Tạ thị và Triệu Bá Ung bị tin Triệu Bạch Ngư sẵn lòng gặp mặt nện vào đầu choáng váng, thoáng chốc không kịp phản ứng.
Tiểu hoàng môn thúc giục: "Triệu đại nhân? Triệu tế chấp? Triệu phu nhân!"
"À... À." Tạ thị hoàn hồn, tháo vòng tay xuống nhét vào tay tiểu hoàng môn, "Đa tạ công công."
Tạ thị và Triệu Bá Ung đều nở nụ cười.
"Tạ công công cát ngôn."
Nói xong, hai người nhanh chân bước lên bậc thang, đi vào cửa điện.
Dường như Tạ thị nhớ ra điều gì đó, lập tức khựng lại, sửa sang tóc tai,
chỉnh lại trâm cài đầu bị lệch, sau đó dùng khăn tay chà mạnh lên mặt để cho bản thân bà thoạt nhìn tươi tắn hơn, rồi bà vuốt áo quần phẳng
phiu, tự nhủ: "Không thể để ngũ lang hiểu lầm ta bán thảm được, thằng bé sẽ khó xử lắm."
Tiểu hoàng môn cảm thấy ngạc nhiên, sao phải đến mức này?
Nếu như cha mẹ ruột của gã là Tế chấp đương triều thì gã đã vừa lăn vừa bò
đi nhận tổ quy tông từ lâu rồi, vả lại trên đời này có con cái nào mà
không nhận cha mẹ ruột cơ chứ?
Triệu tế chấp cũng gật đầu, bắt
tay chỉnh đốn vẻ ngoài của mình, còn hỏi thăm tiểu hoàng môn xem trông
ông có dễ nhìn chưa, nhận được lời khẳng định rồi mới an tâm.
Tâm thần bất an một lát, hai người mới gom hết can đảm bước vào thiên điện, vừa nhìn thấy Triệu Bạch Ngư, ánh mắt đã dính chặt lên người y không
rời ra nổi.
Những gì có liên quan đến Triệu Bạch Ngư sao mà lại
thưa thớt đến thế, dù vắt sạch óc cũng không tài nào nhớ nổi hình ảnh
Triệu Bạch Ngư lúc nhỏ, cả khi Triệu Bạch Ngư đã đến tuổi thiếu niên,
chỉ còn lại vẻn vẹn vài khoảnh khắc ngắn ngủi không mấy tốt đẹp, nếu như không phải là nói những lời hung ác thì với y thì cũng chỉ là những
khuôn mặt lạnh lùng, đến giờ đây dư vị chỉ còn là thứ liên tục đâm vào
tim khiến máu tươi chảy ra ồ ạt, đau đớn vô cùng.
Tạ thị vội vàng lau đi ẩm ướt dâng lên trong mắt, "Tiểu Lân Nô," dừng lại, bà nhớ Triệu Bạch Ngư không biết nhũ danh từ lúc còn chưa ra đời của mình, thế là
đổi giọng: "Ngũ lang, con gầy đi rồi."
Khi chưa nhìn thấy người
tình cảm cuồn cuộn, nhiệt liệt trào dâng, nhưng gặp được ngươi rồi lại
sợ sệt không nói nên lời, liên tục do dự, chần chừ không tiến, âu cũng
vì sợ nói sai câu nào chữ nào đó sẽ làm cho con trai nhỏ tổn thương.
Triệu Bá Ung giật giật ống tay áo của Tạ thị, ý bảo bà nói sang chuyện khác,
nhưng bản thân ông cũng giấu lời trong lòng, dường như không biết phải
nói như thế nào, nửa chữ cũng không thể vọt ra khỏi miệng.
Tạ thị kéo tay áo về lại, bước lên phía trước hai bước, chăm chú ngắm nhìn Triệu Bạch Ngư, đặc biệt là đôi mắt của y.
