghe từng lời
mình nói, Eli đã căn dặn như vậy. Cô mường tượng ra những khung cảnh
khác đang diễn ra trên tàu. Nào là Wazir bin Talal đang tải tất cả thư
điện tử của cô từ cái điện thoại Blackberry, dò xét các số đã gọi trên
máy điện thoại của cô. Cũng chính Wazir bin Talal đang tháo rời từng bộ
phận máy sấy tóc, Ipod và đồng hồ báo thức của cô, cố tìm cho ra thiết
bị ghi âm. Đương nhiên hắn chỉ phí công, bởi vì Gabriel đã dự đoán được
hành động thẩm tra này ngay khi cô bước chân vào đại bản doanh của
chúng. Trong trường hợp đó, càng đơn giản càng tốt, Sarah ạ. Chúng ta sẽ sử dụng cách truyền thống. Đó là mã điện thoại và những dấu hiệu liên
lạc nhận diện khác.
Sarah liếc nhìn đồng hồ đeo tay. Còn 5 phút
nữa thì đến 8 giờ. Cô nhắm mắt lại, tận hưởng luồng gió mát vờn quanh cơ thể. Đúng 5 phút sau, điện thoại bàn kề bên nhẹ rung. Cô vươn tay, cầm
ống nghe áp sát tai.
“Tôi dậy rồi, anh bin Talal ạ”.
“Tôi rất vui khi nghe điều đó”.
Không phải bin Talal. Giọng của Zizi.
“Tôi xin lỗi, thưa ngài al-Bakari. Tôi cứ ngỡ là bin Talal”.
“Hẳn nhiên là thế”, giọng hắn vui vẻ. “Cô có chợp mắt được chút nào không?”
“Dạ có thưa ngài”.
“Thế chuyến bay của cô thế nào?”
“Tốt đẹp, thưa ngài”.
“Chúng ta thỏa thuận được chứ?”
‘Còn tùy vào việc đó là thỏa thuận nào nữa, thưa ngài al-Bakari”.
“Tôi vẫn thích cô gọi tôi là Zizi hơn. Bạn tôi cũng hay gọi tôi như thế”.
“Tôi sẽ cố”. Rồi cô tiếp lời giọng vui vẻ. “Thưa ngài”.
“Tôi mong gặp cô tại bữa tối nhé, Sarah”.
Đường dây điện thoại bị cắt ngang. Sarah gác máy, và bước ra boong. Bên ngoài trời tối đen. Vành trăng lưỡi liềm treo vắt vẻo phía cuối chân trời,
chòm sao đêm nhấp nháy soi rọi màn đêm. Cô nhìn về hướng đuôi tàu, thấy
hai ánh đèn hành trình màu lục nhấp nháy cách đó vài dặm. Phía trước mạn tàu có thêm vài ánh đèn khác. Sarah chợt nhớ đến lời căn dặn của Eli
trong một đợt tập huấn. Đôi khi, cách theo dõi người khác tốt nhất là đi trước mặt họ. Cô nghĩ người ta sử dụng cách tương tự khi canh gác trên
biển.
Cô trở vào phòng, cởi đồ và bước vào phòng tắm. Này đừng
nhìn nhé, ngài Wazir. Cô thầm nghĩ. Cấm nhìn trộm. Cô ngâm mình trong
bồn tắm Jacuzzi của Zizi, thưởng thức giai điệu của nhạc sỹ Keith
Zarrett qua dàn âm thanh hiện đại của Zizi. Xong xuôi, cô quấn mình
trong chiếc khăn tắm mềm mại và sấy khô tóc bằng máy sấy cũng của Zizi.
Cuối cùng, cô trang điểm để che giấu vẻ mệt mỏi sau hành trình dài dằng
dặc. Khi thả mái tóc dài xuống ngang vai, Sarah chợt nghĩ đến Gabriel.
“Sarah này, cô thích để tóc thế nào nhỉ?”
“Tôi thường để xõa”.
“Cô có gò má đẹp với cái cổ duyên dáng. Đã tới lúc cô phải nghĩ đến việc thỉnh thoảng búi tóc cao. Giống như nàng Marguerite”.
Nhưng không phải là đêm nay. Khi đã cảm thấy hài lòng với khuôn mặt của mình, Sarah quay trở vào phòng ngủ và mở tủ quần áo, trên kệ là một gói quà
xinh xắn đang chờ đợi. Cô mở hộp quà, bên trong là một bộ đồ bằng lụa
màu ngà, và một áo lót cùng chất liệu. Bộ đồ thật vừa vặn, y như các món quà khác. Cô đeo đồng hồ Harry Winston, điểm theo đôi khuyên tai hiệu
Bulgari, đôi vòng ngọc trai Mikimoto và lắc tay của hãng Tiffany. 9 giờ
kém 5 phút, Sarah rời khỏi phòng và đi về phía boong sau. Đừng nghĩ đến
sự tồn tại của chúng tôi. Hãy là Sarah Bancroft, và sẽ không có chuyện
gì xảy ra đâu.
