"Thiên Đô Trại và Ninh An Trại cách nơi quân Kinh Châu trú đóng không
xa, Lý Mẫn Học và tướng thủ Ninh An Trại chỉ dùng mười ngàn tướng sĩ
chống lại một trăm ngàn binh mã của Đại Hạ suốt mười ngày, rõ ràng không đợi được viện binh mà? Là do Ngạc Khắc Thiện cố tình không phái viện
binh đến, lại còn đồng ý hòa đàm, bồi thường năm mươi ngàn lượng, dối
trên gạt dưới, chính là thủ đoạn hại người không lợi mình... Đến cùng là ông ta muốn làm gì?"
"Không ai biết cả. Kỷ luật của Ngạc gia
quân vốn dĩ rất nghiêm minh, trung thành với triều đình, mấy năm trước
khi Ngạc Khắc Thiện vừa kế vị tỏ ra rất kính cẩn nghe theo, hơn nữa mười năm nay Đại Hạ không chọn khu Kinh Nguyên làm địa điểm tập kích, triều
đình dồn sự chú ý lên ba nhánh khác ở Tây Bắc và nhánh ở Hà Đông, sự
hiểu biết về những thay đổi ở Kinh Nguyên cũng giảm bớt, kéo theo sự lơ
là đối với Ngạc Khắc Thiện."
Hai người vốn định đi bộ về phủ, mặt trời đã ngã về phía tây, ngửi được mùi thơm bay ra từ trong quán rượu,
còn nghe được cả lời vở kịch mới ra mắt, Triệu Bạch Ngư đi không nổi nữa rồi.
"Chàng nói cho ta nghe thêm vài chuyện ở Tây Bắc đi, cả thái độ của bệ hạ nữa."
"Vào ăn một bữa nhé?"
"Không thành vấn đề."
Nói xong, cả hai vui vẻ bước vào quán rượu, hiển nhiên là quên béng rằng
lão quản gia trong phủ đã chuẩn bị thức ăn xong xuôi, đang ngóng trông
hai người về ăn rồi.
Bởi vì thường lui tới, ông chủ và tiểu nhị đã quen với bọn họ từ lâu, lúc đi qua nhau cũng dừng lại trò chuyện đôi ba câu.
"Tham kiến quận vương, tham kiến tiểu Triệu đại nhân." Ông chủ quán rượu nói: "Tiểu Triệu đại nhân, gần đây mới ra mắt hai món tráng miệng mới, gọi
là lệ chi cao và trích tô, bán chạy nhanh hết, nhưng nhớ đến ngài nên ta bảo bọn họ để lại cho ngài mỗi thứ một phần, ngài thấy thế nào?"
Triệu Bạch Ngư cười đáp lại: "Đa tạ ông chủ, vô cùng cảm kích."
Ông chủ hỏi: "Không có gì, ưu đãi cho khách quen thôi. Vẫn ngồi chỗ cũ à?"
Triệu Bạch Ngư: "Ngồi chỗ cũ. Để ta tự đi, không phiền ông chủ dẫn đường."
Ông chủ quán rượu: "Được chứ, ngài đi cẩn thận."
Chỗ cũ của bọn họ là một phòng riêng nhỏ bên cạnh cửa sổ, ngồi ở nơi này có thể ngắm cảnh sông của một trong bốn kênh lớn nhất kinh đô, khá yên
tĩnh, lại còn là loại phòng cao cấp nhất, cho nên giá cả sẽ cao hơn một
chút.
Tiểu nhị bưng rượu nóng chạy xuống lầu, nhìn thấy Triệu
Bạch Ngư thì lập tức hỏi chuyện: "Tiểu Triệu đại nhân, vụ án xương vàng
mà ngài kết án hai tháng trước ấy, thật sự là có oan hồn đến báo án lúc
nửa đêm ạ?"
Hoắc Kinh Đường giấu tay bước tới: "Tử bất ngữ quái lực loạn thần*, ai nói là oan hồn báo án?"
(*) Về các hiện tượng siêu nhiên, sách Luận Ngữ của Khổng Tử có viết:
"Khổng Tử không nói đến những điều kì quái, vũ lực, làm loạn và quỷ
thần" (子不語怪力亂神). Trong đó cụm (怪力亂神, "Quái, Lực, Loạn, Thần") được dùng để ám chỉ những hiện tượng siêu nhiên. Trong số quái lực loạn thần, lực hay "dũng lực" (勇力) có chữ 勇, vốn cũng xuất hiện trong tên của Yuugi (勇儀). Ngoài ra Yuugi cũng tự nhận mình là "Yuugi của Sức mạnh" (力の勇儀 Chikara no Yūgi), xác nhận sự liên hệ của cô với một trong bốn nhân tố thể hiện các hiện tượng siêu nhiên.
"Dạ," Vì là khách quen, lại nhờ có Triệu Bạch Ngư tính tình điềm đạm ở bên
cạnh, tiểu quận vương cũng trở nên bình dị gần gũi hơn rất nhiều, cho
nên tiểu nhị này không cảm thấy sợ lắm, chỉ vào người kể chuyện ở dưới
đường nói: "Được biên soạn ra đấy, nghe bảo còn được chép lại thành một
quyển thoại bản, vang dội khắp phủ kinh đô, nội dung kỳ quái nhưng thật
sự làm cho người ta thích thú đó ạ."
Án oan mà tiểu nhị hỏi là
một kỳ án mà Nha môn kinh đô đã xử lý vào hai tháng trước, chuyện là một ngày nọ, có một trận sấm sét đánh trúng phần mộ tổ tiên tại nhà của một viên ngoại ở vùng ngoại ô thành Tây, con cái của viên ngoại không thể
không dời mộ phần đó đi lần nữa, nhưng khi nắp quan tài bị trượt ra,
phát hiện ở bên trong có đến hai bộ hài cốt, trong đó có một bộ xương
vàng, hai xương cánh tay giơ lên như thế đang đẩy nắp hòm ra, có thể
thấy rằng người này là người sống bị nhốt vào quan tài rồi bị ngạt thở
mà chết.