Trong bốn đứa trẻ, chỉ có đôi mắt của Triệu Bạch Ngư là giống bà nhất, nhìn
nhiều một chút là có thể nhận ra, đến cả một bà cụ mắt mờ như mợ mà liếc một cái còn nhìn ra được, thậm chí bà ấy chưa từng được gặp ngũ lang và Triệu Ngọc Tranh mà vẫn có thể thấy được điều đó, vì sao bà lại mù
quáng không phát hiện cơ chứ?
Con trai nhỏ của bà ở ngay dưới mắt bà hai mươi năm, tận hai mươi năm!
Thế mà vẫn cần người ngoài chỉ ra sự thật, bà là người mẹ thất bại nhất trên đời này!
Tạ thị đau buồn từ bên trong, dùng hai mắt đẫm lệ nhìn Triệu Bạch Ngư, lại bước thêm về phía trước hai bước nữa, vươn tay ra muốn chạm lên mặt
Triệu Bạch Ngư, nhưng chợt nghĩ có lẽ y vẫn chưa biết thân thế bèn hỏi
bằng giọng vừa thận trọng vừa chờ mong: "Ngũ lang có biết..."
"Ta biết." Triệu Bạch Ngư cắt lời bà.
Sự bình tĩnh của y trái ngược hoàn toàn rõ ràng so với hai người đang xúc động.
Hai mắt Tạ thị sáng rực lên: "Là tại mẹ không tốt, mẹ không thể bảo vệ tiểu Lân Nô, không nhận ra tiểu Lân Nô, còn... Còn khắc nghiệt với con suốt
hai mươi năm thế nhưng, thế nhưng ngũ lang cho mẹ một cơ hội để chuộc
tội được không?"
Triệu Bá Ung cũng vội vàng lên tiếng: "Cũng
cho... Cho cha một cơ hội để chuộc tội con nhé." Lời vừa ra khỏi miệng,
ông liền phân vân không biết mặt mình có đang nghiêm túc quá, giọng điệu lạnh lùng quá rồi hay không, vì vậy nên ông cố gắng hết sức làm dịu
biểu cảm và giọng điệu, nở một nụ cười lấy lòng cứng ngắc thiếu tự
nhiên: "Ta đã nói hết sự thật chuyện tráo con năm đó ra ngoài rồi, nhưng không phải là ta có ý bắt con phải nhận tổ quy tông, không phải, trước
đây ta cũng không hề trục xuất con khỏi gia phả, ý của ta là, sẽ trả lại chính danh cho con, trong triều có đủ loại quan lại, trong ngoài kinh
đô đều biết đây là lỗi lầm của bọn ta, sẽ không trách ngũ lang đâu.
Ta..."
Giọng ông càng lúc càng nhỏ, luôn nghi ngờ không biết mình có nói sai gì hay không, cũng không dám xưng một tiếng cha, sợ trong
lòng Triệu Bạch Ngư có phản ứng ngược.
"Khoảng thời gian trước ta đã thương lương với mọi người trong dòng họ, sẽ xóa tên của Triệu Ngọc
Tranh khỏi gia phả, ta biết làm như vậy là rất tàn nhẫn vô tình... Hai
mươi năm trời đây cũng là, cũng là thái độ đối với con, thế nhưng cha
thật sự không thể dễ dàng tha thứ cho Triệu Ngọc Tranh, không thể để cho danh điệp của nó lại trong gia phả, cũng không chấp nhận tên của nó ở
lại bên cạnh tên con, ta vừa nhìn thấy nó, là sẽ nhớ đến cảnh ngộ của
con trai cha hai mươi năm qua."
Triệu Bá Ung nghẹn ngào nói,
đường đường là một vị tể tướng, mà ngay lúc này chỉ có thể luống ca
luống cuống đan chéo ngón tay vào nhau, muốn thể hiện rằng ông rất xấu
hổ, nôn nóng muốn được bù đắp, nhưng lại sợ Triệu Bạch Ngư nhìn thấy ông đối xử tàn nhẫn với Triệu Ngọc Tranh sẽ nhớ lại quá khứ bị lạnh nhạt,
nếu như ông không nói ra thì cũng lo lắng rằng Triệu Bạch Ngư sẽ lầm
tưởng bọn họ không cần y nữa, cũng không biết chừng sẽ hoài nghi bọn họ
còn muốn giữ Triệu Ngọc Tranh lại, muốn nuôi hai đứa con trai cùng nhau.
