Thế giới tu
tiên là một thế giới vô cùng rộng lớn của những người tu tiên. Những người sinh
trưởng tại thế giới này đều có thể tu luyện tiên thuật và có hi vọng đắc đạo
thành tiên, phi thăng lên tiên giới giải thoát khỏi cõi đời trần ai ngắn ngủi
này. Nhưng trên thực tế, dù cho năm nào cũng có hàng tỷ người trên thế giới này
lao đầu vào công việc tu tiên vốn vô cùng nhàm chán và gian khổ này thì số người
có thể đạt được đôi chút thành tựu là vô cùng ít ỏi và nhỏ nhoi. Hầu hết những
người tu tiên có đôi chút thành tựu khi đi theo con đường này đều phải tụ hợp
được bốn yếu tố cơ bản then chốt: Tư chất; sự cần cù nỗ lực, ngộ tính và vận
khí, đây cũng là những tiêu chí chính mà các môn phái tu tiên tuyển chọn đệ tử
cho bản phái. Đương nhiên hai yếu tố mơ hồ, khó giải thích, không thể nắm bắt
hay suy xét như ngộ tính và vận khí thì chẳng môn phái nào coi là tiêu chí tuyển
chọn cả. Hầu hết các đại môn phái chỉ để ý đến tư chất của môn hạ đệ tử, chỉ có
các môn phái loại vừa và nhỏ mới để ý đến đức tính cần cù, chịu khó, nỗ lực tu
luyện của đám đệ tử.
Thiên Linh
Môn là một môn phái tu tiên tại một quốc gia tu tiên nhỏ là Tĩnh Thiên Quốc.
Môn phái Thiên Linh Môn này ngay tại một quốc gia tu tiên có thực lực chỉ thuộc
hạng ba, hạng bốn trong tu tiên giới như Tĩnh Thiên Quốc này cũng là một trong
những môn phái yếu kém nhất. Toàn môn phái chỉ có một vị trưởng lão Kết Đan kỳ,
không có tu sĩ Dịch Linh kỳ nào và chỉ có sáu đệ tử Trúc Cơ kỳ, lực lượng có thể
nói là yếu kém đến mức không thể yếu kém hơn được nữa. Do thực lực của môn phái
quá yếu kém nên môn phái này không chỉ không thể thu hút được những đệ tử có tư
chất cao gia nhập mà ngay đến những đệ tử có ý chí kiến nghị, luôn cần cù nỗ lực,
một lòng hướng đạo cũng không nguyện ý lưu lại nơi này. Vì lý do đó, Thiên Linh
Môn phải mở rộng đại môn, chào đón tất cả mọi tu tiên giả cấp thấp muốn đến gia
nhập bản môn chỉ với một điều kiện vô cùng dễ dãi và đơn giản “Linh Thạch”, một
loại khoáng chất đặc biệt ẩn chứa đạt lượng linh khí, được tu tiên giả sử dụng
như tiền tệ. Tức là, bất kỳ ai cũng có thể gia nhập Thiên Linh Môn và nhận được
các công pháp tu tiên, pháp quyết tiên thuật..., chỉ cần mỗi năm nộp cho sư môn
10 viên linh thạch là được. Cái gì? Gia cảnh thấp kém không có sẵn linh thạch!