Qua điều tra xác định bộ xương trắng trong đó là em trai ruột của lão viên ngoại, chết oan chết uổng, còn bộ xương vàng thì nghe nói là của người vợ cả mười lăm năm trước đã mang theo một khoản tiền
bỏ chạy, nhưng hóa ra nàng ta vốn không phải bạc tình bạc nghĩa mà là bị hại chết ở trong quan tài ở phần mộ tổ tiên.
Con ruột của người phụ nữ này và viên ngoại cho rằng đây là án oan bèn chạy đi cáo quan.
Triệu Bạch Ngư thụ lí án này, tốn một phen trắc trở mới tra được chân tướng,
hóa ra năm đó viên ngoại mua từ nơi khác về một mớ hàng, không ngờ trên
đường đi gặp sơn phỉ, hàng hóa bị cướp hết, khi ấy em trai lão còn đang
tranh vị trí gia chủ, nếu như việc này bị truyền đi, lão sẽ thua dưới
tay người em trai ruột giỏi giang, thế là lão giấu tin hàng hóa bị sơn
phỉ cướp đi, sai em trai đi nhận hàng, cuối cùng đánh chết người ở nơi
rừng sâu núi thẳm.
Sau đó lão hùn vốn với biểu muội tâm đầu ý
hợp, lén lút bôi một loại thuốc nhuộm có thể khiến cho da dẻ toàn thân
trở nên vàng vọt lên người của vợ cả, lừa vợ cả rằng bà bị mắc bệnh vàng da, vì triệu chứng tương tự, vợ cả tin là thật, không muốn làm liên lụy đến con cái nên trao trả lại của hồi môn cho viên ngoại, tin lời lão ta nói mà lặng lẽ chạy đến vùng ngoại ô dưỡng bệnh, cũng không dám nói cho cha mẹ chồng hay.
Vừa ra đến vùng ngoại ô đã bị viên ngoại đánh
chết, giấu xác vào trong quan tài ở phần mộ tổ tiên, không ngờ người vợ
cả chỉ bị đánh choáng chứ không chết, phát hiện mình bị chôn trong quan
tài, bên cạnh còn có xác chết của em chồng, người đang sống sờ sờ chết
ngạt trong tuyệt vọng.
Sau khi chết, thuốc nhuộm thấm qua da vào
trong nhuộm vàng cả xương, thực tế không trợ giúp gì được cho quá trình
tra án, nhưng mà một bộ xương vàng rất khác với lẽ thường, cho nên dân
chúng mới tưởng tượng ra đủ chuyện kì lạ.
Lão viên ngoại giết em
ruột của mình trước rồi đến vợ cả, quay trở về khóc lóc nói với cha mẹ
rằng em và vợ mình đều đã ôm hết tiền hàng hóa bỏ trốn rồi, người làm
ngày đó tránh được một kiếp khỏi tay đám sơn phỉ bị mua chuộc để làm
nhân chứng, việc xấu chỉ nên truyền đi trong nhà không tuồn ra ngoài,
cha mẹ của viên ngoại không cáo quan, để cho oan hồn uổng mạng mười lăm
năm, oan khuất của hai người này cứ thế chờ đến ngày được đưa ra ánh
sáng.
Sau đó viên ngoại kia kế thừa gia nghiệp, cưới biểu muội
của mình, đương nhiên là sau khi chân tướng đã bại lộ thì bọn họ đều bị
trừng phạt thích đáng.
Cũng nhờ ngày đó, trời đang trong xanh
bỗng nhiên lại có một trận sấm sét giáng xuống, trùng hợp thay bổ trúng
phần mộ tổ tiên của viên ngoại, dây thừng treo quan tài bỗng nhiên đứt
lìa, đáy quan tài không vỡ mà nắp lại trượt ra, mọi người tại đó đều
thấy trong hòm chứa hai bộ xương người, oan tình này vừa nhìn đã rõ.
Dường như trong tối có trời trợ giúp, sự trùng hợp diễn ra liên tiếp như vậy thì đúng là một vụ án ly kì.
Trong lòng Triệu Bạch Ngư cũng cảm thán thế gian này đúng là có một vài việc
không thể nào nhìn theo lẽ thường được, mà từ trước đến nay dân chúng
luôn cảm thấy thích thú trước những án oan đặc sắc thế này, nhất nữa là
khi Triệu thanh thiên chủ thẩm bản án này, đương nhiên là sẽ hăng say
bàn tán rồi.
Không chỉ thế, còn có cả lời đồn hài hước về chuyện nửa đêm nửa hôm oan hồn đánh trống kêu oan nữa.
Triệu Bạch Ngư dở khóc dở cười: "Không phải như vậy đâu, đừng tin."
Hoắc Kinh Đường đe dọa: "Con người không thể làm việc trái với lương tâm, nếu không nửa đêm quỷ sẽ tới gõ cửa đấy."
Tiểu nhị sợ hãi co rúm vai lại, gã gãi đầu thầm nghĩ cũng may là mình không làm chuyện gì tàn nhẫn.
Hoắc Kinh Đường ôm vai Triệu Bạch Ngư đi lên phòng trên tầng, cuối cùng cũng không bị ai ngắt lời nữa, hắn lại nói tiếp việc ở Tây Bắc.
"Tình hình ở Tây Bắc nói phức tạp thì cũng phức tạp, nói không phức tạp thì
lại không phức tạp, không quanh quẩn lòng vòng quá nhiều như quan
trường, chủ yếu là xung đột giữa ba phe phiên tộc, năm nhánh binh mã Tây Bắc và nước Hạ mà thôi. Năm nhánh binh mã thích làm theo ý mình, Hà
Đông lại ở khá xa, giữa các bên có hơi lục đục, có xung đột nhỏ chỉ là
chuyện thường tình, dù sao thì văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị*, trên chiến trường có vô số chiến binh gai góc cộc cằn, phần lớn không phục binh
của quân khác cũng là chuyện thường."
(*) Giới võ thuật xưa
nay vẫn lưu truyền câu nói "Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị", hàm ý chỉ con nhà võ luôn độc tôn xưng hùng, không chịu ai dù kẻ ấy đứng hàng thứ hai sau mình.
