Kỉ Xám
Tôi chưa bao giờ ghét bỏ quê hương mình.
Tôi yêu những hoang mạc đầy cát bụi, tôi yêu những đồng cỏ
xa van cằn cỗi. Tôi yêu các cuộc ẩu đả trong quán Bar. Tôi yêu mấy con ngựa
thích thở phì phò được các chàng chăn bò cưỡi. Tôi yêu cái lạnh rét người của
buổi đêm, và cái nóng cháy da của ánh nắng ban ngày. Dù khắc nghiệt, nhưng đó lại
là động lực mà bao đời thanh niên trai tráng phương Nam tự nhắc nhở chính mình
nhằm mạnh mẽ hơn, để có thể bảo vệ chính mình, và bảo vệ những người mình
thương yêu.
Tôi tự hào bản thân là một người con của đất phương Nam.
Thế…tại sao tôi lại từ bỏ nơi mình yêu quý, từ bỏ những con
người mà mình yêu thương để bước chân đến cái chốn xa lạ này ?
Người ta nói số phận là con buôn chuyên bán sự tàn độc…Có lẽ
là thế.
------
Cậu bé tiếp tục ngồi quanh cửa sổ, chăm chú chìm vào quyển cổ
thư được đặt trên bàn làm việc. Ánh nắng găng gắt dù nóng nhưng vẫn làm tốt được
nhiệm vụ soi sáng cho cậu bé. Cái nóng không phải là vấn đề, cậu bé nghĩ khó
khăn thật sự đến từ quyển cổ thư: chữ không bị nhoè thì cũng mất đi vài trang,
một là do thời gian hoặc bảo quản không cẩn thận, hai là do mối. Cả hai lí do
cái nào cũng có lí, không chỉ căn nhà cũ kĩ mà cậu đang sống là nạn nhân của lũ
mối, gia đình cậu cũng không có truyền thống giữ gìn và bảo quản những vật dụng
không liên quan đến mình. Đã hai đời dòng họ ibn Hayyan giữ chức cảnh sát trưởng,
giữa sổ sách hồ sơ lưu trữ thông tin những vụ việc xảy ra trong thị trấn và
sách phép thuật cùng giả kim của các vị tổ tiên vốn đã thăng thiên từ lâu, dĩ
nhiên ngài cảnh sát trưởng sẽ chăm chú đến sổ sách. Các vị tổ tiên đã có bàn thờ,
không cần phải giữ lại nhiều di vật đến thế. Do đó, cậu bé chỉ có thể cố gắng kết
nối lại những vết chữ mờ cùng các đoạn bị mất rồi viết chúng lên một quyển sổ
tay nhỏ, còn những gì mất quá nhiều, cậu chỉ có thể…chế ra theo cách logic nhất
rồi làm theo.
Đâu đó quanh nhà, tiếng xì xì của ấm nước đun sôi bắt đầu bớt
dần rồi tắt ngúm nhờ vào cơ chế tự động. Thật là tốt – cậu bé nghĩ, ít ra lần sửa
này đã đỡ hơn trước, sau hơn ba lần tự sửa, sức kiên nhẫn của cha cậu cũng đã đến
giới hạn, nếu như ông thợ máy của thị trấn không ra tay giải quyết, gia đình cậu
ắt hẳn đã phải trút lấy mớ quỹ ít ỏi để mua một ấm nước mới.
“Có lẽ như vậy là được.”
Cậu bé tự thưởng cho bản thân vài phút nghỉ dưỡng. Qúa trình
xử lý những phân đoạn bị mất cũng còn khoảng 50% nữa là hoàn thành. Với tiến độ
này chừng một tuần nữa là xong. May rằng thời gian rảnh của cậu khá nhiều do trẻ
con trong Thị trấn ít được đi học. Chủ yếu những đứa trẻ sinh ra trong Thị trấn
thường được người lớn đích thân dạy dỗ để kế nghiệp gia đình. Nếu có trường hợp
đặc biệt, chắc có thể kể đến cậu bé này đây.
“Tiếp theo là…”
Cậu bé nhảy ra khỏi chiếc ghế cao quá tầm. 6 tuổi, một cậu
bé 6 tuổi đã tự cho bản thân trách nhiệm phải ngồi lên một chiếc ghế như thế.
Liệu số phận thật sự nghiệt ngã ? Cậu bé có lẽ còn không biết sự tồn tại của số
phận, vận mệnh. Trong đầu cậu chỉ có mục tiêu cần hoàn thành, và cách để đạt được
chúng. Cậu bé đến chỗ ấm nước sôi, đạt một chiếc ghế nhỏ lên mặt đất, dùng nó
mà đứng lên để với tới cái ấm. Khối lượng của ấm nước bắt đầu khiến cậu bé nhận
ra giới hạn của tuổi tác bản thân, nhưng liệu nó có nặng bằng thứ trách nhiệm
vô hình mà cậu tự nhủ bản thân phải gánh vác ?
Với ấm nước sôi, cậu bé rót ra một ly nước nóng, sau đó đổ một
ít thuốc mà bác sĩ kê đơn vào trong ly nước rồi dùng muỗng quậy lên. Vậy là tạm
thời xong – cậu nghĩ.
Cậu bé trở lại phòng khách đơn sơ, là nơi mà cậu lúc nào
cũng ngồi học, vừa để trông nhà, vừa để canh tù binh trong khu xà lim đặc chế
được bố cậu tu sửa lại từ một phòng trống cạnh phòng khách. Ngoài ra, nhiệm vụ
của cậu còn có…
“Mary. Tới giờ uống thuốc rồi em.”
Trông coi cho đứa em gái bệnh tật của mình. Để hoàn thành
cùng lúc cả ba mục tiêu, vị cảnh sát trưởng đã bắt con bé phải ở dưới phòng
khách để tiện đường chăm sóc.