Không cần quá lo lắng đâu. Thiên Linh Môn dù chỉ là con trùng, con kiến trong
tu tiên giới nhưng cũng có đủ da thịt, nội tạng. Môn phái này chiếm giữ một ngọn
núi khá lớn tên gọi Thiên Linh Sơn và tại đây khai phá được trên ngàn mẫu linh
điền cho đám đệ tử thuê mướn để trồng linh lương, những loại cây lương thực đặc
biệt có thể hấp thu linh khí trong trời đất và cung cấp những nông sản có chứa
một lương linh khí rất cao, tu tiên giả sử dụng thường xuyên sẽ nhận được những
hiệu dụng như sử dụng linh đan cấp thấp. Tất nhiên, khi đệ tử bản môn thuê linh
điền của môn phái thì cũng phải trả tiền thuê với giá từ 10 – 15 viên linh thạch
một năm, một mẫu linh điền tùy vào chất lượng của từng mẫu. Với giá trị hiện tại
của linh lương trong tu tiên giới, chỉ cần đám đệ tử chịu khó làm việc thì họ vẫn
có thể thu được không ít lợi nhuận từ việc làm tá điền cho môn phái. Nhưng cũng
vì vậy àm việc tu luyện của họ bị ảnh hưởng không nhỏ, cơ hội tiến bước trên
con đường tu tiên của những người đệ tử này thật sự không lớn hơn việc con rùa
có thể thắng thỏ trong một cuộc thi chạy là bao. Để gia tăng thêm năng suất cho
đám đệ tử, Thiên Linh Môn còn miễn phí dạy dỗ bọn họ những tiên thuật của Ngũ
Hành Nông Pháp, một hệ thống các pháp thuật đơn giản chuyên dùng để chăm sóc
các loại linh lương, linh thảo trong tu tiên giới. Nhờ có khoản thu nhập này,
Thiên Linh Môn dù yếu ớt vẫn có thể tiếp tục gắng gượng duy trì một hơi thoi
thóp ngay giữa tu tiên giới này.
Tại một
ngôi nhà nhỏ bé, đơn sơ, được bao bọc bởi những lũy tre xanh, một cái vườn rộng
và một ao cá con con nằm trong địa phận của Thiên Linh Môn, một gã thanh niên
to béo, da dẻ hồng hào, tròn trịa như mặt trăng rằm lười biếng nằm dài trên bờ
ao, im lặng lắng nghe tin tức phát ra từ cái radio nhỏ cũ kỹ bên cạnh
“Huyết
Thiên đế quốc một lần nữa bộc phát xung đột kịch liệt. Hai mươi tư doanh địa tiền
phương của tu tiên giả bị Huyết Ma quân bất thần đột kích, thương vong thảm trọng.
Quân đội tu ma giả thừa thế tấn công sâu vào trong lãnh địa của tu tiên giả.”
“Ngũ Lăng
Phái và Vạn Linh Tông chính thức đình chiến. Hai bên ký kết hiệp định...”
“Liên minh
Tây Phương Thần Giáo nghiên cứu chế tạo hàng loạt thành công Bách Quân Lệnh,
cho phép tu giả sở hữu có thể cùng một lúc chỉ huy 100 khối lỗi cấp thấp làm việc
đơn giản như khai khoáng, vận chuyển... Các chuyên gia dự đoán, điều này sẽ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến giá cả nô lệ khai khoáng trên toàn thế giới.”
“Thất Tinh
Kiếm, trưởng môn Thất Tinh Phái của Thiên Nguyệt Quốc thành công ngưng kết
Nguyên Anh, tiến vào Nguyên Anh kỳ. Thiên tượng oai nghiêm chất động cả ngàn dặm
xung quanh tổng đàn Thất Tinh Phái. Người người kinh bái. Thất Tinh Phái chính
thức bước vào hàng ngũ các đại môn phái. Thiên Nguyệt Quốc được công nhận là quốc
gia tu tiên thuộc bậc ba thứ một ngàn tám trăm lẻ tám trong tu tiên giới. Phúc
khí thịnh vượng khôn tả...”