"Bốn nhánh quân Thiểm Tây theo thứ tự là Thôi gia
quân, cũng chính là gia đình bên ngoại của chúng ta, chủ chưởng quân Hi
Hà, trấn giữ vùng Hi Hà. Tiếp đến là quân Phu Diên do ta dẫn binh trấn
giữ vùng Phu Diên. Nhánh thứ ba là quân Hoàn Khánh giữ vùng Hoàn Khánh
từng thuộc về Tĩnh vương, sau khi ông ta chết quân đội được hợp nhất,
phái Trịnh Nguyên Linh đến nhậm chức Nguyên soái."
Triệu Bạch Ngư hỏi: "Con trai thứ ba của Trịnh quốc công à?"
Hoắc Kinh Đường gật đầu.
Triệu Bạch Ngư hoài nghi: "Bệ hạ không sợ phủ Trịnh quốc công nắm giữ hết quyền hành sao?"
Hoắc Kinh Đường chống tay lên má nói: "Mặc dù Trịnh Nguyên Linh đã đến Tây
Bắc giữ chức Nguyên soái, nhưng không hẳn có thể thật sự kiểm soát được
quân Hoàn Khánh, đừng quên phó tướng là người của thiết kỵ Đường Hà,
ngoài ra Trấn an sứ Thái Trọng Thăng được bệ hạ phái đến Thiểm Tây cũng
có quyền nhúng tay điều động quân Hoàn Khánh, hắn vốn là người của Đông
cung, luôn ra sức ngáng chân Trịnh Nguyên Linh, Trịnh Nguyên Linh đang
sống tốt ở quân Ký Châu, nhưng vì chưa thỏa lòng tham nên mới nhúng tay
vào Tây Bắc. Bây giờ vị trí ban đầu của hắn đã không còn nữa, sức ảnh
hưởng của phủ Trịnh quốc công đối với quân Ký Châu đang yếu dần qua từng năm, đến Tây Bắc rồi, hắn và Thái Trọng Thăng chỉ có nước làm chó cắn
chó thôi."
Triệu Bạch Ngư đưa ra thắc mắc: "Trung cung và Đông
cung mất được ba năm rồi, Thái Trọng Thăng vẫn có thể giữ vững lòng
trung sao?"
Hoắc Kinh Đường: "Là một câu hỏi hay đấy."
Triệu Bạch Ngư: "Cho nên?"
Hoắc Kinh Đường: "Một năm gần đây, tin tức Thái Trọng Thăng và Trịnh Nguyên
Linh qua lại thân thiết được truyền ra, có điều không gây nên chuyện gì
lớn nên tạm thời sẽ không động đến bọn họ. Huống chi nhiệm kỳ của Thái
Trọng Thăng sắp hết rồi, đến lúc đó đổi người khác tới là hợp lẽ, việc
bọn họ qua lại trong thời gian này cũng chỉ là uổng công vô ích mà
thôi."
Được đấy, y có thể nghĩ ra được vấn đề, đương nhiên là Nguyên Thú đế sẽ suy nghĩ chu toàn hơn rồi.
Triệu Bạch Ngư: "Vậy nói một chút về chuyện phiên tộc Tây Bắc và Ngạc Khắc Thiện đi, nói cái gì thú vị ấy."
Hoắc Kinh Đường suy nghĩ một chút, bèn lựa một vài chỗ hay ho kể cho y nghe, còn nói thêm một vài chính sách có liên quan đến tục lệ của địa phương, cố tình nói: "Quốc quân Đại Hạ và quý tộc vốn thuộc tộc Đảng Hạng, tổng cộng có tám bộ lạc, trong đó Thác Bạt thị là Vương tộc Đại Hạ. Phần lớn những người Đảng Hạng này là người tộc Khương di chuyển từ Tây Bắc
sang, hoặc là con lai giữa các phiên tộc khác và người Tây Hạ, em cũng
biết Đại Hạ tôn sùng Phật giáo mà, suy cho cùng thì phiên tộc Tây Bắc
cũng có cùng nguồn gốc, vì vậy rất thờ phụng Phật giáo."
Sau đó
chuyển sang những chuyện khác nữa, thẳng cho đến khi màn đêm buông xuống sao bay đầy trời, hai người mới về phù, hiển nhiên là Hải thúc chờ đợi
bọn họ suốt mấy canh giờ mặt mũi đã đen thui, nhưng da mặt hai người đều dày cho nên hoàn toàn có thể làm bộ như không thấy gì.
***
Mật chỉ của Nguyên Thú đế được âm thầm ban bố xuống, lệnh cho Hoắc Kinh
Đường đảm nhiệm Chế trí sứ Thiểm Tây, ngay ngày hôm đó lên đường đến Tây Bắc điều tra sự thật trận chiến Thiên Đô Trại, đồng thời phái Triệu
Bạch Ngư nhậm chức Kinh lược sứ Thiểm Tây, cũng lên đường trong ngày đến Tây Bắc chiêu an phiên tộc biên cảnh.
Hai chức Chế trí sứ và
Kinh lược sứ có hơi tương tự nhau, đều là chức quan quân sự nhị phẩm
được thiết lập tạm thời, tùy thời điều động, ủy nhiệm rồi lại giáng
chức, cũng khá giống với chức Khâm sai, dù là chức quan mới thiết lập
nhưng có cùng một loại hình.
Người trước tìm cách xuôi theo sự
tình quân biên ải, người sau chống lại Đại Hạ và chiêu an phiên tộc ở
biên cảnh, đều có quyền hỏi đến cuộc chiến Thiên Đô Trại, cũng có thể
điều binh khiển tướng, coi như là cần người có người, muốn quyền có
quyền, Nguyên Thú đế đã rất hào phóng, không còn ôm một bụng tính toán,
keo kiệt bủn xỉn như ngày ở Lưỡng Giang nữa.
Mặc dù không phải
Giám quan nhưng vẫn có thể cùng đến Tây Bắc, Hoắc Kinh Đường miễn cưỡng
đồng ý với sự sắp xếp này, tiếp nhận mật chỉ rồi cùng Triệu Bạch Ngư thu dọn đồ đạc chuẩn bị xuất phát.
