Sau một đêm gió tuyết, chỉ mới một buổi sáng, khu rừng mà Hà Điền quen
thuộc đã hoàn toàn thay đổi diện mạo, trên cây đã có những lớp tuyết dày như bông, khi cô và Gạo đi ngang qua, có lúc chúng sẽ lả tả rơi xuống,
có lúc lại ào ào, rơi cả một khối. Tuyết trên mặt đất dần dần bắt đầu
tan ra dưới ánh sáng mặt trời, tạo thành một lớp vỏ mỏng và giòn, giẫm
lên sẽ phát ra âm thanh như vỏ trứng bị bóp nát.
Dòng suối trên
núi đã gần như đóng băng hoàn toàn, nhưng cách lớp băng dày bảy tám
centimet, cơ hồ vẫn còn thấy được dòng nước bên dưới đang không ngừng
lưu động. Trên những ngọn cỏ khô bên cạnh dòng suối, những hạt băng
giống như những quả cầu pha lê đang treo lủng lẳng trên đầu ngọn cỏ,
khiến cho nó rũ xuống mặt đất.
Gạo thích kiểu thời tiết này.
Sau khi tuyết rơi, trời sẽ hơi ấm hơn bình thường, nó chậm rãi đi trong
rừng, thỉnh thoảng cúi đầu xuống, dùng mũi moi lớp tuyết lên, gặm cành
cây và bãi cỏ ẩn bên dưới.
Hà Điền đi một đôi giày rơm được làm
từ lá hương bồ. Đế giày được gắn vào một tấm gỗ mỏng, phần đầu phía
trước nghiêng vào trong nhằm mở rộng diện tích đế, tấm gỗ có phần đầu
nhô cao giúp tuyết không bắn vào giày, khi di chuyển trong tuyết cũng dễ dàng hơn rất nhiều. Bên trong giày lót một lớp nệm độn cỏ mềm, loại cỏ
này chỉ dày hai ba li, sau khi đập dập có thể giữ nhiệt rất tốt. Nó có
thể cách nhiệt, chống ẩm mốc, dùng làm thảm cỏ, làm giày, nhưng chỉ có
thể thu hoạch vào mùa hè ở đầm lầy gần nhà.
Hôm nay cô ra ngoài, chủ yếu là vì muốn thử nghiệm đôi giày rơm mà mình đã làm hồi đợt hè này.
Lá hương bồ so với cỏ mềm lót trong giày to hơn rất nhiều, to gần bảy tám
li, thậm chí một phân, giày rơm làm bằng nó chỉ có thể trụ được một mùa
đông. Nhưng giày rơm rất hữu ích trong những ngày tuyết rơi, chúng được
lót bên ngoài giày để giữ cho giày không bị ướt.
Những đôi giày
rơm trước đây của Hà Điền đều do bà cô làm. Cô chưa bao giờ tự làm một
đôi giày hoàn chỉnh, nhiều nhất thì cũng chỉ bện được đế giày. Mùa hè
này, cô đã thử đi thử lại nhiều lần, cuối cùng quyết định tháo đôi giày
rơm yêu thích năm ngoái của mình ra, sau một hồi nghiên cứu, rốt cuộc cô cũng đã làm được một đôi giày rơm.
Có vẻ như đôi giày này đã được thực hiện thành công rồi.
Sau khi đi trong tuyết một lúc lâu mà nó vẫn không hề có dấu hiệu bị bung
ra, còn bảo vệ đôi chân rất tốt, không để tuyết thấm vào giày.
Nếu nhìn thấy, nhất định là bà sẽ rất vui.
Cô đang rất đắc ý ngắm nghía đôi giày của mình, Gạo lang thang cách đó
không xa đột nhiên phát ra tiếng phì phì trong mũi, hình như là phát
hiện được cái gì đó.
Hà Điền ngay lập tức cầm khẩu súng ngắn lên, cảnh giác nhìn về phía rừng cây phủ đầy tuyết.
Cô không nhìn thấy gì cả.
Một lần nữa nhìn về phía Gạo, cô đã rất sửng sốt.
Trên nền tuyết trước mặt Gạo có một khối màu đỏ.
Sắc đỏ kia rực rỡ hơn cả màu của lá phong vào mùa thu, dưới ánh nắng tỏa ra ánh vàng.