Cậu bé cầm ly thuốc cẩn thận, đi lại gần đứa em gái 4 tuổi yếu
ớt đang nằm trên chiếc ghế bành duy nhất của phòng khách. Cậu bé đưa tay lên
trán của cô bé tóc nâu để kiểm tra nhiệt độ. Nóng… - Cậu bé chỉ biết nhận xét
như thế, chứ không thể diễn tả chính xác nhiệt độ là bao nhiêu. Cậu chỉ biết nó
nóng hơn cả hoang mạc xung quanh. Đó là lí do cho chiếc quạt máy cạnh đó và cục
nước đá ở trước, do gia đình cậu không đủ tiền sắm máy điều hoà.
“Dậy nào…”
Mary vẫn còn đang chìm trong giấc ngủ, chỉ khi một ai đó
đích thân đánh động con bé thì Mary mới dậy được. Dù không muốn, nhưng cậu bé
thật sự cần phải đánh thức con bé. Với “căn bệnh” này, giấc ngủ dường như là cứu
cánh duy nhất của con bé để thoát khỏi đau đớn. Thứ thuốc trên tay cậu cũng vậy,
nó chỉ là thuốc giảm đau, đóng vai trò một giải pháp tạm thời để trì hoãn ngày
định mệnh vậy.
“Anh hai…Nó đau…”
Mary khi tỉnh dậy liền ôm ngay bắp tay trái của mình, gương
mặt để lộ một ít đau đớn mặc dù con bé không hề muốn anh trai phải lo lắng. Cậu
bé nhìn thấy rõ chuyện đó, ngay lập tức liền cố thúc con bé uống thuốc nhanh.
Sau khi thổi dần dần hơi nóng ra khỏi cốc thuốc, con bé uống lấy ly thuốc của
mình. Phải tốn thêm một lúc nữa, thuốc mới có tác dụng, cơn đau đã giảm đi nhiều,
nhưng chúng chưa hoàn toàn biến mất.
“Em ngồi dậy được không ? Mary. Anh cần phải thay băng cho
em.”
Cậu bé nhận xét sau khi Mary buông bắp tay trái của mình ra.
Lớp băng quấn ngang bắp tay giờ đã đen xì không rõ nguyên do. Cậu bé tháo băng
ra, để lộ một Ma Ấn được viết bằng Diêm ngữ trên bắp tay Mary, với máu đen chảy
ra không ngừng ngay sau khi lớp băng được tháo. Chúng vốn là Thánh băng do một
số Tu sĩ trong Thị trấn tặng nhằm kiềm hãm lại ma lực của cơn bệnh, nhưng có lẽ
chúng vẫn không đủ để ngăn chặn một lời nguyền đến từ một trong 72 vua quỷ của
Địa ngục.
Phải…cơn bệnh và lời nguyền. Thứ mà Mary đang chịu đựng
chính là dung hợp của cả hai. Nó là một lời nguyền rủa của quỷ, nhưng lại đến
mang nhiều đặc tính của một cơn bệnh thông thường. Nó chưa có một cái tên chính
thức, nhưng trong mắt vô vàn nạn nhân của con quỷ, nó được đặt tên theo kẻ thủ
ác tàn độc – lời nguyền của Glasya-Labolas. Được truyền vào nạn nhân khi con quỷ
trút máu của mình và lẫn vào cơ thể kẻ xấu số. Lời nguyền khi đó sẽ gây nên một
nỗi đau đớn tột cùng lên cơ thể kẻ dính phải, và đến một lúc ngẫu nhiên nào đó,
một là cơ thể của nạn nhân sẽ không còn sức chịu đựng và chết, hai là người bệnh
bị biến thành quỷ nếu như còn sống được tới ngày đó. Dù là kết cục nào thì cũng
thật là đau lòng. Đó là trò chơi của quỷ, như những nạn nhân còn sống hay nói:
Glasya-Labolas tạo nên lời nguyền này để làm một trò cá cược tiêu khiển với các
Vua quỷ khác: “Liệu sẽ tốn bao lâu, cho đến khi chúng ngừng van xin “Cứu tôi”
và thay vào đó thét lên “Giết tôi đi !” để giải thoát chính mình ?”
Trong Kỉ Bóng Tối, Glasya-Labolas đã bị Lục đại anh hùng
tiêu diệt, và những nạn nhân của nó đã dần dần hồi phục sau khi không còn cảm
giác đau đớn. Nhưng dường như bóng ma của nó vẫn còn ám ảnh thế gian này, con
cháu của những người từng là nạn nhân, đến một lúc ngẫu nhiên nào đó trong cuộc
sống cũng bắt đầu xuất hiện triệu chứng của lời nguyền này. Do tính chất di
truyền, người ta gọi nó như một căn bệnh và bắt đầu tìm kiếm thuốc chữa trong
vô vọng. Cậu bé đã mất một người mẹ do nó, liệu tiếp theo sẽ tới lượt cô em gái
luôn chăng ? Hay đến một lúc nào đó, chính cậu nhận ra bản thân cũng đang nằm
trong tình trạng tương tự ?
“Xong rồi này…”
Cậu bé hoàn tất khâu băng bó lại Ma ấn của con bé. Dường như
trong tương lai, con bé có nguy cơ trở thành Quỷ…chứng cứ có lẽ là do màu máu của
Mary, nó đã trở nên đen thẫm như máu quỷ. Nhưng không sao, vẫn còn thời gian… -
cậu bé nghĩ. Căn bệnh này tốn một thời gian dài mới phát tán hoàn toàn, trước
đó chỉ là một chuỗi đau đớn không kiểm soát được, thế nên đa số người mắc phải
mà chết sớm đều do chịu không được sự đau đớn này. Cậu bé chỉ mong Mary đủ mạnh
để có thể chịu đựng được…cho đến ngày tìm được thuốc giải, hoặc đến khi chính cậu
tạo ra được thuốc giải.