Triệu Bạch Ngư thì vô cùng chờ
mong, từ lúc Hoắc Kinh Đường miêu tả những nơi thú vị ở đại mạc Tây Bắc, lòng hiếu kỳ của y đã bị dẫn dắt ra mất rồi, vì vậy càng không thể từ
chối.
Tuy là mật chỉ, nhưng Triệu Bạch Ngư thân kiêm hai chức Tri phủ phủ kinh đô và Ngự sử trung thừa, bỗng nhiên bị điều đi nơi khác
chắc chắn không thể dối gạt được tai mắt của các quan lại trong triều
đình, thế nên hành tung của hai người bị lộ ra rất nhanh, chỉ là bọn họ
không biết là hai người đã nhậm chức gì đến Tây Bắc mà thôi.
Không ai là không thức thời chạy đi hỏi, có điều đối với những người có được
nhiều nguồn thông tin ở khắp nơi, không khó để đoán ra được chức quan
của Triệu Bạch Ngư.
***
Triệu phủ.
Triệu Bá Ung
đứng trước cửa phòng đóng chặt của Tạ thị nói: "Ngũ lang không thể đảm
nhiệm chức quan Tam phẩm trở xuống, đó chính là vô duyên vô cớ bị giáng
chức, quan Tam phẩm ở Tây Bắc trái phải bao nhiêu chức đều đã kín người
cả rồi, lại còn cố định, nếu như không thấy bị thay đổi thì cũng chỉ có
thể là một chức quan được thiết lập tạm thời như Khâm sai, Chế trí sứ,
Kinh lược sứ mà thôi. Không có chuyện lớn không cần lập Khâm sai, Ngũ
lang không có kinh nghiệm quân sự nên sẽ không lệnh cho thằng bé làm Chế trí sứ, trái lại trước trận nghe nói Nhị vương tử Đại Hạ là Thác Bạt
Minh Châu dẫn binh tấn công Kính Châu, bị Ngạc Khắc Thiện đánh chạy về,
đòi hỏi không ít tặng phẩm và quân lương, nhưng việc này có hơi kì lạ,
hẳn là lệnh cho Ngũ lang đi để thăm dò việc này."
Tiếng gõ mõ trong phòng ngưng lại.
Triệu Bá Ung: "Dù sao thì Tây Bắc cũng là địa bàn của Lâm An quận vương, hơn
nữa Kinh lược sứ có quyền có binh, không sợ bị bắt nạt, chính trị của
Đại Hạ đang trong thời kì rối ren, có lẽ sẽ không phát động chiến tranh
vào lúc này, Ngũ lang sẽ không gặp nguy hiểm đâu."
Một lát sau, tiếng mõ trong phòng lại vang lên, Tạ thị nhất quyết không đáp lại Triệu Bá Ung một lời.
Tạ thị giận trách chồng mình, từ ba năm trước bà đã chuyển ra khỏi chủ
viện, vào ở trong tiểu viện quạnh vắng suốt hơn hai mươi năm của Triệu
Bạch Ngư, ở trong đã xây thêm một Phật đường, từ đó về sau không muốn
nói chuyện với Triệu Bá Ung nữa.
Triệu Bá Ung đợi thêm một lúc lâu nữa mới mất mát rời đi.
Triệu tam lang chờ ở bên ngoài thấy thế cũng không bất ngờ chút nào, so với
kẻ dễ yêu dễ giận không chính chắn của ba năm trước khi gia đình xảy ra
biến cố, hiện tại gã đã trở nên trầm tĩnh và trưởng thành hơn, đánh mất
đi tính ngây thơ lỗ mãng của ngày trước, dáng vẻ này thế mà lại hơi
giống với Triệu Trường Phong.
"Cha, nhị ca đang ở thư phòng chờ
cha đến bàn bạc chút việc. Đại ca cũng đã gửi thư về rồi, nói là không
cần phải điều huynh ấy về đây."
Ba năm này lưng Triệu Bá Ung đã còng xuống thấy rõ, thời gian cũng khiến cho đầu tóc ông bạc trắng.
"Cha biết rồi."
Nói xong đi ngay.
Trong vòng ba năm nay, Tạ thị không muốn gặp bọn họ nữa, Triệu Trường Phong
tự xin ra biên cương thủ thành, Triệu nhị lang được triệu từ Lưỡng Giang về đến Tam ty làm việc, Triệu tam lang cũng nhờ dốc sức liều mạng xây
dựng công tích nhiều lần nên được thăng lên hai cấp, tuy nhiên vẫn làm
việc trong Cấm vệ quân.
Nhà họ Triệu nhìn như một cảnh tượng tươi đẹp, thực chất bên trong là ao tù nước đọng, chia năm xẻ bảy.
***
Phủ Tấn vương.
Lục hoàng tử vừa cập quan đã được ban cho vương phủ, phong Tấn vương, không còn Đông cung nữa, cho nên rất nhiều đại thần âm thầm đi nhờ vả hắn,
nhưng hắn không có người chống đỡ, luôn nghi ngờ Nguyên Thú đế sẽ tính
kế mình, hai năm qua không còn xuất hiện nhiều nữa.
Có điều dù cho hắn có ít xuất hiện cũng không hề thả chậm tiến độ chinh phục ví trí chí cao vô thượng kia.
Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư vừa mới rời khỏi phủ kinh đô đã có người
báo cáo hành tung của bọn họ đến phủ Tấn vương, mưu sĩ phân tích một
phen rồi nói: "Vì vậy có thể thấy, Triệu đại nhân này hẳn là đã được
trao chức Kinh lược sứ, đi cùng Lâm An quận vương để điều tra cuộc chiến Thiên Đô Trại."
Hoắc Chiêu Vấn: "Ngươi thử nói xem phụ hoàng sẽ sắp xếp cho Hoắc Kinh Đường chức gì?"
Thật ra là không đoán ra, không phải vì chức Chế trí sứ khó đoán, mà Tây Bắc vốn là ngôi nhà thứ hai của Hoắc Kinh Đường, có không ít chức quan để
mặc cho hắn chọn lựa, thế nhưng trước mắt vẫn có bất kỳ chức quan nào bị thay đổi cả.