Đó không phải là màu của lá.
Hà Điền bước tới từng bước một, khi còn cách Gạo hai ba mét, cô đã có thể nhìn rõ - đó là một người đang nằm dưới tuyết.
Màu đỏ tươi kia chính là quần áo trên người của người này, nó cũng không bị tuyết vùi lấp hoàn toàn, hơi lộ ra một chút, không biết loại vải này
được dệt bằng gì mà khi bị mặt trời chiếu vào lại phản chiếu ra ánh vàng như vậy.
Hà Điền ngồi xổm xuống, nắm lấy một góc vải màu đỏ, lắc mạnh, tuyết phủ bên trên ào ào rơi xuống đất. Đó là một chiếc áo choàng màu đỏ. Người này dựa vào gốc cây và trùm áo choàng lên người để chống
lại gió tuyết.
Tim Hà Điền đột ngột nhảy lên, cô đứng dậy, một
tay giữ chặc một góc áo choàng, đồng thời siết chặt khẩu súng trong tay, chậm rãi mở áo choàng ra.
Dưới lớp áo choàng đỏ là một cô gái
trẻ rất xinh đẹp, mặc dù đôi môi của cô ấy đã lạnh cóng thành màu xanh
tím, khuôn mặt cũng trắng bệt như tuyết, nhưng cô ấy vẫn rất xinh đẹp.
Cô ấy giống như một con búp bê làm bằng lụa được những người bán hàng rong đến từ phía nam dùng để thu hút trẻ em trong chợ, cô ấy có mái tóc dày
và đen dài như sa tanh, làn da mịn màng như lụa, đôi chân mày như thể
được vẽ tỉ mỉ bằng loại bút nhỏ nhất, mực cũng đậm nhất, ngoài sống mũi
cao thanh tú, còn có bờ môi duyên dáng cong cong. Đuôi chân mày và lông
mi của cô ấy đọng lại một lớp sương mỏng, có lẽ đó là do những hơi thở
cuối cùng của cô ấy tạo thành.
Hà Điền cũng không biết là lúc này mình đang kinh ngạc trước cái đẹp hay là đang sợ hãi về cái chết theo bản năng nữa.
Cô nhìn cô gái ấy một lúc rồi nghĩ, cô nên chôn người đẹp này ở đâu đây?
Rồi cô chợt nhớ ra, bây giờ đất đã đông cứng hết cả rồi, không thể nào đào
đất được. Nước sông cũng đã đóng băng, cũng không thể thủy táng.
Vậy thì, hỏa táng? Nhưng mà mùa này muốn kiếm đủ củi cũng không dễ chút nào...
Chẳng lẽ cứ để người đẹp này nằm ở đây?
Những con sói và cáo đói chắc chắn sẽ xé nát khuôn mặt xinh đẹp của người này ra... vậy thì sẽ tiếc lắm! Ôi, nhìn đôi tay xinh đẹp của cô ấy này...
Hà Điền ngồi xổm xuống, nắm lấy bàn tay cứng ngắc của người đẹp.
Đôi bàn tay này đã lạnh như đá, nắm lại thành nắm đấm, màu tím tái, nhưng
lại giống như mỹ nhân trong các tác phẩm điêu khắc cổ bằng đá cẩm thạch
trong bộ sưu tập tranh của bà cô, ngón tay dài, đầu ngón tay nhọn, và
móng tay được cắt tỉa gọn gàng.
Hà Điền cầm đôi tay này, không khỏi thở dài: "Ước gì gặp được cô sớm hơn."
Cô gái xinh đẹp này chắc là đã bị lạc đường trong gió tuyết đêm qua.
Cô lại chợt nghĩ, vậy thì, một cô gái như vậy, tới nơi này làm gì?
Cô đang ngẩn ngơ, đột nhiên người đẹp mở mắt ra, con ngươi đen tuyền giống như hai khối mã não đen ấy mơ màng nhìn Hà Điền, yếu ớt hỏi: "Tôi chết
rồi sao?"
Hà Điền khựng lại: "Chưa."
Ánh mắt của người đẹp trở nên mơ màng và mất tập trung hơn, cô ấy thì thầm: "Vậy thì vì sao tôi lại nhìn thấy thiên thần?"
Nói xong, cô ấy lại nhắm mắt lại.