Nhưng mà không phải.
Sự mâu thuẫn tâm lý khiến cho Triệu tế chấp không tài nào mạnh mẽ và tự
tin như mọi khi nữa, giờ đây ông chỉ là một người cha ôm lòng hối hận
lại không biết phải bù đắp cho con mình như thế nào mà thôi.
"Ngũ lang không cần phải lo bị người khác trách cứ con ngang bướng, không nể mặt, cũng không cần sợ người ta mắng con bất hiếu, nói con không chịu
tha thứ cho Triệu Ngọc Tranh, không có ai nói, bọn họ cũng biết là cha
không hề lưu tình, tâm tính tàn nhẫn. Còn độc phụ Xương Bình kia, cha đã điều tra rõ ràng những tội lỗi mà ả phạm phải, tất cả tội đều đáng
chết, chắc chắn sẽ chém đầu răn chúng, không chừa toàn thây. Những thứ
khác, còn những chuyện khác nữa..."
Triệu Bá Ung ấp a ấp úng,
không có mặt mũi nào nói ra chuyện năm đó ngăn cản Triệu Bạch Ngư tham
gia kì thi và việc ép y gả cho Lâm An quận vương, vừa nghĩ tới là tim
ông lại quặn đau.
Ngũ lang và Lâm An quận vương kiêm điệp tình thâm, đã thật sự trở thành vợ chồng, bọn họ phải làm gì để vớt vát đây?
Mục đích tham gia khoa khảo là để làm quan, ngũ lang đã là đại quan tam
phẩm, trọng thần trong triều, là thanh thiên trong lòng lê dân bá tánh,
nào có còn cần lội vào khoa trường cho uổng công vô ích nữa?
Tài
nguyên dạy học mà thân tộc chuẩn bị, số quan hệ có được từ môn sinh Quốc Tử Giám bao gồm cả hai mươi lăm năm làm việc trong triều của ông đều
chẳng giúp được gì, đối với ngũ lang mà nói cùng lắm là chọn củi lên
núi, là việc thừa mà thôi.
Nội tâm Triệu Bá Ung tuyệt vọng, không thể không thừa nhận dù là quan hệ với cha mẹ bọn họ, hay là dòng dõi
thân tộc Triệu gia, thì đối với Triệu Bạch Ngư đó đều là thứ có cũng
được không có cũng chẳng sao.
Ngũ lang không cần bọn họ...
Tay của Tạ thị lại run rẩy, nhưng bà không hề từ bỏ mà mong đợi nhìn Triệu
Bạch Ngư: "Tiểu viện ngày trước mà con ở đang lệnh cho người mở rộng ra
rồi tu sửa lại một phen, còn mấy ngày nữa là tết trung thu, trong phủ đã chuẩn bị dưa quả và gia yến, ngũ lang đến được không con? Không cần
phải qua đêm, cũng không cần ở lại lâu, đến nửa khắc đồng hồ thôi cũng
được, tiểu quận vương cũng có thể đến, còn có cả Nghiên Băng, Tú ma ma
đều có thể đến phủ bất cứ lúc nào..."
Bà cẩn trọng hỏi lại: "Ngũ lang, ý của con thế nào?"
Triệu Bạch Ngư im lặng nhìn bọn họ, cha mẹ ruột đời này của y, Triệu Bá Ung
chức vị cao lại không nạp thiếp đã là điều hiếm thấy, vợ chồng ân ái,
anh em hòa thuận, vô cùng nuông chiều đứa con út trong nhà.