Hơn nữa rất có thể Triệu Bạch Ngư đã được phong
danh Kinh lược sứ, cũng không thế nào phong cho hai người hai chức có
tính chất không khác nhau mấy đến Tây Bắc để điều tra cùng một vụ án
chứ.
Mưu sĩ nói: "Có lẽ là hắn đến Tây Bắc cùng Triệu đại nhân với tư cách là người nhà."
Một mưu sĩ khác nói: "Ba năm nay Lâm An quận vương không rời khỏi Triệu đại nhân một tấc nào, cái này đúng là có khả năng."
Mưu sĩ nhân cơ hội kiến nghị: "Tây Bắc trời cao Hoàng đế xa không nói, địa
hình cũng phức tạp, tiểu đội binh sĩ, gián điệp, gian tế Đại Hạ thường
xuyên lẻn vào biên cảnh triều ta để lén lút làm chuyện xấu, thỉnh thoảng hại đến mạng người, lỡ mà có gặp được Lâm An quận vương... Vẫn có khả
năng chết bất đắc kỳ tử đấy."
Hoắc Chiêu Vấn: "Ngươi cũng đã nói Tây Bắc chính là địa bàn của Hoắc Kinh
Đường rồi, huống chi võ công của hắn cao cường, tùy tiện giết chóc nhưng giết không được trái lại ảnh hưởng đến chúng ta nữa." Hắn vịn trán nói: "Trước tiên đừng manh động, đưa tin đến chỗ Trịnh nguyên soái đi, ông
ấy biết rõ thời cơ nào hành động là tốt nhất, cũng có thể làm mà không
để lại dấu vết gì?"
Tạm ngừng, hắn nói thêm: "Các ngươi nói Triệu Bạch Ngư được phái đi tra cuộc chiến Thiên Đô Trại sao?
Mưu sĩ gật đầu: "Nghe nói Thiên Đô Trại, Ninh An Trại đều đã thất thủ, tình thế của binh Hạ cũng hết sức nguy cấp, thậm chí Nguyên soái quân Kinh
Nguyên không ứng chiến mà đồng ý hòa đàm ngay."
Hoắc Chiêu Vấn: "Ta nhớ Nguyên soái quân Kinh Nguyên là Ngạc Khắc Thiện, thủ lĩnh phiên binh đúng chứ?"
Mưu sĩ lại gật đầu.
Hoắc Chiêu Vấn như có điều suy nghĩ, chợt ngộ ra: "Ta hiểu rồi! Chuyến này
Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường đi không phải để điều tra cuộc chiến
Thiên Đô Trại, cũng không phải để chiên an phiên binh, mà là phụng chỉ
chuẩn bị đổi thủ lĩnh phiên binh Ngạc Khắc Thiện! Ngạc Khắc Thiện không
nghe lời, cũng nên đổi một người khác lên để quản lý một trăm ngàn phiên binh, đổi người nào..." Sắc mặt hắn bỗng nhiên lạnh xuống, nhắm mắt
lại, "Phụ hoàng, ngài đúng là chịu tính toán sâu xa."
Mưu sĩ lo lắng hỏi thăm: "Điện hạ?"
Hoắc Chiêu Vấn gõ bàn nói: "Cứ phát những tin tức này ra ngoài đi, Trịnh
nguyên soái biết phải làm gì." Một lúc lâu sau, hắn mới thì thầm tự nhủ: "Cũng chỉ có mẹ ruột cô, nhà ngoại cô và các cữu cữu mới là người nhà
của cô, mới yêu thương cô thôi."
Mưu sĩ bước ra cửa nghe vậy cả người cứng đờ, trong lòng lo lắng, coi trọng nhà ngoại như vậy cũng không phải là chuyện tốt.
***
Kinh Châu, Tây Bắc.
Luân phiên thay đổi giữa xe ngựa và cưỡi ngựa, không nôn nóng mà đi cũng
không thể kéo dài quá mức, phải tốn đến một tháng mới đến Kinh Châu.
Khi tiến vào địa phận Kinh Châu, Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường đã đổi
sang xe ngựa, xe chậm rì rì chạy trên đường lớn, hai bên đường đều là
rừng cây khô trụi lá.
Lúc này đã bắt đầu vào đông, tiết trời
chuyển lạnh, muôn sắc xinh tươi sinh động ở khắp nơi đã bị một sắc màu
xám xịt phủ lên để dần thích ứng với rét lạnh, cỏ khô màu vàng úa chính
là sự khác biệt rõ ràng nhất giữa mùa này và mùa thu, hạ.
Xe ngựa vẫn cứ chầm chậm đi về phía trước, một ni cô bỗng nhiên chạy vụt tới từ bên cạnh, chạy vòng quanh con đường hai ba vòng, nhìn thấy xe ngựa của
Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường thì hai mắt sáng lên, vội vàng lao về
phía trước, vén rèm xe lên rồi chui vào, còn chưa thấy người bên trong
là ai đã quỳ xuống cầu xin.
"Đằng kia có người muốn ép ta đi chịu chết, cầu xin ngài phát lòng từ bi, cầu xin thương tình để cho ta tránh tạm."
Triệu Bạch Ngư thấy ni cô này khoảng chừng hai mươi, làn da hơi ngăm nhưng
mặt mũi xinh đẹp, là một cô gái nhỏ có chút nhan sắc, thế là đoán ngay
được người bắt nàng đang có ý đồ gì.
Y mớ cái rương bên cạnh ra ý bảo ni cô trốn vào trong đó, sau đó phủ một tấm vải lên trên, nhìn qua
trông giống như phần ghế ngồi của xe ngựa, rồi y tiếp tục cầm sách lên
xem, Hoắc Kinh Đường thì tựa người vào một bên ôm cánh tay chợp mắt,
suốt cả quả trình không hề mở mắt ra.
Lúc này bên ngoài có tiếng
động vang lên, đó là những tiếng quát tháo như hung thần ác sát, nói
bằng thứ tiếng Triệu Bạch Ngư không hiểu.
