Thư tố cáo Andrew
Malone được gửi đến Tổng hành dinh của Tập đoàn AAB tại Geneva vào lúc
10 giờ 22 phút sáng ngày thứ năm. Trên bìa thư, ghi rõ người nhận là
“Ngài Abdul Aziz al-Bakari”, do một nhân viên bưu điện địa phương, mặc
đồng phục và ngồi trên mô tô phát tận nơi. Tên người gửi là quý cô
Rebecca Goodheart từ quận Earls Court, Luân Đôn, nhưng tin điều tra của
nhân viên an ninh AAB cho biết quý cô này chỉ là một cái tên giả mạo.
Sau khi kiểm tra xác định không có chất nổ, phóng xạ hay hóa chất nguy
hiểm, kiện hàng được mang đến văn phòng của Wazir bin Talal. Tại đó, nó
nằm im cho đến chiều muộn ngày thứ sáu bởi bin Tabal phải đi công tác
một ngày tại Riyadh.
Wazir bin Talal còn nhiều việc gấp phải giải quyết nên đến gần 8 giờ tối mới có thời gian mở thư. Hắn cảm thấy hối
tiếc vì sự việc nghiêm trọng đến thế mà mình không bóc ra để xem sớm
hơn. Theo thư của cô Goodheart tố cáo rằng không dưới chín lần Andrew
Malone đã biển thủ tiền bạc, vi phạm hợp đồng cá nhân ký kết với Abdul
Aziz al-Bakari. Thư tố cáo còn được hỗ trợ bởi một số bằng chứng kèm
theo, đó là hóa đơn ngân hàng, fax và thư điện tử từ máy tính của
Malone. Bin Talal lập tức gọi điện thoại cho văn phòng của người điều
hành tại Geneva và đến 9h tối hôm đó, tài liệu cần thiết đã có mặt trên
bàn Zizi al-Bakari, lúc này đang đùng đùng nổi giận.
Ngay tối hôm ấy, vào lúc 11 giờ đêm giờ Luân Đôn, bin Talal gọi điện thoại đến biệt
thự Knightsbridge tìm Malone và ra lệnh cho hắn phải đến Geneva trên
chuyến bay sớm nhất. Khi Malone viện cớ có nhiệm vụ khác cần thi hành -
và nhấn mạnh phải đến cuối tuần mới xong - thì bin Talal ra tối hậu thư
rằng lệnh triệu tập là bắt buộc, nếu không chấp hành sẽ bị coi là chống
đối. Mười phút sau, Malone bằng giọng run rẩy gọi cho hãng hàng không
British Airways đặt một chỗ trên chuyến 8 giờ 30 phút sáng đến Geneva.
Hai cuộc điện thoại đêm nay đều được nhóm neviot ghi âm và ngay lập tức
được chuyển về nhà an toàn Surrey cho Gabriel.
Eli Lavon cũng đặt chỗ trên cùng chuyến bay. Khi đến Geneva, đã có hai xe hơi khác nhau
đợi họ. Dành cho ngài Malone của chúng ta là một chiếc Mercedes sang
trọng, do tài xế của Zizi lái, còn Lavon thì chui vào một chiếc Opel
dính đầy bùn, do một bác tài của ga hàng không Geneva lái. Lavon yêu cầu người tài xế nhường cho chiếc Mercedes đi trước, và đến khu biệt thự
của Zizi sau Malone vài phút. Họ tìm một chỗ khuất gần đó để đậu xe,
nhưng họ không phải đợi lâu, vì khoảng hai mươi phút sau đã thấy Malone
ra khỏi nhà, mặt mày thất sắc.
Hắn đi thẳng ra phi trường và đặt
chỗ trên chuyến bay sớm nhất về Luân Đôn. Đó là chuyến 5 giờ chiều, và
Lavon cũng lên cùng chuyến đó. Về đến phi trường Heathrow, họ rẽ hai
hướng khác nhau, Lavon trở lại Surrey, còn Malone về biệt thự
Knightsbridge. Hắn hốt hoảng bảo với vợ rằng trừ phi hắn kiếm đủ 4 triệu bảng Anh ngay lập tức, nếu không Zizi sẽ thẳng tay ném hắn xuống nước
từ cây cầu cao nhất nước Anh.