Triệu Ngọc Tranh người yếu nhiều bệnh, Tạ thị chăm sóc cậu cả ngày lẫn đêm,
chính tay bà làm mọi việc từ sắc thuốc đến mớm thuốc, trong ngoài phủ
kinh đô này không có chùa miếu nào mà bà chưa từng đi qua dập đầu.
Tạ thị là mẹ hiền, Triệu Bá Ung là cha nghiêm.
Ông chính là đại gia trưởng điển hình của thời phong kiến, tuy nhiên khác
với những vị cha mẹ bảo thủ không biết thay đổi khác, cách dạy dỗ của
ông dành cho mỗi đứa con cần phụ thuộc vào khả năng của chúng, vậy nên
mới có thể nuôi dạy ra được trạng nguyên lang Triệu Trọng Cẩm và Cấm vệ
quân Triệu Trường Phong, Triệu Ngọc Khanh.
Cũng có những lúc ông
vô cùng thiên vị, cực kì chiều chuộng dung túng cho đứa con út, có thể
vì cậu mà đôi lúc nhượng bộ, sẽ đưa cậu lên vai ngồi, chơi trò kỵ binh
cưỡi ngựa, lúc đi công tác xa, trong thư nhà gửi về chắc chắn sẽ ân cần
thăm hỏi con trai nhỏ một câu.
Nếu như Xương Bình công chúa không làm việc ác, chuyện tráo con cũng không xảy ra, bọn họ thật sự sẽ được
xưng là cha mẹ yêu chiều con cái nhất thời đại này, trong phủ kinh đô
cũng có không biết bao nhiêu nhi lang, nữ lang đều hâm hộ đám Triệu
Trường Phong bọn họ có được người cha người mẹ giống Triệu Bá Ung và Tạ
thị.
Triệu Bạch Ngư là người có linh hồn ở hai thế giới, lênh
đênh vô định giống như lục bình không rễ, thoạt đầu sinh ra cũng không
có cảm giác gì nhiều, chỉ mừng vì đã được lớn lên với thân thể khỏe
mạnh, cảm ơn trời cao đã ban cho y sinh mệnh thứ hai, cũng đã từng có
lòng hiếu kì muốn tìm hiểu thời đại nơi mình vừa được sinh ra.
Thời gian dần trôi qua, y cũng cảm thấy cô đơn, thấy nhớ nhung người thân và bạn bè ở đời trước, nhưng y thật sự có thể bình thường đối diện với cha mẹ ở đời này, cũng từng sinh lòng tò mò.
Sự quen biết và thân
mật giữa cha mẹ và con cái đòi hỏi một quá trình tìm tòi, y đứng ở bên
ngoài nhìn hai người Triệu Tạ, có lẽ là vì quan hệ huyết thống, hoặc có
lẽ vì linh hồn ở thế giới thứ hai này quá cô đơn, cho nên mới muốn tìm
một mối ràng buộc có thể kéo y xuống đất.
Không hề nghi ngờ gì nữa, tình thân là sự lựa chọn tốt nhất, không có gì khác ngoài nó.
Lúc đầu, khi vẫn chưa biết ân oán giữa người nhà họ Triệu và Xương Bình, y
còn từng nghi hoặc chẳng biết vì sao cha mẹ ruột của mình lại không muốn đến gặp mình, về sau khi biết được mối hận thù kia nặng nề quấn quít
như vậy, đã có lúc y nghĩ đến chuyện nên buông bỏ ràng buộc kia, rời
khỏi nhà họ Triệu hay không rồi.
Có lẽ khi đó y vẫn còn là một
Triệu Bạch Ngư lạc quan sáng sủa của đời trước, một Triệu Bạch Ngư thích làm việc tốt giúp đỡ mọi người, sống trong một thời đại văn minh bình
thường, được gia đình bạn bè thương yêu, nhận được vô số thiện ý, trưởng thành trong tình thương vô vàn, Triệu Bạch Ngư ở nơi ấy được nuôi dưỡng thành một chàng trai vô cùng hồn nhiên.