Gã thanh
niên vừa nằm nghe vừa chép miệng chặc lưỡi với những thông tin thú vị, vừa cau
mày lẩm bẩm chửi rủa khi nghe những tin tức trái ý chốc chốc lại đưa mắt nhìn
sang đám mây mù bên cạnh kia. Đó là một đám mây mù rất kỳ lạ. Mặc dù nó dày đặc
đến mức có thể che khuất cả tia sáng mặt trời ngay giữa những ngày hè ngập nắng
chói chang này nhưng lại chỉ xuất hiện tại khoảng không gian nhỏ bé trên mặt ao
nước, những nơi khác quanh đó không hề có một chút hơi ẩm nào chứ đừng nói đến
mây hay sương mù. Gã thành niên gật gù lẩm bẩm
“Đã qua hai
canh giờ vẫn không có chút dấu hiệu tan biến nào. Tốt! Linh Thủy Thuật của ta
thực sự đã chạm đến cửa ngõ của cảnh giới thứ ba rồi. Chỉ còn thiếu một bước nữa
thôi là có thể đạt đến cảnh giới Linh Vũ của Linh Thủy Thuật, khi đó... hắc hắc
hắc....”
Một tràng
cười kỳ quái vang lên từ miệng gã thanh niên. Đôi mắt to của gã ta lim da lim
dim như đang nhìn thấy một cảnh tượng tuyệt đẹp nào đó. Nhưng vì miệng gã hiện
tại đang nhỏ ra từng dòng nước dãi trông như một con chó sói đang nhìn một con
cừu non nên có lẽ cảnh tượng mà gã ta đang nhìn thấy kia không phải là bất kỳ cảnh
gì tử tế cả, không nên tìm hiểu nó thêm nữa thì hơn.
Linh Thủy
Thuật là một trong những tiên thuật quan trọng nhất của Ngũ Hành Nông Thuật,
tác dụng chủ yếu của nó là cung cấp thủy linh khí cho cây trồng. Ngũ Hành tương
sinh tương khắc, Thủy sinh Mộc, thủy linh khí chính là một trong những phân bón
tốt nhất cho các cây linh lương cấp thấp. Vì thế, đây là một trong những tiên
thuật có ý nghĩa quan trọng nhất với những nông dân trong tu tiên giới. Linh Thủy
Thuật cũng chẳng có gì phức tạp hay khó học. Tầng thứ nhất chỉ cần bỏ ra năm ba
ngày học tập thì bất kỳ ai cũng có thể học được. Tầng thứ hai mất thời gian hơn
những cũng chỉ cần năm, sáu tháng thì mọi người đều có thể tinh thông. Nhưng tầng
thứ ba thì không còn là việc chỉ cần bỏ thời gian ôn luyện là có thể học tập được
nữa. Từ tầng này trở đi, có học được hay không hoàn toàn dựa vào tư chất và thể
ngộ của người tu thuật. Hiện tại trong Thiên Linh Môn, chỉ có đại sư huynh Văn
Khúc là có thể thi triển được tầng thứ ba của pháp môn này.
Tầng thứ ba
của Linh Thủy Thuật là Linh Vũ có thể ngưng tụ thủy linh khí trong thiên hạ lại
và tạo ra những cơn mưa thủy linh khí tinh thuần trên quy mô trung bình, có thể
đề cao sản lượng linh lương trên quy mô lớn. Văn Khúc sư huynh từ khi đột phá
được tầng thứ ba này, địa vị trong môn phái lập tức phát sinh biến hóa nghiêng
trời lệch đất, không chỉ ngay tức khắc được các vị chủ quản trong môn phái cất
nhắc lên làm đại sư huynh mà còn được đám đồng môn sư huynh đệ tung hô tán tụng
không ngớt, những kẻ muốn được anh ấy bỏ thời gian ra chăm sóc linh điền hộ thì
phải chia cho anh ấy đến 5% sản lượng linh lương cả năm. Thu nhập của Văn Khúc
sư huynh cũng nhờ đó mà tăng vọt, chăng mấy năm mà đã trở thành một phú hộ nho
nhỏ trong môn phái.
“Đúng là nhất
thân, nhì thế. Con bà nó! Ai... Nếu như ta mà có được bộ pháp quyết nhị phẩm
‘Thiên Hợp Quyết’ để tu luyện như gã ta thì thành tựu của ta còn cao hơn gã nhiều.”