Đã gần một năm kể từ khi lời nguyền phát tán. Đó cũng là lúc
mà gia đình ibn Hayyan trở nên lạnh lẽo hẳn đi. Cha cậu – vị cảnh sát trưởng,
liên tục bù đầu vào công việc, xa cách với cả cậu lẫn cô con gái, giống như chuẩn
bị tâm lý cho bản thân để chờ đợi ngày định mệnh mà thi hành án tử. Điều đó khiến
cho mọi việc trong nhà rơi vào tay của cậu bé 6 tuổi này. Nhưng cậu không màn
chuyện đó, Aster ibn Hayyan…nhất định sẽ không bao giờ bỏ cuộc !
“Em thấy thế nào rồi ?” – Cậu bé Aster nói.
“Đỡ hơn nhiều rồi…cảm ơn anh hai.” – Mary nằm xuống ghế
bành, cô bé 4 tuổi nở một nụ cười hồn nhiên nhưng gượng ngùng trong cơn đau để
xoa dịu anh trai mình. – “Cà ri hôm nay anh nấu ngon lắm. Cảm ơn anh.”
Cậu bé quay đầu về chiếc dĩa cơm cà ri trống trên chiếc bàn
thấp gần đó, không còn một hạt cơm nào được sót lại. Dù cay, dù nóng, Mary vẫn
ăn hết bữa sáng của mình. Với cô bé, đó là món ăn mà Mary có thể cho là “yêu
thích”. Không hẳn là do ngon, vì nó rất là nóng và cay. Có lẽ…do nó là thứ duy
nhất mà anh trai cô bé biết nấu, thế nên, chỉ cần là món nào Aster nấu, với
Mary, nó sẽ luôn là món mà cô bé yêu thích.
“Cứ như được ăn đồ ăn mẹ nấu vậy.” – Mary nói tiếp.
“Thì công thức nấu là do mẹ truyền lại cho anh mà.” – Cậu bé
6 tuổi trả lời – “Và cũng là món duy nhất mẹ biết nấu…Đó là cà ri gia truyền của
dòng họ ngoại chúng ta đó ! Em liệu mà nhanh chóng khoẻ lại đi, chứ không về
sau anh lấy vợ, thì món cà ri đó sẽ thất truyền cho mà coi !”
“Hi hi. Đã rõ…” – Mary lại nở một nụ cười nhẹ, lần này có vẻ
tươi vui hơn nụ cười ban đầu. – “Em sẽ chờ cho tới ngày bản thân có thể khoẻ mạnh
lại, để mà nấu cà ri cho anh…và cho cha ăn.”
“Ừm…từ giờ tới lúc đó. Hãy cố gắng đợi anh.” – Aster nắm lấy
bàn tay nhỏ nhắn của con bé, bóp nhẹ nó để thể hiện quyết tâm của bản thân.
Aster biết những gì mình mong muốn có lẽ là rất điên rồ, do cả cha cậu cũng đã
bỏ cuộc, nhưng cậu không muốn để quảng thời gian còn lại trong cuộc đời bản
thân được dùng để quan sát cái chết báo trước của cô em gái.
~Leng keng~
Ngay khi Mary bắt đầu nằm xuống và cố gắng ngủ trở lại, cánh
cửa phòng khách được mở tung ra, nhanh nhưng không hề mạnh bạo. Bước vào trong
là một người đàn ông to lớn, bận trên mình một bộ quân phục cũ, nay được dùng
như một loại đồng phục làm nhiệm vụ. Tấm phù hiệu hình ngôi sao vàng trên ngực
cho thấy người này là vị cảnh sát trưởng uy danh, một trong những tay súng lợi
hại nhất hoang mạc phương Nam. Người đời đồn đại rằng ông từng bị bắn những 50
lần trên lưng, nhưng vẫn sống sót và tiếp tục thực thi nhiệm vụ cảnh sát trưởng.
Mỗi khi người đàn ông với hàng râu nâu lởm chởm dưới cằm xuất hiện tại đâu, thì
cứ biết rằng mọi cuộc ẩu đả, hỗn loạn nào đang diễn ra đều phải chuẩn bị mà kết
thúc. Đó có thể cho là hình ảnh của Bill ibn Hayyan trong mắt người dân phương
Nam. Nhưng với Aster, vị gia chủ này chỉ là một ông bố tệ bạc, ngoại trừ đem tiền
về cho gia đình thì Bill không hề làm một việc gì khác cả.
“Vào đây.”
Bill không nói gì với cậu con trai đang nhìn về phía mình
ngay khi bước chân vào cửa, ông chỉ nói cho kẻ đi theo sau ông nghe. Mà dùng từ
“đi sau” có lẽ hơi sang trọng cho một tên tội phạm. Tay của Bill cầm đầu của sợi
dây xích nối tới vòng cổ tay ma thuật kìm hãm tên tội phạm phía sau ông lại. Một
khi bị còng bởi thứ này, chỉ cần không phải thần thánh hoặc quỷ thần hoặc những
ai đủ mạnh để gọi như vậy, thì sẽ không thể nào sử dụng được phép thuật hoặc
dùng sức để giải phóng bản thân.
“Này này. Ông giảm nhẹ bản án được không cảnh sát trưởng ?
Tôi chỉ để quên ví tiền tại nhà hàng thôi mà, có cần phải giam tôi lại đâu ?”
“Thế thì vào trong đó chờ ví mọc chân ra để chạy đến tìm
ngươi đi. Tên ăn quỵt. Ta còn nhiều chuyện khác phải làm.”