Hà Điền vừa tỉnh dậy sau cú sốc - cô ấy chưa chết! Cô gái này chưa chết!
Cô vội vàng đào cô gái ra khỏi tuyết, vỗ nhẹ lớp tuyết trên người cô ấy và một lần nữa đặt cô ấy dựa vào thân cây.
Bên dưới chiếc áo choàng màu đỏ, cô gái cũng đang mặc một bộ đồ màu đỏ, chất liệu vải mềm và mịn vô cùng.
Hà Điền vội vàng cởi nút áo khoác lông hươu của mình ra, lấy bình nước
treo trên cổ xuống, cởi túi giữ nhiệt, rồi nhét bình nước nóng bằng đồng vào tay cô gái.
Thật ra cô muốn cho cô ấy uống một chút nước
nóng, nhưng lại sợ mình sẽ làm cho người đẹp thanh tú nhu mì này bị
nghẹt thở. Hà Điền cũng chỉ mới nghe chuyện về người đổ canh gừng cứu
người bị chết cóng trong tuyết, chứ chưa từng tự mình trải nghiệm qua
bao giờ.
Cô lấy chiếc lồng tay giữ ấm lông hươu đặt trong giỏ
trên lưng Gạo ra bọc hai tay của cô gái lại, suy nghĩ xong, cô lại cởi
găng tay da sóc của mình ra, xoa xoa tay rồi áp vào cổ cô gái.
Sau khi chật vật như vậy một lúc, tay Hà Điền đã trở nên lạnh ngắc, đầu gối cũng đông cứng. Cô nhanh chóng đứng dậy nhảy ngay tại chỗ, lại chà xát
hai tay, lúc này, một khối tuyết từ trên cây tùng bên cạnh rơi xuống,
đập thẳng vào đầu cô.
Hà Điền rụt cổ lại, tuyết lạnh luồn vào cổ khiến cô rùng mình, bình tĩnh lại.
Cho dù cô có cứu được cô gái đang sắp chết cóng này, vậy sau đó thì sao?
Có thêm một người nữa, lương thực dự trữ cho mùa đông không đủ ăn. Phải làm sao đây?
Cô đứng ở trong tuyết, trong đầu đếm đi đếm lại số lương thực mà mình đang có: Hai hũ kê nhỏ, một hũ nhỏ đựng lúa dại và yến mạch, bốn thùng khoai tây, ba thùng củ cải, mười cây cải thảo, ba mươi ba khối thịt xông
khói, một ít quả và hạt khô... Không đủ. Vẫn không đủ.
Do bà đã
mất nên Hà Điền phải tự đi săn bắt và trồng trọt, nhiều loại rau quả
trồng trong vụ xuân hè này đã bị cô bỏ bê, sản lượng thấp hơn so với
những năm trước, đặc biệt là kê, một trong những loại lương thực chính.
Những loại ngũ cốc này, nếu chỉ có mình cô ăn trong một mùa đông, sẽ có dư. Tuy nhiên, cô cảm thấy nó không đủ cho hai người.
Nếu cô tiết kiệm một số thức ăn thì sao?
Điều đó có nghĩa là cô phải từ bỏ việc đi săn ở khu rừng bên kia sông và
đánh mất những con chồn có thể mắc vào bẫy. Sau đó, khi mùa xuân đến, cô gái được cứu có thể rời đi, nhưng Hà Điền thì lại không có đủ chồn để
đổi các tài nguyên cần thiết cho năm sau như muối, đường, đồ thủy tinh,
vải vóc... Thậm chí cả những dụng cụ bằng sắt, phải dùng lông chồn hoặc
tiền thì thợ rèn mới chịu làm.
Vậy thì... cứ để mặc cô ấy ở đây?
Không cần thêm một trận bão tuyết nữa, chỉ cần Hà Điền lấy đi bình nước bằng
đồng kia, chẳng bao lâu nữa cô gái này sẽ chết vì nhiệt độ cơ thể quá
lạnh, chân tay cô ấy cũng sẽ cứng đờ lại.
Hà Điền lùi lại và rùng mình.
Có một giọng nói trong tim cô đang gào thét, không! Làm như vậy, cô có khác gì là thú vật đâu!
Nhưng — cô nhìn lên bầu trời, bầu trời xanh như nước nhỏ giọt, không có một
đám mây nào cả, xung quanh im lặng đến đáng sợ, cũng không có bất kỳ một tiếng chim chóc nào kêu.