Mấy năm đầu, trong tiểu viện tan hoang chỉ có một mình Tú ma ma, mà Tú ma ma cũng rất lạnh nhạt với y, khi ấy y còn nhỏ quá.
Tay nhỏ chân ngắn không thể ra khỏi Triệu phủ, có đôi khi cách một bức
tường viện, đôi khi là vườn hoa sau phủ, đứng ở phía bên kia hồ nước
hoặc là núp sau hòn non bộ nhìn Tạ thị ôm ấp Triệu Ngọc Tranh, ngắm cả
nhà bọn họ vui vẻ sum vầy, tiếng cười nói vang lên không ngừng.
Y tự nhủ với mình, dù đó là lòng đố kỵ của y hay là sự lạnh lùng của Triệu gia đi nữa thì đều có thể bỏ qua được.
Những khi bị đối xử lạnh nhạt, bị ngó lơ, bị bắt nạt quá đáng, y đều tự rộng
lượng an ủi mình rằng không sao cả, tất cả những hành vi của mẹ ruột
mình đúng là rất khó mà tha thứ, huống chi ở hiện đại vẫn tồn tại quan
niệm cha mẹ nợ con cái trả.
Và lại giận chó đánh mèo vốn là
chuyện thường tình trong đời người, thấy Triệu Ngọc Tranh bệnh tật vạn
tử nhất sinh, nếu như con ruột của y phải chịu nỗi cực khổ như thế này,
có lẽ y cũng sẽ oán hận rât nhiều.
Lúc bị ép bỏ tham gia kì thi,
bị ép xuất giá, y cũng giải vây giúp cho Tạ thị và Triệu Bá Ung, y nói
bọn họ đã đối xử với y đủ tốt rồi, cùng lắm chỉ là không quan tâm, chỉ
là vài lời trách cứ lạnh lùng, ở trước mặt Triệu Ngọc Tranh sẽ lựa chọn
từ bỏ y, nhưng ít nhất không để cho y phải chết ở hậu trạch.
Ở thời đại này, tỉ lệ trẻ chết non rất cao.
Hậu trạch là nơi cất giấu vô số chuyện bẩn thỉu, có vô vàn cách khiến cho
một đứa trẻ chết đi trong thầm lặng, cả khi y là một đứa trẻ có được trí nhớ từ đời trước cũng sẽ không tránh nổi một trận phong hàn hoặc là
bệnh đậu mùa, thứ bệnh mà y học thời này không có thuốc đặc trị.
Ít ra là khi còn nhỏ y đã vượt qua được mấy trận phong hàn, lúc Tú ma ma
đi xin chỉ thị, Tạ thị còn lệnh cho người đi mời đại phu chứ không hề
khoanh tay đứng nhìn.
Y tìm kiếm tâm hồn và linh hồn để gắn kết
trên người của nhà họ Triệu, cố gắng tìm thứ gọi là tình thân trên người bọn họ, để rồi lại quên mất rằng ngay cả trong những mối quan hệ người
thân bình thường cũng có cha mẹ oán hận con cái, hoặc là con cái hận cha mẹ, huống chi giữa bọn họ còn có một Xương Bình chắn ngang.
Đời
trước Triệu Bạch Ngư không sở hữu một cơ thể khỏe mạnh, nhưng lại được
lớn lên cùng ánh sáng và tình thương, cũng coi như đã được đọc nhiều
sách vở, hiểu biết nhiều điều, tích cực rộng lượng, nhưng dù có thể hiểu được rất nhiều đạo lý, y vẫn rất giống một vị tướng lĩnh nói lý luận
suông, nhẹ dạ, mù quáng, ngây thơ, tự cho rằng mình nỗ lực đủ nhiều là
có thể thay đổi cảm nhận của người khác.