Bill dắt tên tội phạm xấu số vào trong phòng khách, ông mở cửa
xà lim rồi nhanh chóng tống tên ăn quỵt miệng mồm lẻo mép vào trong. Những chuyện
như thế này Bill thường giao cho nhà hàng chịu trách nhiệm xử lý, nhưng tình thế
hiện tại không được bình thường cho lắm. Tên ăn quỵt này lợi dụng một vụ ẩu đả
trong nhà hàng để chạy thoát, Bill dự định ngăn cản cuộc ẩu đả, nhưng quy mô của
nó khá lớn, khoảng 20 người đánh nhau vì bất đồng quan điểm trong việc chia chiến
lợi phẩm phiêu lưu. Bill cần thêm hỗ trợ, nên ông mới tiện tay bắt tên này về để
giam giữ khi đi gọi đồng minh và về nhà lấy thêm vũ khí. Khẩu súng bạc gia truyền
trên thắt lưng của ông dù lợi hại, nhưng để đối đầu với nhiều phiêu lưu giả
cùng một lúc, Bill cần hoả lực mạnh hơn nữa. Ông lấy một khẩu súng săn hai nòng
chuyên dùng để diệt…voi rồi bước đến cửa ra sau khi khoá xà lim lại.
“Canh chừng tên đó cho cẩn thận, Aster.”
“Vâng…”
Bill đóng ập cửa lại, những gì còn lại Aster nghe được chính
là tiếng vó ngựa của cha và đồng đội. Căn nhà trở dần trở nên im ắng sau khi
cơn bão tên gọi Bill đi qua. Mary lúc nãy chỉ giả vờ ngủ để yên thân, bây giờ
cũng bắt đầu ngồi dậy trở lại. Nếu có thứ gì con bé sợ hơn cái chết, có lẽ là
chính cha của mình – người đã đích thân nổ súng hạ sát người mẹ đang dần trở
thành quỷ…
“Em có sao không Mary ?” – Aster hỏi khi cậu bắt đầu cầm bát
đĩa và ly tách đi dọn dẹp.
“Không…em không sao…Em chỉ sợ thôi.” – Mary nói – “Cha cầm
súng săn…nghĩa là sắp có đổ máu.”
“Đó là trách nhiệm của một cảnh sát trưởng…em hiểu chứ Mary.
Để duy trì bình yên của một quần thể, thì những cá nhân gây hại cần phải được
triệt tiêu…” – Như mẹ của chúng ta vậy…Aster muốn nói thế, nhưng làm vậy chẳng
khác nào dùng dao đâm một vết thương đang rỉ máu. – “Thôi em nghỉ đi. Đã có anh
ở đây rồi, không cần sợ đâu.”
“Vâng…” – Mary lặng lẽ nói, rồi cố gắng trở lại giấc ngủ.
Hầy… - Aster thở dài, việc nhà còn nhiều, cậu bé không có thời
gian để tiếp tục lo lắng suy tư. Sau khi rửa bát đĩa và ly tách, Aster trở lại
ra phòng khách rồi nhặt lấy mớ Thánh băng đã ngả đen do máu. Nhìn chúng, Aster
không tránh khỏi suy tư, cậu tự hỏi còn bao nhiêu lâu nữa là sẽ tới ngày định mệnh…
“Qủa là một căn bệnh kì lạ mà em gái cậu nhiễm đấy, cậu nhóc
nhỏ.”
Một giọng nói lạ lẫm phát ra, Aster, tay cầm mớ băng đen, đứng
dậy mà bàng hoàng không biết âm thanh đó đến từ đâu. Cha cậu đã đi, Mary đang cố
ngủ. Cả phòng chỉ có một vị khách lạ không mời được cha cậu đưa tới. Đó là tên
ăn quỵt đang ở trong xà lim.
“Ông thì biết gì chứ !”
Aster phản đáp và lên giọng trước kẻ lạ mặt. Hắn ta khá cao,
nhưng dáng người lại thư sinh vô cùng. Dáng vẻ sơ qua của hắn ta không cho thấy
tên này là người có học thức, hắn giống một tên phiêu lưu giả vô dụng, đóng vai
trò tấu hài nhiều hơn là đánh đấm. Aster do vẫn còn con nít, nên cậu không biết
rõ phục trang hắn ta đang mang là gì, nhưng với con mắt của người thường, y phục
của hắn ta cũng vô cùng lạ lẫm: một loại lễ phục đen đỏ kì lạ, với áo đen mang
bên trong, còn áo đỏ khoác ngoài kể cả khi nơi đây là hoang mạc. Nhưng nếu có
gì kì lạ hơn, có lẽ là màu tóc và màu mắt của hắn: tóc của hắn bạc trắng như
người già, còn mắt thì lại đỏ rực như màu máu.
“Tôi biết đủ những gì cần biết, cậu nhóc nhỏ ạ.” – Người lạ
mặt đứng dậy, đi đến ngay cạnh cổng xà lim rồi nói – “Lời nguyền của
Glasya-Labolas. Trên chuyến phiêu lưu của tôi, số người mắc phải nó cầu xin được
chết tôi mà thấy không hề ít tí nào. Thế…theo cậu, hiểu biết của tôi liệu có đáng
tin không ?”
“Nếu như ông không biết cách giải thì kiểu nào cũng vô dụng.”
– Cậu bé Aster trả lời.
“Đó lúc nào cũng là vấn đề cả.” – Người lạ mặt nói – “Vì thế,
bọn họ - những nạn nhân đó - cần những người như cậu để tìm ra thuốc giải nhằm
cứu nhân độ thế.”
“Rốt cuộc ông muốn gì hả ? Ông muốn tôi mở xà lim cho ông chạy
thoát bởi vì ông cứ liên tục bợ đít tôi à ?” – Aster phản đáp.
“Ô hô. Còn bé mà ăn nói mạnh bạo thế nhỉ. Giống y chang cha
cậu.” – Người lạ mặt lùi lại vài bước khi Aster lên giọng, hắn ta tạo cho người
đối diện hình ảnh của một kẻ yếu thế, nhưng thực ra chỉ giả vờ nhằm châm chọc đối
phương. Nếu có loại người nào mà Aster thật sự ghét, có lẽ là những tên như thế
này. – “Ờ mà cậu nói đúng thật. Giờ cậu biết luôn ý định của tôi rồi, vậy chắc
không cần dụ khị nữa, bỏ qua khâu đó rồi mở xà lim cho tôi luôn nhé ? Hì hì.”