Trong khu rừng đầy tuyết này, thật sự
có sự khác biệt lớn như vậy giữa con người và con vật sao? Cho dù là
những con thú nhỏ như chuột và sóc, hay lớn như gấu, chó sói hoặc là con người, đều cố gắng sống sót. Sóc không tìm được đủ quả thông hoặc là
hốc cây ấm áp sẽ khó có thể nhìn thấy mùa xuân kế tiếp, gấu mẹ và đàn
con không ăn đủ cá trong mùa xuân và mùa hè để tích lũy đủ chất béo
chống lạnh, trong thời gian ngủ đông cũng sẽ chết cóng.
Hà Điền lại nhìn khuôn mặt xinh đẹp của cô gái kia, không, cô vẫn phải cứu cô ấy.
Trong lòng cô đột nhiên lại trào dâng lên một sự căm phẫn.
Nếu là người của nhà họ Phổ, chắc chắn họ sẽ không quan tâm đến cô gái này.
Cô mới không trở thành cùng một loại người với họ.
Nhà họ Phổ sống ở một khu rừng khác.
Đợt mùa xuân, Hà Điền muốn mua một con chó con từ họ ở chợ. Một trong những con chó cái của họ đã sinh ra sáu con chó con, nhưng họ thà giết và ăn
thịt hết còn hơn là bán chúng cho cô.
Tại sao? Vì nhà họ Phổ có hai anh em, đã trưởng thành. Họ cần một người vợ.
Một thợ săn mà không có chó thì không thể được coi là một thợ săn thực thụ. Mọi người sống trong rừng đều biết rõ điều này.
Hà Điền không có chó. Không có người trợ giúp. Cô có thể tiếp tục sống sót trong rừng được bao lâu? Không phải rồi một ngày nào đó cũng sẽ phải
tìm một gia đình để nương tựa hay sao?
Sở dĩ bọn họ không trực
tiếp bắt Hà Điền đi cũng rất đơn giản, sống trong rừng, không ai dám tùy tiện đặt một kẻ thù địch ở bên cạnh mình.
Hơn nữa, Hà Điền còn
là người có kỹ thuật chế tạo đạn chì tốt nhất trong số hàng chục thợ săn trong khu vực lân cận. Theo lời kể, bà của cô có một khẩu súng hỏa mai
có thể bắn liên tiếp sáu phát. Với khẩu súng này, bà cụ đã một mình giết chết bốn tên cướp khi còn trẻ.
Nếu dùng đạn chì và súng hỏa mai
để giết chết một con gấu đực trưởng thành đứng thẳng hơn hai mét thì còn cần phải có một chút may mắn, nhưng nếu mục tiêu là con người, thì
ngược lại, kẻ đó phải cần rất nhiều may mắn mới có thể thoát khỏi khẩu
súng này. Sau khi bị từ chối về việc mua chó, Hà Điền bỏ đi mà không nói một lời nào.
Về đến nhà cô mới bắt đầu khóc.
Cô liên tục
nói với chính mình những lời mà bà cô thường nói. Người thợ săn thông
minh đều dựa vào trí não và kinh nghiệm của chính mình để đi săn. Nếu
không, con người không thể chạy nhanh hơn dã thú, không mạnh bằng dã
thú, không có răng và móng sắc nhọn, vậy thì tại sao họ vẫn sống sót
được ở trong rừng?
Hà Điền không còn do dự nữa.
Cô cúi xuống nắm lấy hai tay cô gái, cố gắng nhấc bổng cô ấy lên đặt trên lưng Gạo.
Nhưng khiến cho cô cảm thấy ngoài ý muốn chính là, eo và tay chân của cô gái này tuy gầy, nhưng cơ thể cô ấy lại rất nặng.
Hà Điền cắn răng cố hết sức mình, cuối cùng cũng nâng được cô gái lên lưng Gạo.
Gạo bất ngờ vác vật nặng, rất không tình nguyện mà thở ra phì phì.
Hà Điền nhanh chóng lấy một nắm đậu nành đã rang muối từ trong túi vải
treo trên thắt lưng ra, như một ám hiệu để an ủi và động viên nó.