Đó là buổi tối thứ bảy. Tới thứ tư
của tuần tiếp theo, Gabriel và cả đội đã tin chắc rằng Zizi đang tìm
kiếm một cố vấn nghệ thuật mới. Có vẻ như hắn đã chấm một người và người đó không ai khác hơn ngoài Sarah Bancroft, trợ lý Giám đốc của phòng
tranh Isherwood, khu Mason’s Yard, đường James.
Sarah bắt đầu xem những người ấy là bạn. Họ đi chung xe điện ngầm với cô, tản bộ ở khu
Mason’s Yard và la cà ở phố Duke. Họ cùng đi ăn trưa với cô, lúc nào
cũng có ai đó đợi cô ở quán bar Green vào mỗi buổi chiều khi cô ghé qua
đó để nhấm nháp một ly với Oliver và các chàng trai trẻ. Họ cùng cô đến
một phiên đấu giá ở Soothby, mua hàng giảm giá tại một cửa hiệu ở Hull.
Họ đi cùng trong chuyến đi dài ngày đến Devon, nơi cô thể hiện tài năng
khéo léo chiêu dụ một nhà quý tộc để mua lại bức tranh Đức Mẹ và Chúa
hài đồng mà Isherwood đã thèm muốn bấy lâu nay. “Zizi đang tiếp cận cô
đấy”, đó là mẩu hội thoại ngắn ngủi Gabriel gửi cho Sarah qua điện thoại vào chiều thứ hai. “Chỉ còn là vấn đề thời gian thôi. Đừng tỏ vẻ giật
mình khi cô về nhà và thấy mọi thứ xáo trộn nhé. Tên Sharuki đã đột nhập vào nhà cô và lục lọi mọi thứ hồi sáng nay”.
Món quà đầu tiên
đến ngay sau đó, một chiếc đồng hồ đính kim cương hiệu Harry Winston,
trên hộp đựng quà là dòng chữ đính kèm: Cảm ơn vì đã tìm ra Marguerite.
Chân thành cảm ơn, Zizi.Hôm sau nữa là đôi bông tai từ Bulgari, hôm sau
nữa là chuỗi ngọc trai hai vòng của hãng Mikimoto. Một lắc tay bằng vàng của cửa hiệu Tiffany được gửi tới Sarah vào tối thứ năm, ngay lúc cô
chuẩn bị rời chỗ làm. Cô đeo vào tay phải và đi thẳng đến quán Green
quen thuộc, và cũng như mọi lần Oliver lại vụng về tán tỉnh cô. “Còn cả
đời”, cô vừa nói vừa hôn phớt vào má anh “nhưng không phải tối nay đâu.
Anh hãy tỏ ra là người bạn trai tốt, và dẫn em đến ga tàu điện ngầm
nhé”.
Buổi tối là thời gian căng thẳng nhất của Sarah. Cô không
được đến nhà an toàn Surrey nữa, và cô phải xem như không có sự tồn tại
của nó. Cô thấy nhớ mọi người, vì họ là một gia đình - một nơi ồn ào,
hay tranh cãi ầm ĩ, nhưng lại rất yêu thương nhau - một gia đình mà cô
chưa từng có. Tất cả những gì còn sót lại của gia đình, đó là vài cú
điện thoại thi thoảng của Gabriel, và ánh đèn của căn hộ đối diện bên
kia đường. Đèn nhà Yossi, nhưng rồi Yossi cũng sẽ chẳng còn ở đó nữa. Có những đêm, khi đối diện với cô đơn và sự sợ hãi, Sarah ước gì mình có
thể bảo họ tìm người khác. Đôi lúc cô nghĩ đến anh chàng Julian tội
nghiệp, và tự nhủ nếu không có cô, anh ta sẽ ra sao?