Cứ mỗi lần nghĩ
về vị sư huynh tên Văn Khúc này, Thành Đạt lại cảm thấy như muốn phún hỏa. Gã
không nhịn được chửi đổng một câu cho bõ cái bực tức trong lòng.
Thành Đạt
ghét cay đắng sư huynh Văn Khúc, giống như gã căm thù bất kỳ ai trên đời này giỏi
hơn gã về bất kỳ mặt nào trên đời, nhất là khi người đó bước lên bậc vinh quang
đó nhờ vào may mắn hay thế lực gia đình. Đối với gã, nụ cười tự tin, kiêu hãnh
cao cao tại thượng của những tên ‘khốn nạn’ đó chẳng khác nào mũi dao cắt xẻ từng
miếng thịt của một kẻ xuất thân bần hàn như gã.
Thực vậy,
Thành Đạt vốn chỉ là một đứa trẻ mồ côi, không cha không mẹ, lớn lên bằng nghề
ăn xin và trộm vặt. Sau này, vì không chịu được cuộc sống bần hàn nơi đường phố
đó và muốn đổi đời nên mới gia nhập vào Thiên Linh Môn cầu mong một cuộc sống
êm ấm hơn. Năm năm không ngừng nỗ lực, gã cũng đã có được những thành tựu nhất
định, có được những thứ mà trước đây gã hằng ao ước: một ngôi nhà nhỏ để trú
mưa trú nắng, ngày ăn ba bữa ngon lành no nê, đêm ngủ có giường chiếu đàng
hoàng, chăn êm đệm ấm, không bị bất kỳ ai khinh bỉ, đánh đập như một con chó ghẻ...
Nhưng do không có linh thạch đút lót cho các vị sư thúc sư bá, sư huynh sư đệ
có quyền lực trong môn phái nên cuộc sống hiện tại của gã dù đã khá hơn trước
song cũng vẫn ẩn chứa không biết bao nhiều điều khổ sở, nhọc nhằn. Vì thế, gã
càng có nhiều tham vọng hơn xưa, càng có nhiều dã tâm hơn và càng thù ghét những
kẻ ‘cao quý’ kia hơn. Trong mắt Thành Đạt tất cả những kẻ được ca tụng là thiên
tài, nhân kiệt là anh hùng hảo hán... đều là kẻ thù trời sinh của gã. Chẳng có
gì ngoài kết cục thê thảm của những kẻ đó có thể làm cho gã cảm thấy hưng phấn
và kích thích hơn cả.
“Hừ! Tưởng
có công pháp tốt hơn ta là ngon sao? Cứ chờ đó đi! Sớm muộn gì cũng có ngày ta
đạp mi xuống dưới chân làm đệm ngồi cho ta!”
Thành Đạt
rít lên, trút bỏ nỗi bực tức trong lòng rồi phất tay một cái. Đám sương mù đang
bay lơ lửng trên mặt nước ao kia lập tức tan biến như chưa hề tồn tại. Gã đứng
dậy, mang chiếc radio cũ kỹ, đơn điệu của mình cất đi rồi bước ra khỏi nhà, lầm
lũi tiến về phía cánh đồng linh lương nhỏ bé cằn cỗi của gã.
Cũng giống
như bao đệ tử nghèo khó khác trong môn phái, Thành Đạt cũng bỏ tiền ra thuê 10
mẫu linh điền loại hai của môn phái với giá tiền lên đến 15 viên linh thạch mỗi
mẫu, cộng thêm 10 viên linh thạch quy định; một năm gã phải nộp cho môn phái
160 viên linh thạch. Với giá bán 10 cân linh lương được một viên linh thạch,
hàng năm gã phải nộp cho môn phái 1.600 cân linh lương. Mười mẫu linh điền bình
thường có thể cho được thu hoạch từ 1.700 đến 1.800 mỗi năm. Tức là mỗi năm lao
động cực nhọc, Thành Đạt chỉ bỏ túi được khoảng mười viên linh thạch hay 100
cân linh lương. Đấy là chưa kể đến những khoản phụ trội nằm ngoài ‘chính sử’
khác, cũng tốn kém không ít linh lương, linh thạch. Kết cục là hầu như toàn bộ
đệ tử trong Thiên Linh Môn không dám ăn linh lương do chính mình làm ra mà khắc
khắc khổ khổ cằn kiệm từng tý chút một để dự phòng cho những ‘ngày đông giá
rét’ hay những khi cần kíp khác.