Áo choàng đỏ của cô gái này được làm từ da chồn đen, có lẽ chính vì dựa
vào nó mà cô ấy đã không chết cóng sau một đêm gió lạnh. Ngoại trừ chiếc áo choàng thoạt nhìn rất có giá trị này ra thì cô ấy không mang theo gì cả. Không có hành lý, túi đồ, hoặc là ba lô. Cũng không có vũ khí.
Cô thật sự không biết làm thế nào mà cô ấy lại có thể đến được đây.
Cũng có thể, hành lý của cô ấy đã bị thất lạc trong gió tuyết.
Hà Điền sợ cô ấy rơi xuống rồi bị Gạo giẫm lên, nên cô đã vòng hai tay để
cô ấy ôm lấy cổ Gạo, rồi dùng thắt lưng cột cổ tay cô ấy lại.
Cô lại khoác chiếc áo choàng vào người cô ấy, tháo giỏ mây xuống, cột cô ấy vào bụng của Gạo.
Hà Điền vác cái giỏ trên lưng, lững thững dắt theo Gạo trở về nhà.
Khi nhìn thấy làn khói trắng bốc lên từ ống khói của ngôi nhà, nhìn xuống
người con gái vẫn đang hôn mê, trong lòng cô dâng lên một cảm giác khó
tả.
Có vẻ như lần này cô ra ngoài chỉ để đón cô gái này về nhà thôi thì phải?
Thỏ gì, bẫy gì, quên sạch mất rồi.
Sau khi về đến nhà, Hà Điền không cõng cô gái ấy vào nhà ngay mà thay vào
đó, cô trèo lên gác nơi mình ngủ, lấy một tấm thảm rơm xuống và dọn
trống một khoảng đất gần bếp lò. Đó vốn là nơi cô đặt chiếc bàn. Ăn
uống, đọc sách, đan lưới đánh cá hay làm những việc lặt vặt, tất cả đều
sử dụng chiếc bàn gỗ này.
Hà Điền di chuyển chiếc bàn gỗ đến bên
dưới cửa sổ, sau đó nhanh chóng quét sàn nhà, lót một lớp cỏ khô trên
mặt đất rồi mới trải thảm rơm lên.
Sau đó, cô lại lấy chăn bông của bà mình ra, cũng trải thêm một tấm nệm lông hươu, rồi mới cõng cô gái kia vào.
Vừa rồi ở trong rừng nâng cô gái lên, Hà Điền đã biết sức nặng của cô ấy
như thế nào, còn nghĩ, nếu bây giờ trực tiếp đem cô ấy thả lại trên mặt
đất, có lẽ cô sẽ không còn sức lực để di chuyển cô ấy nữa.
Lần này cõng cô ấy, Hà Điền lại nghiến răng nói thầm: "Trời ạ, cô nặng quá. Thảo nào Gạo cũng không chịu vác cô."
Sau khi đặt cô gái xuống nệm xong, Hà Điền ngồi luôn dưới đất thở lấy hơi.
Bây giờ cũng không phải là lúc để thư giãn, vì thời gian cứu người rất cấp bách.
Hà Điền lấy một bình nước, thêm củi, đặt nồi lên, đun một nồi nước trước.
Cô thu xếp cho Gạo xong, mang về một xâu ớt khô treo trong kho củi.
Cô bứt bốn năm quả ớt, nghiền nát, rồi cho vào nồi, sau đó mang đến một củ cải lớn. Củ cải được bảo quản trong hầm rất tốt, ngọn còn rất tươi, hôm qua mới đem vào nhà.
Hà Điền rửa sạch, cắt nhỏ ngọn củ cải rồi
ném vào chậu, sau đó, cô dùng dao gọt vỏ củ cải, rồi cũng ném vỏ củ cải
vào trong chậu luôn.
Lúc này, nước đã sôi.
Hà Điền dùng thanh sắt mở nắp nồi ra, đổ hết nguyên liệu vào trong nồi, trong nhà lập tức bốc lên một mùi hăng.
Cô gái này bị tê cóng ở tai, đầu ngón tay và má bên phải.
Cho ớt, củ cải và vỏ củ cải vào chung với nhau, đun sôi khoảng mười phút,
để ấm, rồi dùng nước này chà lên vùng da bị tê cóng, có thể làm giảm
đáng kể khả năng bị phồng rộp và loét ở vùng bị tê cóng. Sau khi chà
xong, thoa thêm một lớp thuốc trị nứt da, giúp giảm ngứa và tái tạo lại
da.