Kiện hàng
cuối cùng đến vào lúc 3 giờ chiều ngày thứ sáu. Người giao nó là một anh chàng đưa thư mặc đồng phục và đeo cà vạt. Bên trong kiện hàng là một
mẩu thư viết tay và một vé máy bay. Sarah mở vé ra xem nơi đến ghi trên
đó. Mười giây sau, điện thoại trên bàn cô reo vang.
“Phòng tranh Isherwood. Sarah đây ạ”.
“Chào cô Sarah”.
Giọng của Zizi.
“Xin chào ngài al-Bakari. Ngài khỏe không ạ?”
“Tôi khỏe. Cô nhận được thư mời và vé máy bay chưa?”
“Đã. Và cả khuyên tai, đồng hồ, ngọc trai và lắc tay nữa”.
“Tôi thích nhất là chiếc lắc tay”.
“Tôi cũng vậy, thưa ngài. Nhưng tất cả món quà đó thật không cần thiết tí
nào. Cả lời mời này cũng vậy. Tôi e rằng tôi không thể nhận lời”.
“Cô làm tôi phiền lòng đấy”.
“Tôi không cố tình, thưa ngài. Tôi rất muốn có vài ngày tắm mình dưới ánh
nắng mặt trời, nhưng tôi không thích nhận lời trong tích tắc như vậy”.
“Đây không phải là tích tắc. Cô xem kỹ lại đi, trước ngày khởi hành, cô có đến 3 ngày để chuẩn bị”.
“Tôi cũng không thể nào lên đường trong khoảng thời gian ngắn như vậy, thưa
ngài. Tôi có nhiều công việc phải làm tại phòng tranh”.
“Tôi chắc hẳn rằng Julian sẽ cho cô nghỉ ngơi vài ngày. Cô vừa mang về một số tiền kha khá cho anh ta đấy thôi”.
“Quả có thế”.
“Vậy thì cô quyết định thế nào? Cô sẽ đến chứ?”
“Tôi e rằng vẫn phải từ chối, thưa ngài”.
“Sarah, cô cần phải biết rằng tôi không thích bị từ chối”.
“Tôi không nghĩ điều đó hợp lý, thưa ngài”.
“Hợp lý? Tôi nghĩ cô đã hiểu sai ý tôi”.
“Vậy ý của ngài là gì?”
“Tôi muốn cô làm việc cho tôi”.
“Làm việc gì thưa ngài?”
“Tôi không muốn bàn việc này qua điện thoại, Sarah ạ. Cô sẽ đến chứ?”
Sarah đợi đúng 10 giây trước khi trả lời.
“Rất tuyệt”. Zizi thốt lên. “Một trong những nhân viên của tôi sẽ đi cùng cô. Anh ta sẽ đến đón cô vào lúc 8 giờ sáng thứ hai”.
“Tôi có thể tự đi được thưa ngài”.
“Tôi biết, nhưng việc đi lại sẽ dễ dàng hơn khi có nhân viên của tôi hộ tống cô. Tôi sẽ gặp lại cô vào chiều thứ hai nhé”.
Và rồi hắn cúp máy. Khi gác điện thoại, Sarah chợt nhớ ra rằng Zizi vẫn chưa hỏi địa chỉ nhà cô.
Gabriel đang ngồi tính toán trong studio của mình tại nhà Surrey thì Lavon lao
nhanh lên cầu thang, tay cầm một bảng in tin nhắn của nhóm đặc vụ tại
Mason’s Yard. “Zizi đã bắt đầu hành động”, anh vừa nói vừa trao cho
Gabriel tờ tin nhắn. “Hắn muốn gặp Sarah ngay lập tức”.
Gabriel đọc tin, rồi nhìn lên “Chết tiệt thật”, anh lẩm bẩm. “Ta cần có ngay một chiếc tàu”.