“Ngồi trong đó chờ đến mục xương đi !” – Aster trả lời, cậu
làm ngơ và bỏ mặc luôn tên đó. Aster cầm mớ băng dính đầy máu đen bỏ thùng rác.
Sau khi ăn xong bữa trưa của mình trong bếp – vốn cũng là cà ri, Aster trở lại
phòng khách. Tên tội nhân giờ này đã ngồi im, hướng về phía cửa sổ nhỏ đối diện
hắn mà nhìn vào ánh mặt trời bên ngoài. Mary đã dần thiếp đi. Có lẽ tên này
không tệ như Aster tưởng, ít ra hắn ta không cố dụ khị Mary sau khi thất bại với
Aster như nhiều tên tội nhân khác bị cha cậu giam giữ. Hoặc hắn đã cố, nhưng
Mary thì thiếp đi từ lúc nào rồi…
Aster trở lại bàn làm việc. Cậu mở quyển cổ thư khi nãy ra
và tiếp tục công việc tái tạo lại những phần đã mất. Mọi chuyện tiếp tục im ắng
trong hơn 1 tiếng nữa. Mary lúc này đã say ngủ, Aster vẫn chìm đắm trong công
việc. Nhưng lạ thay, người lẽ ra phải là nhân tố lạ nhất trong tình cảnh này –
tên phạm nhân, cũng im lặng theo, không làm phiền hà gì đến trật tự ban đầu
trong căn phòng. Aster đã quen với việc bị những người trong xà lim gây phiền
nhiễu khi đang làm việc, nhưng đây là lần đầu cậu bé gặp một tên im lặng như vậy
mặc dù hắn ta đã mở miệng dụ khị cậu ta. Aster quay lại, nhìn ngắm kẻ lạ mặt một
tí, và cậu để ý rằng…thứ hắn đang ngắm nhìn thật sự không phải là ánh mặt trời
chói chan ngoài kia, mà là một chậu cây chết khô ở trên cửa sổ xà lim.
“Này nhóc.” – Cứ như có mắt ở sau gáy, tên ăn quỵt kia lên
tiếng ngay khi Aster quan sát hắn được một lúc. – “Nhóc có biết tại sao cây
quang hợp không ?”
“Để duy trì sự sống cho chính nó ? Chẳng phải đó là kiến thức
thông thường ư ?” – Aster trả lời. Chuyện này so với những gì cậu đang nghiên cứu
chỉ là trò vặt vãnh trẻ con.
“Đó là một phần, phần còn lại là để tạo ra Oxi cho chúng ta
thở.” – Kẻ lạ mặt nói – “Cũng thật oái ăm thay, khi về đêm, chúng lại tạo ra
khí cacbon đioxít như cách hô hấp của sinh vật sống. Có lẽ cậu cũng biết cacbon
đioxít có lợi gì cho chúng ta rồi chứ nhỉ ?”
“Ý của ông là gì ?”
“Chẳng có gì hết, chỉ là một chút suy nghĩ bâng quơ của một
lãng khách mà thôi.” – Gã nói – “Nhóc này, cậu có nghĩ rằng thật là lạ…khi hệ
thống ma thuật của cả thế giới này được xoay quanh ánh sáng không ? Các pháp
sư, không, bất cứ chiến binh nào đều có thể tung hoành dưới ánh sáng, nhưng khi
vì đêm, họ trở thành một đám vô dụng.”
“Nghĩa là…?”
“Theo một cách nói nào đó, chẳng phải sinh linh chúng ta
cũng như cây cỏ à ?” – Người đàn ông quay lại Aster và nói – “Khi tràn ngập
trong ánh sáng ấm áp và vui vẻ, chúng ta cảm thấy hạnh phúc, và tạo ra hạnh
phúc cho người khác. Nhưng trong bóng tối của tuyệt vọng, chúng ta lại giỏi làm
khổ người khác nhiều hơn.”
“Tôi vẫn chưa hiểu lắm.” – Aster lại hỏi.
“Hy vọng, cậu nhóc ạ. Hy vọng. Tôi biết những gì tôi nói rất
khó hiểu và phi logic, vì bản thân ta còn không hiểu được huống gì nhóc đây. Ha
ha.” – Gã lạ mặt cười nhẹ - “Chỉ là, tôi thấy nhóc nghiêm trọng quá, trong khi
với tuổi trẻ, thứ quan trọng nhất lúc nào cũng chính là nụ cười. Phải, nụ cười
bằng mười thang thuốc bổ, cứ như tôi này, nhìn đi.”
Người đàn ông tóc trắng mắt đỏ nở ra một nụ cười lớn như để
minh hoạ cho những gì mình nói.
“Ông đừng nghĩ nói triết nửa mùa có thể kéo ông ra khỏi xà
lim.” – Aster nói tiếp – “Và cái chậu cây đó chết do bị chiếu nắng quá nhiều và
thiếu nước do không ai tưới, chứ không phải quang hợp kém mà chết để cho ông vịnh
ra mấy thứ triết lí đó đâu.”
“Hừ. Nhóc này chẳng vui tính gì cả.” – Gã ta dỗi – “Một lời
nói cuối: Nếu như nhóc muốn cứu lấy em gái, thì hãy làm điều đó với nụ cười
tràn ngập hy vọng trên môi. Chứ nếu cứ tiếp tục như nhóc hiện giờ, nhóc chỉ gây
đau đớn cho những người xung quanh mà thôi.”