Zizi nồng nhiệt chào đón cô.
“Chào Sarah,
gặp lại cô mới tuyệt làm sao. Thưa các vị, tôi xin giới thiệu đây là cô
Sarah. Sarah này, đây là mọi người. Có rất nhiều người nên tôi không
chắc cô sẽ nhớ được hết tên của họ, trừ phi cô có trí nhớ cực kỳ tốt.
Nên tôi đề nghị chúng ta sẽ từ từ làm quen với nhau nhé. Mời cô ngồi, cả ngày mệt rồi, chắc cô đói lắm nhỉ”.
Hắn xếp cô ngồi gần cuối đầu bàn, rồi đi về chỗ ngồi của mình phía cuối bàn đối diện. Một gã Abdul
ngồi bên phía tay phải của cô, bên tay trái là chủ nhà băng. Phía đối
diện là gã Mansur, trưởng phòng du lịch, và cô vợ õng ẹo của gã Herr
Wehrli, cô này có điệu bộ của một kẻ luôn cho rằng những gì đang xảy ra
thật đáng kinh tởm. Ngồi kế bên Frau Wehrli là Jean-Michel, huấn luyện
viên riêng của Zizi. Mái tóc dài màu vàng được cột gọn thành đuôi ngựa
phía sau gáy, hắn ngấu nghiến nhìn Sarah mặc kệ vẻ ganh tỵ của cô vợ
Monique. Ngồi phía xa bàn là Rahimah và anh bạn điển trai của cô nàng,
tên Hamid và là ngôi sao điện ảnh Ai Cập. Cô nàng Nadia kiêu hãnh ngồi
kế bên cha mình. Đôi lần trong bữa tiệc, khi đưa mắt nhìn Zizi, Sarah
lại bắt gặp ánh mắt của cô nàng nhìn mình. Và cô tự nhủ Nadia cũng là kẻ phiền hà giống như gã bin Talal mà thôi.
Sau khi tin chắc rằng
Sarah không biết tiếng Arập, Zizi đã đề nghị mọi người trong bàn tiệc
nói tiếng Anh và tiếng Pháp. Cuộc trò chuyện vô cùng tẻ nhạt, hầu hết
mọi người xoay quanh những chủ đề phim ảnh, quần áo, những nhà hàng Zizi muốn trưng dụng, hay về một khách sạn nào đó ở Nice mà hắn đang dự định mua lại. Những đề tài về chiến tranh, khủng bố, lời thề của người
Palestine, Tổng thống Mỹ... dường như không hề tồn tại. Thật ra, có vẻ
như mọi thứ không vượt ra ngoài khuôn khổ của hành trình tàu Alexandra
và ngoài biên giới của Zizi. Tuy vậy, khi cảm giác Sarah bị gạt ra ngoài cuộc trò chuyện, Zizi lại khéo léo hỏi cô giải thích về việc tìm kiếm
bức tranh Van Gogh. Khi thấy cô không bị lọt bẫy, hắn mỉm cười một cách
xảo quyệt và tuyên bố. “Một ngày nào đó, tôi sẽ tìm ra sự thật thôi”. Đó cũng là lần đầu tiên Sarah cảm thấy trong lòng dấy lên một nỗi lo sợ mơ hồ.
Khi món tráng miệng được mang ra, hắn tiến lại gần và kéo
ghế ngồi bên cạnh cô. Bữa tối nay, hắn mặc một bộ đồ vải lanh màu kem,
gò má múp míp của hắn ửng đỏ vì bắt nắng.
“Tôi tin rằng cô có một bữa tối thật ngon miệng”.
“Rất ngon. Chắc ông phải chuẩn bị đồ ăn cả buổi chiều”.
“Không phải tôi”, hắn khiêm tốn trả lời. “Đầu bếp của tôi đó chứ”.
“Vài đầu bếp?”
“3 người. Chúng tôi cũng có cả đội thủy thủ và khoảng 40 nhân viên. Họ chỉ làm việc cho mình tôi, cho dù đó là khi tàu Alexandra đang trên biển
hay neo ở cảng. Cô sẽ có dịp làm quen với họ thôi. Nếu cô cần gì, cứ hỏi nhé. Tôi rất muốn cô cảm thấy thoải mái khi ở đây”.
“Tôi rất thoải mái, thưa ngài al-Bakari”.