Họ tổ chức một bữa tiệc ăn mừng đơn giản và để dành một chỗ cho Sarah,
người duy nhất không thể tham gia. Sáng hôm sau, Lavon lái xe chở
Gabriel đến phi trường Heathrow, và vào lúc 4 giờ 30 chiều, anh đã ngồi
chiêm ngưỡng hoàng hôn tại một căn hộ của CIA tại đại lộ Collins trên bờ biển Miami. Adrian Carter mặc quần tây, áo thun cô-tông, đi giày nhưng
không mang tất. Ông ta đưa cho Gabriel một ly nước chanh và bức hình một chiếc tàu lớn.
“Con tàu tên là Sun Dancer”, Carter nói. “ Nó là
loại tàu đi biển sang trọng, dài 74 phút 1, có động cơ. Tôi đảm bảo anh
và nhóm của mình sẽ rất thoải mái”.
“Làm sao ông tìm được nó?”
“Chúng tôi tóm được nó cách đây vài năm từ một tay buôn thuốc phiện người
Panama tên là Carlos Castillo. Ngài Castillo bây giờ đang yên vị trong
nhà tù liên bang tại Oklahoma, con tàu được chúng tôi trưng dụng cho một số việc trọng đại ở vùng Ca-ri-bê này”.
“Nó được sử dụng bao nhiêu lần rồi?”
“Năm hay sáu lần cho DEA - Cục kiểm soát ma túy Mỹ, chúng tôi cũng đã từng sử dụng hai lần”.
Gabriel trao trả bức hình cho Carter. “Nó có vết rồi”, anh bảo. “Có thể giúp tôi tìm chiếc nào có lý lịch sạch hơn không?”
“Chúng tôi đã đổi tên và đăng ký mới vài lần. Zizi và đám thuộc hạ của hắn không lần ra dấu vết đâu”.
Gabriel thở dài. “Thế giờ nó đang ở đâu?”
“Neo ở bến đảo Fisher”, Carter trả lời, chỉ tay về phía nam. “Nó đang được
tiếp nhiên liệu. Chúng tôi đã sắp xếp một đội thủy thủ CIA rời Langley
tối nay”.
“Cũng hay đấy. Nhưng tôi muốn sử dụng đội thủy thủ của mình”.
“Của anh à?”
“Tôi có lực lượng hải quân, Adrian thân mến. Họ cừ lắm. Tôi còn có đội thủy
thủ trực chiến ở Haifa. Này, nhớ bảo người của ông tháo bỏ hết các thiết bị nghe lén nhé. Nếu không chúng tôi sẽ tự làm lấy, và có khi chiếc Sun Dancer sẽ trở nên nhếch nhác khi trao trả cho ông đấy”.
“Tôi giải quyết việc ấy rồi”, Carter trả lời. “Anh tính làm cách nào để tập trung nhóm của anh ở đây?”
“Tôi mong người bạn ở Cục tình báo Mỹ hỗ trợ tôi thêm một chút”.
“Anh cần gì?”
“Bay và quyền hạ cánh”.
“Thế bao lâu thì anh tập hợp được nhóm Haifa đến đến Luân Đôn?”
“Họ có thể đi ngay sáng mai”.
“Tôi sẽ gửi một phi cơ đến Luân Đôn tối nay. Nó sẽ đưa người của anh về đây. Chúng ta sẽ hạ cánh ở Homestead để tránh phải làm thủ tục hải quan và
hộ chiếu. Anh sẽ khởi hành ngay tối chủ nhật và gặp mặt Zizi vào trưa
thứ hai”.
“Thoả thuận có vẻ ổn rồi đấy?”, Gabriel tán thành. “Bây giờ chúng ta chỉ cần Ahmed bin Shafiq mà thôi”.
“Hắn sẽ lộ diện”, Carter khẳng định. “Chỉ lo là cô nàng của anh có xuất hiện đúng lúc hay không mà thôi?”