Còn nếu có thể chịu được mùi lạ và uống một chút nước này, còn có thể nhanh chóng xua đi cái lạnh khỏi cơ thể.
Hà Điền đổ một ít nước củ cải nấu với ớt đã đun sôi vào chậu đất, phần còn lại thì đỗ vào bình nước bằng đồng, vặn chặt nắp rồi đặt dưới chân cô
gái.
Cô lại đắp chăn bông cho cô ấy, thấm một miếng bông gạc với nước ớt rồi lau mặt và tai cho cô ấy.
Hà Điền lại ném miếng gạc vào chậu, lau những ngón tay cứng ngắc của cô ấy.
Lúc này, cô mới nhận ra rằng, tay của người con gái này tuy đẹp, nhưng lại to.
Hà Điền đặt lòng bàn tay của mình lên lòng bàn tay của cô gái ấy. Nhỏ hơn
cả một cỡ. Đầu ngón tay của cô ngắn hơn đầu ngón tay của cô ấy một đốt
ngón tay.
Nghĩ đến đây, Hà Điền mới nhớ tới vừa rồi cởi giày rồi đắp lại chăn bông cho cô ấy, hình như chân của cô ấy cũng không nhỏ.
Cô nhấc cái chăn lên và nhìn lại, than ôi, cỡ này lớn đến mức có thể nói là thô kệch.
Nhưng mà một người đẹp như vậy, ngay cả khi có đôi chân to như chân gấu, vẫn là một mỹ nhân!
Sau khi xoa với nước ớt nấu với củ cải ấm, đầu ngón tay và má của cô gái ửng hồng lên, giống như màu của hoa dại đầu mùa hạ.
Hà Điền nhìn khuôn mặt của cô gái ấy, bất giác mỉm cười. À, đúng rồi, vừa
mới tỉnh dậy hình như cô ấy đã gọi cô là thiên thần. Ha ha, cô mới là
thiên thần nhỏ đó.
Cô chợt nhớ ra lúc này bình nước nhét trong ngực cô gái chắc là đã lạnh, phải nhanh thay một bình nước nóng khác.
Hà Điền thò tay vào chăn, sờ soạng trên ngực cô gái, cố gắng cởi nút áo của cô ấy và lấy bình nước bằng đồng ra.
Cô đang mò mẫm thì cô gái đột nhiên tỉnh dậy, cách chăn bông đè tay của cô lại.
Hà Điền giật mình, nhìn cô ấy chằm chằm.
Cô muốn an ủi cô gái ấy rằng cô đã bình an vô sự rồi, nhưng đôi mắt đen
trắng rõ ràng của cô ấy lại như có một loại ma lực, khiến cô ngây người
ra, không nói nên lời. Khóe mắt đó hơi rũ xuống, ánh mắt không tập trung cho lắm, giống như mắt của một chú chó con.
Mới đầu Hà Điền nghĩ rằng cô gái này chắc cỡ khoảng hai mươi tuổi, nhưng bây giờ có vẻ như
cô ấy nhiều nhất cũng chỉ mười sáu hay mười bảy gì đó.
Cô gái đột nhiên bật cười, lúc này Hà Điền mới tỉnh người lại, giọng nói của cô ấy không hợp với nhan sắc cho lắm, khàn khàn trầm thấp, gần giống như
giọng đàn ông.
Cô ấy nói: "Hóa ra là sau khi lên thiên đường, thiên thần sẽ cởi đồ cho mình."
Nói xong cô ấy lại chìm vào giấc ngủ, bàn tay đè lên tay Hà Điền cũng trượt sang một bên.
Hà Điền sững sờ, lấy bình nước ra, thay nước nóng, đeo túi giữ nhiệt lại
rồi đặt vào tay cô gái, đem hai tay đặt ở trước ngực, để cô ấy ôm bình
nước.
Cũng không biết đến khi nào thì bệnh nhân đáng yêu này mới thật sự tỉnh lại nữa.
Hà Điền chưa từng cứu qua một người suýt bị chết cóng, lúc này cô mới chợt nhận ra rằng, thực tế là rất có thể cô gái này sẽ ngủ lơ mơ vài ngày
rồi chết đi lúc nào không hay.