Bước chân của chúng
càng lúc càng gần, một kẻ đứng giữa mạnh tay vung màn xe lên chui vào:
"Các ngươi có nhìn thấy một..." Lời còn chưa dứt đã bay thẳng ra ngoài.
Tầm mười người bên ngoài lập tức rút đao ra vây quanh xe ngựa, kẻ cầm đầu
liếc nhìn thủ hạ vừa bị đạp một cú choáng váng, thấy giữa ngực hắn có
một vết lõm xuống liền biết trong xe ngựa là một người có máu mặt, thế
là gã đổi sang ngôn ngữ chính thức của Đại Cảnh, lễ phép chào hỏi: "Xin
hỏi kia là anh hùng vùng nào?"
Triệu Bạch Ngư: "Khách đi đường mà thôi, không gánh nổi tiếng anh hùng."
Giọng nói ôn hòa không đồng nhất, nghe như phần tử trí thức. Người nọ lại
nói: "Mới vừa rồi thủ hạ của ta mạo phạm, mong được tha thứ. Bọn ta đang đuổi theo một cô gái phạm tội, bắt nàng ta lại chuẩn bị quy án, xin hỏi anh hùng có từng gặp hay chưa?"
Triệu Bạch Ngư bật cười, đến cả
một câu cũng chẳng hỏi mà tên này đã xông vào trong xe ngựa, trông chẳng giống như người tốt chút nào, y đáp: "Ta vẫn luôn ngồi trong xe ngựa,
không thấy có cô gái nào ở bên ngoài cả, nhưng lại thấy được mười mấy
tên lưu manh đấy."
"Ngươi!"
Có kẻ không cam lòng, bị thủ
lĩnh cản lại, gã xin lỗi thêm một lần nữa rồi nhắc lại: "Nàng ta biết rõ tội còn cố tình phạm phải, còn vượt ngục, cực kì xảo quyệt, hành vi
phạm tội rất nặng, bọn ta đã đuổi bắt mấy ngày rồi, không tránh khỏi hơi nôn nóng, nếu như anh hùng có manh mối gì xin hãy báo cho, đại nhân của chúng ta sẽ ban thưởng."
"Đại nhân của các ngươi?"
"Đại
nhân nhà ta chính là Ngạc Đạt Mộc, phó quân chủ quân Kinh Châu, con trai của Nguyên soái quân Kinh Châu, thủ lĩnh phiên binh Ngạc Khắc Thiện!"
"Im miệng!" Tên cầm đầu làm bộ quát một câu, thật ra đang nhìn chằm chằm
vào xe ngựa, "Cô gái kia có liên quan đến đại nhân nhà ta, đại nhân còn
chuẩn bị bắt nàng ta đi gặp quan đây."
"Hóa ra là vậy. Ngạc gia
quân Kinh Châu tiếng tăm lẫy lừng Tây Bắc, tất nhiên ta gần xa cũng biết tiếng, không lý nào lại không giúp cả." Triệu Bạch Ngư vén rèm xe để lộ mặt, chỉ về hướng tây bắc nói: "Mặc dù ta không nhìn thấy người nhưng
nghe được tiếng bước chân vội vàng của nàng, đã chạy về phía bên kia
rồi."
Phong thái của Triệu Bạch Ngư ở kinh đô đã chẳng mấy ai
sánh bằng, huống chi là ở Tây Bắc hùng vĩ nhưng cằn cỗi này, ở đây càng
khó có thể tìm thấy được người nào dịu dàng như ngọc giống thế này, bởi
vậy nên vừa xuất hiện đã khiến cho mấy người đuổi bắt ni cô thất thần
trong một cái chớp mắt.
Sau khi hoàn hồn, tên cầm đầu nói cảm ơn rồi dẫn người đuổi theo.
Chạy một lúc, bỗng nhiên người nọ dừng lại, lệnh cho hai người: "Quay trở về theo dõi chiếc xe ngựa kia đi, xem coi bọn họ có giấu ni cô kia trong
xe hay không?"
Hai người đó nghe lệnh đáp lại.
Mà ở bên
này, Triệu Bạch Ngư đấm vào người Hoắc Kinh Đường vừa mới tung cước đá
bay tên tự tiện xông vào xe ngựa ra ngoài mấy cái, dùng khẩu hình miệng
nói: Bớt giả vờ đi nhé.
Hoắc Kinh Đường hé một mắt ra, vươn tay ra bao trọn lấy nắm đấm của Triệu Bạch Ngư.
Triệu Bạch Ngư không rút ra được, bất đắc dĩ nói với về phía rương đồ: "Ra đây đi."
Ni cô nhanh chóng chui ra khỏi rương, cần thận dò xét ánh mắt của hai
người, bị khí chất và vẻ ngoài khác biệt hoàn toàn với Tây Bắc của bọn
họ khiến cho ngỡ ngàng, sau khi choàng tỉnh mới cúi đầu nói cảm ơn: "Đa
tạ ơn cứu giúp của hai vị tiên sinh."
Triệu Bạch Ngư: "Nói cô đắc tội gì với Ngạc Đạt Mộc trước đã, nếu như cô phạm pháp thật, không cần
phải chờ những kẻ khác tới bắt cô, ta sẽ đưa cô đến gặp quan. Còn nếu
như cô bị hãm hại, có lẽ ta sẽ cứu được."
Ni cô ngẩng phắt đầu
lên nhìn hai người, phong thái quả thật là rất không tầm thường, có lẽ
tai mắt có thể xuyên trời, hai mắt nàng ta lập tức ngẩn lệ, quỳ xuống
nói: "Cầu xin hai vị tiên sinh cứu giúp Nhã Thiện."
Triệu Bạch
Ngư vươn tay đỡ nàng đứng dậy: "Ngươi đừng quỳ ta, điều ta không thích
nhất chính là mấy người cứ hở tí là quỳ như các cô đấy, mau đứng lên đi. Cô mà không đứng là ta không giúp đâu." Ni cô nghe lời đứng dậy, y mới
nói, "Ngồi xuống đã, uống ít nước rồi nói từ từ thôi, trông mặt mũi tái
mét kia kìa, đừng vội."