Dường như y không nghĩ
mình có thể dùng sức của bản thân để thay đổi thời đại này, nhưng vẫn
liều mình ôm lấy lý tưởng thiên hạ Đại đồng* của một thời đại rực rỡ
sáng chói không chịu buông tay, không chịu để cho nước chảy bèo trôi,
xua đuổi bóng tối, bất công từ bất cứ nơi nào ánh mắt có thể chạm tới,
cố gắng đem lại công lý và tự do trong khả năng của mình.
(*) Đại đồng (大同) là một tư tưởng Utopia từ thời cổ đại của Trung Quốc nói đến một thế
giới lý tưởng mà con người có thể đạt tới và thể hiện cho ước muốn lớn
về một xã hội tốt đẹp trong tương lai loài người bằng việc người người
thương yêu và giúp nhau, nhà nhà an cư lạc nghiệp và thịnh vượng, xã hội tự do và luôn ý thức tự giác vì chung, không cách biệt và xung đột, con người hạnh phúc và đạo đức.
Triệu Bạch Ngư không phải là
người mạnh mẽ, tỉnh táo, không phải là người thông minh tuyệt đỉnh đến
mức khiến ai nấy đều thán phục ngay từ đầu, y cũng từng ngây thơ, từng
phạm sai lầm, từng thua cuộc, ở trong thời đại này, y đã phải chao đảo,
đầu rơi máu chảy, chịu giày vò đến khi thương tích đầy mình để mà lớn
lên thành Triệu Bạch Ngư của hiện tại.
Cho nên vì thất bại, không trách được, không hận được, Triệu Bạch Ngư mới cam tâm tình nguyện chấp nhận tất cả mọi kết quả.
Ban đầu mê đắm tình thân không chịu tỉnh ngộ, khi mà rốt cuộc y cũng chịu
buông tay, sau đó cố ý quay đầu nhìn lại thì mới có một quyển sách nói
cho y biết rằng dù cho thân thế có được làm rõ, y vẫn sẽ không cầu được
thân duyên, y thể hiện lòng tốt ra bên ngoài, nỗ lực trao đi tình hữu
nghị nhưng không được đáp lại, y vẫn luôn cố gắng ôm lấy thời đại đã
loại trừ mình ngay từ đầu...
Đó chính là kết cục tàn khốc và bất
lực đã định sẵn mà Triệu Bạch Ngư té ngã đập đầu, tỉnh lại trong thân
thể của thế giới này phải đối mặt.
Sau khi y đã chấp nhận vận
mệnh của mình, thì người nhà họ Triệu lại thể hiện phản ứng hoàn toàn
trái ngược, nhưng mà y thật sự không cần nữa.
Từ lúc y bị ép gả thay, từ lúc y ngã đập đầu biết rõ chân tướng, chấp niệm nhỏ nhoi này đã bị dòng nước tưới tắt rồi.
Xoẹt một tiếng, luồng khói trắng lượn lờ bay xa ra ngút ngàn, chẳng còn dấu vết.
Có lẽ là vì thân duyên của cha mẹ và con cái mỏng manh, có lẽ phúc phần từ kiếp trước tu chưa đủ, kiếp này đầu thai vào nhà họ Triệu đã dây dưa
xong xuôi, không thể kéo dài cả đời.
Có duyên không phận mà thôi.
Triệu Bạch Ngư thầm thở dài: "Ta cũng không hận các người."
Tạ thị và Triệu Bá Ung đều lộ ra vẻ mặt vui mừng, nhưng nhanh chóng nhận
ra có gì không đúng, sao có thể không oán không hận được chứ?
Không oán không hận đối lập với không yêu không kỳ vọng, sao có thể không oán không hận cho được?
"Không... Ngũ lang cứ oán hận bọn ta cũng được, không sao cả, làm sai thì phải bị trừng phạt, không sao hết, dù con có oán, có hận, cha mẹ cũng không
buông đâu, cha mẹ chịu được." Tạ thị thấy Triệu Bạch Ngư định mở miệng
thì vội vàng chặn lời y, "Có phải đã muộn rồi không? Tiểu quận vương chờ cũng sốt ruột lắm rồi đấy, cha mẹ sẽ không làm lỡ thời gian con xuất
cung nữa, chuyện khác để sau hãy nói."