Cô thở dài, cô đã cố gắng hết sức rồi, còn lại để số phận định đoạt vậy.
Cô lại chà xát tay và mặt cho cô gái, nước trong chậu cũng đã lạnh.
Cô lấy một hộp thuốc mỡ đông cứng ra, cạy ra một miếng, cho vào lòng bàn
tay cho mềm rồi thoa một lớp dày lên mặt, tai, ngón tay và mép lòng bàn
tay của cô gái ấy.
Làm xong tất cả những chuyện này, Hà Điền mới thở phào nhẹ nhõm, sau khi nghĩ lại, cô luôn cảm thấy mình đã quên làm gì đó.
Cô lại nấu một nồi nước khác, lúc này mới nhớ đến ngón chân cũng là nơi dễ bị tê cóng nhất.
Hà Điền chợt nhớ lại rất nhiều câu chuyện kinh dị mà cô đã nghe khi còn
nhỏ. Có người ngón chân bị lạnh đến mức mất đi tri giác, khi trở về nhà, đang ngâm chân được nửa chừng thì thấy bốn ngón chân nổi lên trong
chậu...
Cô hét lên, vội vàng kéo chân cô gái ra khỏi chăn bông, rồi tháo đôi vớ của cô ấy ra——
Không sao, không sao, ngón chân của cô ấy không bị rơi ra. Nhưng mà, đầu ngón chân đã nổi vài mụn nước lớn. Phải nhanh bôi thuốc mới được!
Sau một hồi luýnh quýnh, Hà Điền nắm lấy bàn tay của cô gái, có chút nhẹ
nhõm. Lòng bàn tay của cô ấy đã ấm lên. Vậy thì, có thể sẽ cứu sống
được, đúng không?
Đặt lại nồi canh xương vịt lên bếp lửa, Hà Điền ngồi bên bếp thất thần, cô thầm cầu nguyện, thứ nhất, cô gái ấy sẽ sống sót, thứ hai, cô ấy sẽ sớm thích nghi với cuộc sống ở đây, và có thể
giúp đỡ cô một số công việc.
Trong thời đại này, ngay cả trong
thành phố, có bao nhiêu người có thể nuôi một người khác mà không bị áp
lực? Hơn nữa, họ đang ở trong một khu rừng mùa đông, nơi mà cái đói
ngang bằng với cái chết.
Nhưng đôi tay của cô gái này không dành cho những công việc nặng nhọc.
Hà Điền xòe hai bàn tay của mình ra, rồi lại nghĩ đến bàn tay mà vừa rồi
mình đã xoa nắn, không khỏi cảm thấy tự ti mặc cảm. Ngón tay của cô gái
ấy hơi cứng, ngón cái và ngón trỏ có vết chay, giống như dấu vết của
việc chơi một loại nhạc cụ nào đó quanh năm suốt tháng.
Còn lòng
bàn tay và các đầu ngón tay trước mặt cô thì thô cứng, các khớp xương
tròn và to, đường ngang ngón tay và móng tay dính đầy bụi bẩn màu đen,
không biết là do tro than hay là bị hun khói.
Hà Điền bĩu môi, cô cho một ít nước ấm vào trong chậu, ngâm tay cô gái vào, nước ớt củ cải
khiến cho bàn tay phồng rộp của cô ấy cũng đỏ lên.
Sau đó, cô
nhúng một chiếc bàn chải nhỏ vào xà phòng, chải kỹ các ngón tay và móng
tay, thấm khô bằng khăn vải rồi thoa một lớp kem dưỡng da dày làm từ mỡ
rái cá, hoa cúc và các loại thảo mộc khác lên.
Công thức này đã
được bà cô lựa chọn sau nhiều năm thử nghiệm. Nó giúp da không bị nứt nẻ trong suốt mùa đông, còn có mùi thơm rất nhẹ nữa.
Hà Điền xoa
xoa tay, lại nhớ đến bà mình. Khi bà còn sống, lòng bàn tay nhỏ bé của
cô cũng rất mềm mại, mu bàn tay sáng bóng như vỏ củ cải trắng vậy.
Khi đó cô hoàn toàn không hề nghĩ đến, đó là bởi vì bà cô đã gánh vác hầu
hết các công việc nặng nhọc, cho nên cô mới được như vậy.