Tay lại bị nắm lấy, Triệu Bạch Ngư ngạc
nhiên quay đầu lại, thấy Hoắc Kinh Đường khua tay múa chân, miệng khép
mở: Thương hương tiếc ngọc.
Triệu Bạch Ngư vỗ nhẹ lên mu bàn tay ý bảo hắn đừng láo nháo, người nọ nhíu mày, vuốt ve ngón tay Triệu Bạch
Ngư, hắn nào có ý định láo nháo đâu.
Ni cô nói lời cảm ơn xong,
uống miếng nước lấy hơi rồi kể những gì mình đã gặp phải: "Ta vốn là
người Kinh Châu, sống ở nơi phiên tộc và người Đại Cảnh lẫn lộn vào
nhau, dân số nơi đó khá cao, trị an không tốt lắm, thường có sơn phỉ
xuống núi cướp bóc dê bò và phụ nữ. Năm ta mười ba tuổi suýt nữa là bị
bắt đi, cha mẹ bèn đưa ta lên am ni cô trên núi ở. Sơn phỉ phần lớn xuất thân từ phiên tộc, vô cùng tin Phật, cho nên sẽ không đến am ni cô để
cướp bóc, đến khi ta mười bảy tuổi, theo sư phụ xuống núi thì gặp được
con trai của Nguyên soái Ngạc Khắc Thiện là Ngạc Đạt Mộc. Hắn không chỉ
muốn nạp ta làm thiếp, còn muốn trắng trợn bắt ta vào phủ, cũng may sư
phụ báo quan kịp thời, Tri phủ Kinh Châu kia liền nói chuyện này đến chỗ Nguyên soái Ngạc Khắc Thiện, Ngạc Khắc Thiện nổi giận, trách Ngạc Đạt
Mộc và yêu cầu hắn không được ép cưới ta, mà Tri phủ Kinh Châu thì phán
cho ta về nhà."
Triệu Bạch Ngư hơi ngạc nhiên, xem ra Ngạc Khắc
Thiện và Tri phủ Kinh Châu kia cũng hợp tình hợp lí, như thế làm sao có
thể táng tận lương tâm khiến cho mười ngàn tướng sĩ Thiên Đô Trại uổng
mạng cho được?
Hoắc Kinh Đường ghé vào tai y nói: "Ngạc Khắc
Thiện tin Phật, Tri phủ Kinh Châu Mông Thiên Túng thì không có việc gì
đáng lo ngại, năng lực trị phủ cũng ổn, nhưng không hiểu biết về quân sự nên hơi thiệt thòi trong xử lí việc nước, con người lại hơi cổ hủ.'
Triệu Bạch Ngư hiểu rồi.
Không phải vì Ngạc Khắc Thiện hợp tình hợp lý mà là vì tin Phật quá, không
chấp nhận có người hiếp đáp ni cô, mạo phạm thần phật.
Trên mặt
ni cô giàn giụa nước mắt, nàng nói: "Vị hôn phu của ta... Hắn tên Sách
Tang Cát, là người phiên tộc, cũng là thanh mai trúc mã của ta, sau khi
trưởng thành thì tham gia quân ngũ, ngàn dặm xa xôi suốt nhiều năm trời
không hề có tin tức gì, cuối cùng năm trước mới quay về từ chiến trường
nói muốn kết hôn với ta, hai nhà bọn ta đều đã bàn xong rồi, ta cũng
chuẩn bị hoàn tục, không biết Ngạc Đạc Mộc nghe được chuyện này từ đâu
mà cáo quan ta và Sách Tang Cát, Tri phủ Kinh Châu kia giận dữ, không
cho ta hoàn tục, còn đánh què một chân của Sách Tang Cát. Sau đó ta và
Sách Tang Cát vẫn còn liên lạc với nhau, bị Ngạc Đạt Mộc phát hiện nên
lại cáo quan lần nữa, nói ta sỉ nhục thần phật, muốn bắt ta lại lột da
để chuộc tội với trời."
"Vô lý." Triệu Bạch Ngư tức giận mắng: "Mông Thiên Túng cũng nghĩ như vậy sao?"
Ni cô gật đầu.
Hoắc Kinh Đường: "Bọn họ tôn sùng Phật, nếu như không nhờ có pháp luật Đại
Cảnh trói buộc, chỉ sợ họ sẽ lập ra một loạt hình phạt tàn khốc nghe mà
rợn người để trừng phạt những người làm nhục thần phật. Thục hộ* còn đỡ, Sinh hộ không phải con dân Đại Cảnh, càng không có cách nào trói buộc
được, Ngạc Khắc Thiện này thật sự tin Phật, vùng Kinh Nguyên lại là địa
bàn của ông ta, tất nhiên sẽ tiếp tục sử dụng một vài hình phạt của
phiên tộc Sinh hộ để trừng phạt những ai vũ nhục thần phật."
(*) Thục hộ: Ngày xưa dùng để chỉ những dân tộc thiểu số đã quy thuận và có trình độ phát triển cao.
Sinh hộ là phiên tộc Tây Bắc, có người Khương, dân tộc Thổ Phiên, dân tộc
Hồi Hột,... và nhiều tộc khác nữa, vì không thần phục Đại Cảnh mà cách
ly với quần chúng, phiên tộc không bảo vệ biên giới Đại Cảnh đều là Sinh hộ, người phiên tộc Thục hộ thì lại bảo vệ biên giới Đại Cảnh, họ quen
thuộc với nếp sống văn hóa, ngôn ngữ và ẩm thực của người Đại Cảnh hơn
nhiều, không khác mấy với con dân Đại Cảnh, còn phân chia ruộng đồng với quan phủ, cần phải nộp thuế.
Triệu Bạch Ngư biết rõ sự khác
nhau, có điều y đột nhiên tò mò: "Phật mà phiên tộc tín ngưỡng có liên
quan gì đến tín ngưỡng của con dân Đại Cảnh hay không?"
Hoắc Kinh Đường: "Liên hệ chặt chẽ. Tập tục kính Phật của phiên tộc là được truyền lại từ triều đại trước."