“Tôi không cần một kẻ như ông dạy bảo !” – Aster quay trở lại
bàn làm việc, hoàn toàn lờ đi gã lạ mặt trong xà lim. Dù vậy, cậu bé 6 tuổi có
bị ảnh hưởng không ít thì cũng nhiều. Cây bút vốn lúc nào cũng múa quanh quanh
trên tập giấy trắng giờ lại đứt quãng liên tục. Aster ghét cảm giác này…cảm
giác khi sự thật đâm xuyên qua dối trá, nó như giọt nước rớt vào một mạch điện
đang hoạt động ngon lành. Để có thể đạt được nguyện vọng, Aster cần giỏi hơn,
giỏi một cách toàn diện, hoàn hảo. Cậu không cần bất cứ thứ gì gây cản trở cả…
Tên đó…hắn biết gì chứ, hắn không hiểu cậu, không bao giờ có thể hiểu cậu được
!
ẦM ẦM
Tiếng đập cửa khiến Aster thoát khỏi suy nghĩ mơ hồ. Khách à
? – Cậu bé nghĩ. Tiếng đập cửa lại vang lên, lần này liên hồi hơn, mạnh hơn,
khiến bụi cửa bay lung tung gần đó. Aster không đợi cho khách bên ngoài lên tiếng
gọi chủ nhà, cậu bé nhanh chóng nhảy khỏi ghế làm việc mà chạy đến mở cửa.
Trước mặt cậu bé 6 tuổi là một nhóm 4 người, kèm theo một
người quen mặt là ông Thị trưởng. Trừ Thị trưởng, những người còn lại mang áo
khoác dài màu trắng có mũ trùm đầu, tạo nên cho họ cảm giác bí ẩn nhưng vô cùng
nghiêm trang. Trên thắt lưng họ có nhiều dây đeo chứa vật dụng hỗ trợ, kèm theo
kiếm, đao, vũ khí nhiều loại. Họ là ai ?
“Đây là nhà ibn Hayyan ?” – Một giọng nói trẻ tuổi vang lên,
nhưng người đó không nói với Aster, mà là ông Thị trưởng.
“Vâng vâng…đích thị là đây.” – Ông Thị trưởng gật đầu lia lịa,
sau đó nhìn vào mắt của Aster với cái nhìn cảm thông, tiếc nuối. Như thế đủ cho
cậu bé nhận ra mình vừa rước một tai ương vào trong nhà.
“Tản ra !” – Giọng nói trẻ tuổi ra lệnh, ngay lập tức, ba
người áo khoác trắng còn lại lao vào trong, đẩy cả Aster ra khi cậu bé vô vọng
cố gắng giữ bọn họ lại. Aster ngay sau đó nghe rõ tiếng lục lọi ở sau nhà. Chẳng
nhẽ là cướp à ? – Cậu bé nghĩ. Nhưng không có băng cướp nào được đích thân Thị
trưởng mời đến nhà nạn nhân. Họ cao quý hơn thế, vậy, rốt cuộc họ là ai ?
“Đây là cô bé đó ư ?” – Người chỉ huy trẻ cũng bước vào
trong nhà, hắn ta nhìn vào Mary – cô bé 4 tuổi vẫn đang say ngủ, sức khoẻ yếu của
cô bé khiến cho Mary một khi đã chìm vào giấc ngủ thì rất khó để mà tỉnh dậy trừ
khi được đích thân người khác đánh thức.
“Vâng. Đúng là con bé.” – Lão thị trưởng lại gật gù. Tay cầm
chiếc khăn mù xoa rẻ tiền cố gắng quẹt hết mớ mồ hôi đang chảy không dứt trên
gương mặt đầy nếp nhăn của lão.
“Mấy người tính làm gì ???” – Aster nói lớn, cậu bé nhanh
chóng lao về hướng của Mary, đưa hai tay chắn ngang không cho tên chỉ huy trẻ
tiến thêm bước nữa về phía Mary.
“Thưa ngài, đây ạ.” – Một giọng nữ trong nhóm 4 người nói
sau khi hoàn tất quá trình tìm kiếm, trên tay của người đó…là dải Thánh băng mà
Aster đã tháo ra khỏi tay Mary, vẫn còn đó dòng máu đen dính ở trên…. – “Không
còn nghi ngờ gì, đây là máu quỷ…”
“Vậy Ma Ấn đang dần biến cô bé thành quỷ…Có lẽ chuyện này
không thể tránh được rồi. Cảm ơn ông, ngài thị trưởng, đã báo cáo cho chúng tôi
biết về chuyện này. Nếu như để lâu hơn mà không có hành động gì, tôi sợ thương
vong cho cả Thị trấn sẽ không ít.” – Người chỉ huy trẻ trạc tuổi 20 nói, kèm
theo một câu nói mỉa mai châm chọc – “Như thế ắt hẳn sẽ không tốt cho cuộc vận
động nhiệm kì hai và ba của ông nhỉ…?”
Lão Thị trưởng không nói gì, chỉ gật gù liên tục, kể cả khi
ánh mắt căm ghét của cậu bé Aster đang hướng về phía lão ta.
“Các người định làm gì ???” – Aster thét lớn, cậu tiếp tục
đưa bản thân ra làm khiên chắn cho Mary.
“Làm những gì cần làm. Tránh ra ngay, cậu bé, nếu không thì
đừng trách ta độc ác.” – Tên chỉ huy nói.
“Không !”
Đáp lại lời nói mạnh bạo của Aster…là một cú đánh tạt ngang
ngay má. Lực đánh khiến Aster văng vào tủ sách gần đó, khiến cho sách vở đổ ngổn
ngang, giấy tờ phát tán khắp nơi trong phòng, bay lơ lửng trong không khí.