Chỉ có
Thành Đạt là ngoại lệ! Ăn linh lương có thể hỗ trợ tu sĩ tu tiên gia tăng tốc độ
hấp thu linh khí, gia tăng tốc độ tu luyện, giúp củng cố và gia tăng pháp lực của
tu sĩ. Từ khi biết được điều này, Thành Đạt liền dứt khoát không đem linh lương
thu hoạch được bán ra ngoài hay cất trữ trong kho mà giữ lại để ăn dùng làm
lương thực ăn mỗi ngày. Hành động quyết đoán này lập tức phát huy hiệu dụng. Chỉ
sau năm năm tu luyện gã mạnh mẽ đột phá liền năm tầng Luyện Khí kỳ, trở thành một
trong những đệ tử có thực lực cao nhất trong môn phái. Nhưng hậu quả cũng rất
rõ ràng. Gã hoàn toàn không có chút tài sản tích trữ nào, cũng không hề có điểm
cống hiến cho môn phái và càng không ‘biết lễ độ’ với các vị quyền thế trong
môn phái. Hậu quả của điều này là rất rõ ràng. Ngoài một bản công pháp tu luyện
‘Ngưng Linh Quyết’ rẻ tiền và ba tầng cơ bản của năm pháp thuật chính yếu trong
‘Ngũ Hành Nông Pháp’ mà môn phái truyền cho các đệ tử khi mới nhập môn, Thành Đạt
không nhận được bất kỳ hỗ trợ nào khác của môn phái. Không chỉ vậy, gã còn bị hầu
hết các sư huynh đệ khác trong môn phái tẩy chay, cô lập, không tiếp xúc với.
Những buổi họp trao đổi kinh nghiệm trồng trọt, tu luyện công pháp tiên pháp,
luyện khí, luyện đan... giữa các sư huynh đệ đồng môn, gã đều bị gạt ra ngoài,
không cho tham dự. Do đó, Thành Đạt phải một thân một mình khổ khổ sở sở tự
mình mày mò ra tất thảy mọi thứ, từ tu luyện, buôn bán cho đến cả chăm sóc linh
lương trong ruộng. Gã không có chút oán hận nào với những sư huynh sư đệ nghèo
khổ bên cạnh gã, mà chỉ một lòng một dạ căm thù đám ‘cao quý’ trên kia. Gã biết
chính chúng mới là nguyên hung của những khó khăn khổ sở này của gã. Gã cũng biết,
chỉ cần gã còn bị bọn người đó nhắm đến thì những sư huynh sư đệ hiền lành đáng
thương kia sẽ không bao giờ dám lại gần gã. Họ quá biết hậu quả của những việc
làm dại dột đó và không đủ dũng cảm để đương đầu với những hậu quả đó chỉ vì một
kẻ không quá thân thích như Thành Đạt.
Thành Đạt
đi đến thăm khu linh điền của gã. Do không chịu bỏ tiền ra thuê Văn Khúc sư
huynh giúp tạo mưa tưới tiêu mà tự bản thân sử dụng Linh Thủy Thuật mới ở cấp độ
hai, chỉ đủ sức tạo ra mây mù giúp làm tăng độ ẩm và mật độ thủy linh khí cho
linh lương nên đám linh lương trong ruộng của gã luôn kém xa linh lương trong
những thửa ruộng xung quanh. Nhìn sự chênh lệch giữa hai khu ruộng, Thành Đạt
càng thêm căm tức đám ‘cao quý’ kia. Gã ngồi xuống đất, đưa tay nắm lấy một
khóm linh lương, nhắm mắt lại, từ từ vận Thanh Mộc Thuật, một thuật trong Ngũ
Hành Nông Thuật, có tác dụng giúp tu sĩ có thể thăm dò thực trạng của cây trồng,
tìm ra những vấn đề có thể gây hại cho cây trồng như sâu hại, bệnh tật... từ đó
mau chóng chữa trị, chăm sóc cây trồng, tránh được những hậu quả đáng tiếc.