Triệu Bạch Ngư suy nghĩ một chút rồi cười rộ lên: "Như vậy thì dễ giải quyết hơn nhiều rồi."
Hoắc Kinh Đường: "Tiểu lang có cách."
Triệu Bạch Ngư: "Có thể thử một lần."
Hoắc Kinh Đường: "Thử thì thử, nhưng phía sau còn có hai con chuột, có muốn xử lý bây giờ không?"
Triệu Bạch Ngư: "Là đám người lúc nãy ấy hả? Không lừa được chúng à."
Hoắc Kinh Đường: "Người có chút kinh nghiệm thì đều rất khó bị mắc lừa."
Triệu Bạch Ngư: "Cũng phải."
Nhã Thiện khó hiểu nhìn bọn họ nói chuyện, trông như đã rơi vào mê mang,
điều duy nhất nàng có thể nghe hiểu được chính là đám người kia đã quay
lại rồi, thế là không khỏi sốt ruột.
Triệu Bạch Ngư an ủi nàng:
"Đừng lo lắng, đúng là ta muốn để cho bọn họ nhìn thấy cô ở trong xe
ngựa của ta đấy, còn muốn cho bọn họ biết ta ở đâu, muốn bọn họ tự mang
quan binh tới bắt ta đến Nha môn Kinh Châu, để cho Tri phủ Kinh Châu
đích thân đến thẩm tra ta nữa."
Vẻ mặt Nhã Thiện vẫn mơ hồ.
Triệu Bạch Ngư chỉ cười chứ không nói gì nữa.
***
Hai kẻ theo dõi xe ngựa đi theo suốt đường đến tận nhà trọ, thấy hai người
xuống xe ngựa, không lâu sau thì cô gái kia cũng xuống theo, lập tức
chạy về bẩm báo.
"Hay lắm! Ta đã nói rồi, giữa ban ngày ban mặt,
trên con đường lớn như vậy đột nhiên có một cô gái xinh đẹp xuất hiện,
có tên đàn ông nào mà không rung động chứ?" Kẻ cầm đầu tức giận bất
bình: "Cũng may ta có để tai mắt đi theo, bọn chúng mới không trốn
được!"
"Ý ngài là hai người kia vừa ý cô gái sao? Không đến mức
đấy đâu, ta thấy phong thái của bọn họ không tầm thường, có lẽ là vì
thấy gai mắt thôi."
"Ngươi thì biết cái gì? Hai người đó có vẻ
ngoài bất phàm, một kẻ nói chuyện hách dịch rặt giọng kinh đô chỉ e là
cũng đến từ đó, dọc theo con đường đó trước sau chẳng có nổi một quán
trọ nào, hai tên đàn ông chen chúc trong một chiếc xe ngựa, không có đàn bà để xoa dịu, bấy giờ có thấy heo mẹ cũng nhìn ra thành tiên đấy!
Huống chi cô gái ở am ni cô này thật sự có chút sắc đẹp, cũng rất dễ
hiểu khi nàng ta nhận được sự ưu ái từ người khác thôi... Ngươi nói
trong xe ngựa có hai người sao? Cô gái kia đang trốn trong nhà trọ có
đúng không?"
"Đùng vậy, ta nhìn thấy tận mắt mà."
Tên côn
đồ này cũng hơi thông minh, đảo mắt một vòng đã biết được hai người nọ
phong thái bất phàm, nếu như không cẩn thận mà đắc tội, mấy cái đầu rơi
cũng không đủ, thế là quay về cõng tên bị đạp gãy mấy khúc xương sườn,
cũng chính là thủ hạ của Ngạc Đạt Mộc chạy đến chỗ gã khóc lóc kể lể...
"Đại nhân nhìn xem, mấy anh em bọn ta suốt ngày suốt đêm không dám nhắm mắt
giúp ngài bắt cô gái kia, vất vả lắm mới bắt được nàng ta thì lại bị hai tên dại gái khốn nạn không biết chui từ đâu ra giật mất, còn đá anh em
ta một cái suýt chầu trời, đại phu nói về sau hắn không thể vận động
mạnh được nữa, cho dù có ăn uống dưỡng thương cũng không thể sống được
lâu hơn nữa."
Ngạc Đạt Mộc có vẻ ngoài trái ngược hẳn với người
cha to con của mình Ngạc Khắc Thiện, dáng người hắn không cao cũng chẳng thấp, hơi gầy nhưng sức bật cần có đều có, mặt mũi thì giống mẹ gã, có
hơi đoan chính nhưng lại bị phá hủy hoàn toàn bởi hai đầu mày nhuốm đầy
tà khí.
Sắc mặt gã không tốt: "Ngươi không nói các ngươi là người của ai sao?"
"Sao mà không nói chứ? Vừa nói xong hắn đã đánh đám bọn ta không thương tiếc rồi! Đại nhân, bọn họ không đánh bọn ta, rõ ràng là đánh vào mặt ngài!
Bọn họ đang giẫm đạp thể diện của Ngạc gia quân dưới chân đó ạ!"
Ngạc Đạt Mộc: "Dẫn đường, theo ta đến bao vây nơi dừng chân của những kẻ đó!"
"Đại nhân, ta, ta thấy bọn họ không giống người bình thường, nếu như là quý
nhân từ phủ kinh đô đến, chúng ta không thể đắc tội."
"Có ngươi
mới không đắc tội nổi ấy. Dù có là hoàng tử vương tôn thì đã đến Kinh
Châu rồi vẫn phải nể mặt Ngạc gia quân ta ba phần, hai tên nghèo nàn lụn bại chẳng có nổi một tùy tùng chỉ là cái rắm thôi!" Ngạc Đạt Mộc vung
tay lên: "Mang binh đi theo ta!"
"Còn nữa, đi truyền tin cho Mông Thiên Túng chuẩn bị khai đường thẩm án đi."
==
Min: Mấy nay tui bù đầu bù cổ với bài tập quá, vừa thuyết trình xong thì đi du
lịch một chuyến rồi về mới edit tiếp keke, mọi người cóa nhớ tui hem