Trong lúc Aster cố gắng dựng dậy, tên chỉ huy rút kiếm khỏi
vỏ. Một thanh kiếm sáng loáng, đủ hoa văn để nói rằng đây là bảo kiếm, không phải
mua ở đâu cũng được, nhưng sự thiếu thốn chi tiết đủ cho người khác biết đây vẫn
là vũ khí dùng để lấy đi sinh mạng, chứ không phải hàng trưng bày cho các gia tộc
giàu có. Một người khác trong nhóm cũng lục túi, gã ta cầm một quyển sách có biểu
tượng thập tự trên thân ra và đọc to nội dung bằng thứ ngôn ngữ lạ lẫm của Tổ
chức cả nhóm phục vụ. Tất cả như một buổi tế lễ uy nghiêm nào đó, với Mary là vật
tế, người đọc sách là thầy tu, còn tên cầm kiếm…là kẻ hành hình.
“Cầu cho linh hồn của những kẻ sa ngã được siêu thoát.” –
Người chỉ huy trẻ nói lên vài câu niệm rồi cầm kiếm vung xuống. Tốc độ của
nó…dĩ nhiên phải nhanh hơn tốc độ của một cậu bé 6 tuổi đang lao tới cố gắng
van xin gấp nhiều lần.
KENG
Mọi hy vọng hầu như đã bị dập tắt, thanh kiếm sắt lao thẳng
xuống mục tiêu. Nhưng liệu âm thanh của kim loại lao vào xác thịt có để lại một
tiếng động như thế không ? Chắc chắn là không. Chưa có lúc nào mà Aster cảm thấy
những người tạo ra chiếc còng tay mà nhà cậu dùng lại tài ba đến thế, vì đó là
thứ đã bảo vệ cho em gái Mary của cậu khỏi đường gươm tử thần. Trong lúc gã cầm
kiếm tung kiếm, tên ăn quỵt trong xà lim không biết làm cách nào mà thoát khỏi
đó rồi lao ra, dùng chiếc còng đỡ lấy đường kiếm, bảo vệ Mary cũng như chính bản
thân hắn ta.
Aster quay sang nhìn lại xà lim. Một phần song sắt đã bị cắt
đi không rõ vì thứ gì. Thật là vô lí, không tính tới cặp còng làm giới hạn khả
năng sử dụng ma thuật, cả xà lim cũng được các kĩ sư gia cố để tác nhân vật lý
thông thường không làm gì được. Dễ dàng vượt qua hai thứ đó…liệu đây là một tên
ăn quỵt bình thương ư ?
“Ngươi…ngươi có biết ngươi đang làm gì không tên kia ?” –
Tên cầm kiếm nói, giọng của gã dù vẫn giữ được bình tĩnh, nhưng đã có chút ít
giận dữ lộ ra.
“Chống đối người thi hành công vụ chứ gì ? Không cần bảo tôi
cũng biết. Đao phủ trẻ tuổi của Toà án Dị giáo ạ.” – Tên ăn quỵt cười nhẹ và trả
lời.
Toà án Dị giáo. Đó là một chi nhánh của Bộ giáo dục, dù trực
thuộc Bộ, nhưng nó giống như một tổ chức quân sự riêng lẻ, được lập ra để giải
quyết những vấn đề liên quan tới Ma tộc, quỷ và những thứ đi ngược lại luật lệ
tự nhiên của ma thuật mà Bộ giáo dục đề ra – gọi chung là Dị giáo. Những chiến
binh mang trên mình áo khoác trùm đầu trắng tinh, họ được gọi là Đao phủ - những
người hành hình của Toà án.
“Ngươi biết luật đó à ? Nếu vậy, ta không biết liệu ngươi có
hiểu chúng ta trừng phạt những kẻ vi phạm như thế nào không ?” – Gã Đao phủ trẻ
bắt đầu cười nhẹ khi con mồi mới xuất hiện, gã gia tăng thêm lực cho thanh kiếm,
cố gắng cắt đứt chiếc còng sắt để lao xuống ngay người tên phá đám trước mặt.
“Điều 4, khoản thứ 4, bộ luật Toà án Dị giáo: Những kẻ phạm
vào Điều 3, khoản 4 – Chống đối người thi hành công vụ, bị kết án tử không cần
xét xử bởi bất cứ Đao phủ nào gần nhất.” – Trong lúc ba Đao phủ còn lại chuẩn bị
vũ khí, tên ăn quỵt bắt đầu nói lên những điều luật hệt như ngôn ngữ mẹ đẻ. Dù
cách diễn đại còn sai như em bé bụ bẫm tập nói, nhưng nội dung chắc chắn là
chính xác, đủ khiến cho toàn bao Đao phủ trong phòng khựng lại vì điều đó. –
“Có vẻ như đúng rồi nhỉ ?”
“Làm sao ngươi biết được chuyện này ?” – Một tên Đao phủ bên
ngoài nói.
“Tôi biết sao không quan trọng. Vả lại, nếu mấy người xem kĩ
lại, tôi chưa hề vi phạm vào điều luật đó cả.”
“Cái gì ?” – Một nữ Đao phủ lên tiếng – “Ngươi rõ ràng chặn
kiếm của ngài Berard, như thế còn chối cãi được nữa à ? Mọi người trong căn
phòng đều có thể đứng ra làm chứng cả.”
“Các người có giấy xét xử từ Toà án không ?” – Tên ăn quỵt
nói – “Điều 5, khoản 1, bộ luật Toà án Dị giáo quy định: Mỗi nhiệm vụ của Đao
phủ chỉ được phép bắt đầu sau khi được cấp trên trao cho giấy xét xử để thực
thi nhiệm vụ.”
“Điều 4, khoản 2, bộ luật Toà án quy định: Nếu một Đao phủ gặp
sinh vật dị giáo, những người có các đặc điểm trùng với những điều được nêu
trong Quy định nhận dạng dị giáo, những người bị tình nghi là thực tập dị giáo
hoặc giúp đỡ người dị giáo, Đao phủ được quyền xử tử tại chỗ.” – Người được gọi
là Berard phản bác.