Thanh Mộc Khí màu xanh nhạt, hơi mờ mờ nhẹ nhàng hiện ra, âm thầm chìm vào
trong nội thể của khóm linh lương. Thành Đạt nhanh chóng cảm nhận được toàn bộ
nội tình bên trong thể nội của khóm linh lương đó. Thanh Mộc Khí ba động mạnh mẽ
làm Thành Đạt kinh hãi. Đó là dấu hiệu cho thấy tiên thuật phát hiện ra dấu hiệu
bất thường bên trong khóm linh lương, nếu không lập tức có biện pháp đối phó
ngay thì hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng. Thành Đạt vội vàng truyền thần thức của
mình vào trong Linh Mộc khí nhanh chóng tìm đến nơi xảy ra vấn đề.
“Ngạ trùng!
Đáng chết! Sao đám súc sinh này lại ám ruộng linh điền của ta.”
Thần thức vừa
đến nơi có vấn đề trong khóm linh lương, Thành Đạt liền phát hiện ra hung thủ
đang uy hiếp đến sự sinh trưởng của đám linh lương của gã. Đó là một bầy côn
trùng cực kỳ nhỏ bé có màu đen sạm được biết đến với tên gọi là ngạ trùng. Đám
côn trùng này cùng với phệ trùng là hai loài sâu hại cấp thấp thường xuyên gây
hại cho linh lương (sâu hại cấp cao hơn thì thường tìm đến gây hại ở những loại
linh thảo cao cấp hơn). Trước nay, khu linh điền của Thành Đạt cũng có vài lần
bị sâu hại phá hoại, nhưng tất cả đều chỉ do loài phệ trùng yếu kém kia gây họa.
Loài sâu hại ngạ trùng này bất kể là về mức độ nguy hiểm hay độ khó đối phó đều
cao hơn loài phệ trùng đến mấy lần. Thông thường, nếu linh lương đụng phải thì
tu giả phải sử dụng một trong hai loại tiên thuật Cang Kim Thuật hay Nhiệt Khí
Thuật để tiêu diệt chúng. Nhưng hai loại tiên thuật này đều thuộc về hai hệ
linh khí tương khắc với mộc, rất có hại cho cây trồng nếu dùng quá mạnh tay thì
hậu quả mà cây trồng phải gánh chịu có khi còn đáng sợ hơn cả đám sâu hại. Khi
gặp phải đám ngạ trùng này, các đệ tử trong Thiên Linh Môn chỉ có một cách đối
phó là cầu cứu mấy vị sư huynh pháp thuật tinh thâm, nhiều kinh nghiệm đối phó
với sâu hại ra tay giúp đỡ. Thành Đạt đâu thể sử dụng phương pháp này. Thường
thường, gã hay bỏ mặc chúng đấy cho ông giời định đoạt. Dù sao pháp thuật thô
thiển của gã dứt khoát tàn phá cây trồng mạnh mẽ gấp hàng ngàn hàng vạn lần so với
bất kỳ loại sâu hại nào trên thế giới này. Sâu hại cỡ này cùng lắm chỉ làm giảm
sản lượng cây trồng nhưng pháp thuật của gã thì có đến chín phần lập tức giết
chết ngay cả khóm linh lương mới sơ nhiễm bệnh này. Nhưng hôm nay thì lại khác.
Hôm nay vì một lý do không đầu không đũa, tính ghen ghét và cả sự thù hận vốn ẩn
sâu trong lòng gã lại bùng lên