“Zizi chứ”, hắn nhắc lời cô, vừa nói hắn vừa xoay xoay chuỗi tràng hạt bằng
gỗ mun. “Anh bin Talal bảo rằng cô không được vui vì các nguyên tắc và
quy trình an ninh ở chỗ chúng tôi”.
“Phải gọi là ngạc nhiên thì đúng hơn. Nếu ngài báo với tôi sớm hơn, có lẽ tôi không cần phải mang theo nhiều đồ như vậy”.
“Có lẽ anh bạn bin Talal của tôi hơi cứng nhắc theo nguyên tắc an ninh ở
đây. Tôi chân thành xin lỗi vì điều đó. Cô Sarah biết không, chúng tôi
quy định rằng khi một người bước vào lãnh thổ của Tập đoàn AAB, người ấy phải tuân theo các nguyên tắc ở đây - cũng chỉ nhằm bảo đảm an ninh cho mọi người mà thôi”. Hắn búng nhẹ cổ tay, và quấn chuỗi hạt quanh hai
ngón tay phải. “Cô đã nghĩ đến lời đề nghị của tôi chứ?”
“Tôi vẫn chưa biết đó là gì ạ”.
“Nhưng cô có quan tâm đến. Nếu không, cô chẳng đến đây làm gì”.
“Cứ cho rằng tôi hơi tò mò, và tôi sẵn lòng thảo luận thêm về vấn đề này”.
“Cô là một nữ doanh nhân khôn ngoan và thận trọng đấy Sarah ạ. Tôi ngưỡng
mộ điều đó. Vậy hãy tận hưởng không khí biển cả và ánh mặt trời trong
vài ngày nhé. Sau khi thư giãn xong, chúng ta hãy bàn về điều đó”.
“Vài ngày ư? Tôi phải quay về Luân Đôn”.
“Trước khi cô đến làm việc, Julian Isherwood vẫn tự lo liệu được mọi chuyện.
Nên tôi tin rằng anh ta sẽ xoay xở tốt, còn cô thì đáng được hưởng một
kỳ nghỉ thật thư giãn với chúng tôi”.
Nói rồi, hắn quay trở về
chỗ ngồi cũ của mình, kế bên cạnh Nadia. “Chào mừng cô gia nhập đại gia
đình chúng tôi”, Herr Werli lên tiếng. “Ông ấy có vẻ thích cô lắm đấy,
nên khi thương lượng lương bổng, cứ thẳng thắn vì ông ấy sẽ trả cô bất
cứ mức lương nào cô muốn”.
Cũng vào tối hôm ấy, trên boong một
chiếc tàu khác, chiếc Sun Dancer, không sang trọng nhưng không khí buổi
trò chuyện lại thật sinh động và vui nhộn. Mọi người không tránh nói về
những đề tài chiến tranh hay khủng bố, ngược lại, mọi người còn tranh
luận sôi nổi cho đến tận khuya. Vào cuối buổi tối, một tranh cãi nhỏ lại nổ ra, lần này là xem ai sẽ phải đi rửa chén. Dina và Rimona nói rằng
họ đã dọn dẹp chén đĩa vào tối hôm trước ở Surrey. Cuối cùng, Gabriel,
miễn cưỡng ra lệnh cho hai thành viên mới của nhóm: Oded và Mordecai,
hai tay đặc vụ dày dạn kinh nghiệm và Mikhail, tay súng được mời đến từ
Lực lượng Đặc nhiệm Sayeret Matkal. Anh ta là người Do Thái gốc Nga, với làn da trắng bệch và đôi mắt màu lạnh như băng. “Một thế hệ đàn em của
anh”, Yaakov từng phát biểu. “Giỏi tài bắn súng, nhưng không hề có chút
lương tâm. Chính hắn đã hạ gục Bộ Tổng tư lệnh của phong trào kháng
chiến Hồi giáo Hamas đấy”.
Họ không tận hưởng được sự lộng lẫy
kiêu sa như trên tàu Alexandra, cũng chẳng ai có được một không gian
riêng tư. Gabriel và Lavon, hai đặc vụ kỳ cựu nhất cũng phải chen chúc ở mũi tàu. Lavon đã quá quen với giờ giấc ngủ nghỉ bất thường của Gabriel nên không thấy ngạc nhiên khi buổi sáng thức dậy thấy giường của
Gabriel trống không. Anh ra khỏi giường và nhảy lên boong. Gabriel đứng
đó, tay cầm tách cà phê, nhìn chăm chăm vào một điểm sáng xa xa phía
chân trời. Lavon quay về chỗ ngủ, đánh thêm một giấc. Khi anh thức dậy
lần thứ hai, vẫn thấy Gabriel đang đứng tại chỗ cũ, nhìn xa xăm vào đại
dương mênh mông.