“Như thế mâu thuẫn với Điều 5, khoản 1. Điều mà cậu vừa nói
vốn chỉ được thi hành trong khi Điều 5, khoản 1 có hiệu lực. Tức là…các cậu phải
ở trong một nhiệm vụ nào đó, có được giấy xét xử của Toà án Dị giáo thì mới được
phép thực thi Điều 4, khoàn 2. Nếu như không thực thi nhiệm vụ mà các cậu ra
tay, như thế không được gọi là bài trừ dị giáo…” – Tên ăn quỵt nói tiếp – “…mà
là giết người. Chắc vị Đao phủ trẻ tuổi đẹp trai trước mặt tôi không thích biệt
danh Kẻ giết con nít đâu nhỉ ? Nếu nhìn sơ qua, có lẽ các vị Đao phủ trai thanh
gái tú đây vừa thực thi nhiệm vụ về và nghỉ chân tại Thị trấn, sau đó ông Thị
trưởng đáng kính đi ngang qua và ngụ ý lo sợ về con bé mang Ma Ấn. Nhân lúc gấu
cha vắng nhà, cả 5 anh em các người nhào vô trong và quyết định thực thi công
lý. Nếu như các người đã hoàn thành nhiệm vụ rồi thì ắt hẳn giấy xét xử đã hết
hiệu lực, nhưng nếu vẫn chưa, thì xin mời…”
Tên ăn quỵt ngay sau đó buông lỏng tay ra và đứng sang một
bên, dọn đường đến chỗ Mary cho người được gọi là Berard .
“Ngươi…làm thế nào mà ngươi biết được những thứ này ?”
“Tôi cũng không rảnh mà đi học luật lệ lạ lẫm. Chỉ là bản
thân tôi từng gặp trường hợp tương tự như thế này, và may mắn thay, trong tay
tôi lúc đó đang cầm quyển Luật nhỏ gọn của Toà án Dị giáo. Thế là chuyện xảy ra
gần như y hệt những gì các vị đang trải nghiệm.”
“Hừ…” – Vị chỉ huy im lặng, không làm gì thêm. Đúng như lời
kẻ lạ mặt nói, nhóm người của tên này vừa đi làm nhiệm vụ về và gặp ngài Thị
trưởng. Tự nhủ bản thân đây là điều đúng đắn, tự nhủ lương tâm rằng một cái chết
nhỏ sẽ cứu lấy cả trăm người, gã chỉ huy trẻ đã quyết định nhận việc…nhưng lại
gặp tình cảnh như thế này. Liệu thật sự may mắn lúc nào cũng đứng về những kẻ
quái dị ?
“Ngài Berard ?” – Một người trong nhóm Đao phủ nói.
“Hắn ta nói đúng, chúng ta nhận việc này mà không có giấy của
Toà án. Nếu như tiếp tục, chúng ta sẽ là sự hổ thẹn cho mọi người. Còn chờ gì nữa
mà không nhanh rút quân !”
“Vâ…vâng !!!” – Ba người còn lại nhanh chóng nhận lệnh, liền
tra vũ khí vào vỏ rồi nhanh chân chạy ra ngoài cùng với lão Thị trưởng.
“Ngươi có biết ngươi vừa làm gì không tội nhân ? Nếu như con
bé kia tiếp tục sống, đến thời khắc định mệnh mà số phận đặt ra, nó sẽ hạ sát cả
cái thị trấn nhỏ này, rồi chuyển sang mục tiêu khác cho tới ngày bị tiêu diệt.
Ngươi có định chịu trách nhiệm cho chuyện đó không ?”
“Đó là chuyện của cậu nhóc này đây.” – Gã ăn quỵt vỗ vai của
cậu bé Aster – người quan sát mọi chuyện từ đầu tới giờ bằng đôi tay bị còng chặt
lấy. – “Nó sẽ là người quyết định cho số phận của em gái mình, không phải là một
kẻ xa lạ như tôi…”
“…” – Gã Đao phủ im lặng, nhưng bên dưới lớp áo mũ trùm đầu,
có một nụ cười nhẹ ngắn ngủi được hiện lên. – “Ta là Thomas Berard, đội trưởng
đội Đao phủ số 4 của Toà án Dị giáo. Ta có cảm giác chúng ta sẽ gặp lại nhau
vào một ngày không xa. Liệu ta có thể được biết danh tánh của kẻ dám cả gan lao
ra chặn gươm của Thomas Berard này không ?”
“Tôi là người tốt.” – Gã ăn quỵt tự xưng là “người tốt” nói
– “Cậu chỉ cần biết thế là đủ, Đao phủ trẻ tuổi.”
------
Aster bừng tỉnh giấc. Trước mặt cậu là trần nhà của một nơi
không hề quen thuộc. Xung quanh tràn ngập mùi thuốc sát trùng. Thật không khó để
đoán nơi này là Trạm xá của trường. Aster ngồi dậy, các vết thương dù đã lành
nhưng vẫn còn cảm giác đau đau. Cậu sờ lên cổ, sợi dây chuyền mang theo hình em
gái Mary của cậu đã biến mất. Có lẽ cậu đánh rơi ở đấu trường, chắc một ai đó
đã nhặt được và gửi về cho cậu.
“Một giấc mơ từ quá khứ à…” – Aster tự lẩm bẩm. Đã hơn 10
năm kể từ ngày đó, cũng chính “người tốt” là kẻ đã trao một thứ gọi là hy vọng
đến với Aster. Nhưng khoảng thời gian 10 năm dài phần nào đã khiến cậu quên mất
hy vọng và trở thành kẻ mà ai cũng ghét như ngày hôm nay. Liệu đó có thật là
cái giá đáng phải trả để tìm được thứ mà cậu hằng mong muốn ?
Dù sao Aster cũng không còn thời gian để suy nghĩ bâng quơ
như thế, cậu ngồi dậy, mang lại y phục và vũ khí của mình.
“Chướng khí tụ hội xung quanh. Đêm nay có lẽ sẽ không bình
thường như mọi đêm khác.” – Aster nói – “Dawn…”