Bà quay đầu hỏi Triệu Bá Ung: "Sau này nói tiếp nhé, được không?"
Triệu Bá Ung gật gù: "Sau này còn nhiều thời gian, nếu như ngũ lang còn chưa
thể chấp nhận được trong thời gian ngắn, thì bọn ta sẽ cố gắng giảm bớt
cơ hội gặp mặt. Cứ từ từ thôi, không sao cả, có lẽ ta và mẹ con còn có
thể sống được thêm vài năm nữa, ráng sông thêm mười hai mươi năm, vẫn
còn rất nhiều thời gian... Trời sắp tối rồi, không nói nữa, cha mẹ đi
trước."
Người tinh mắt đều nhìn ra được bọn họ đều đang nóng lòng trốn tránh.
Triệu Bạch Ngư đột nhiên cất tiếng: "Khi ở Lưỡng Giang, Xương Bình dùng thân
phận mẹ ruột áp chế ta, ta đã nói cho bà ta hay, từ khi sinh ra ta đã
biết."
Ầm một tiếng như sấm dậy đất bằng, chấn động khiến cho
Triệu Bá Ung và Tạ thị cứng đờ cả người, hai người nhìn nhau bằng vẻ mặt mờ mịt, rồi cùng lúc nhìn về phía Triệu Bạch Ngư: "Cái gì?"
Ngũ lang nói gì?
Có phải bọn họ nghe lầm rồi không?
"Sinh ra đã biết?" Giọng Tạ thị rất nhỏ, bỗng nhưng nở nụ cười, hai mắt ngấn
lệ, không ngừng lắc đầu: "Ngũ lang hận mẹ, cho nên mới lừa mẹ đúng
không? Con sinh ra đã biết... Vậy chẳng phải suốt hai mươi năm qua con
đã biết rõ thân thế của mình rồi hay sao? Chẳng lẽ con biết rõ thân thế
mà vẫn chịu đựng sự đối xử bất công từ mọi người ư? Chẳng phải suốt hai
mươi năm này, mỗi ngày lòng con đều đau đớn hay sao?"
Triệu Bạch
Ngư lắc đầu, "Cũng không biết là trời cao thương xót hay là có ý trêu
chọc, mặc dù sinh ra đã biết, nhưng ta đã không còn nhớ rõ rất nhiều
chuyện ngày đó nữa rồi."
Năm giác quan của một đứa trẻ vừa ra đời vốn đã rất yếu ớt, cả ngày mê man, vả lại mang độc từ trong thai nên
càng suy yếu hơn, khi Ngụy bá cho y ăn tẩy tủy đan y còn chẳng hay, đến
hai tuổi có thể chạy nhảy mới biết rằng y đã đầu thai vào một gia đình,
biết được ân oán giữa nhà họ Triệu và Xương Bình, nhưng làm sao mà y có
thể ngờ mình đã đầu thai vào trong một quyển tiểu thuyết chỉ được nghe
qua lời kể của một y tá cơ chứ?
Nhiều năm trôi qua, y vốn đã quên mất nội dung quyển tiểu thuyết được nghe ở đời trước rồi.
"Hôm ta bị ép gả thay ngã đập đầu, chợt nhớ ra..."
Khi ấy ký ức bỗng nhiên trở nên vô cùng rõ ràng, nhớ đến lời bất bình của
cô gái kia, cô ấy nói rằng quyển truyện kia lẽ ra phải là truyện ngọt
sủng sảng văn, nhưng mà nam phụ trong truyện đáng thương quá, thật sự
khiến người khác đồng tình, không thể hận nổi.
Cô nói nam phụ độc ác kia tên là Triệu Bạch Ngư, còn nhân vật thụ chính là Triệu Ngọc Tranh.
"Nhớ ra ta đã biết chuyện mình bị đổi thân phận từ lúc sinh ra rồi."
Tạ thị nghẹn ngào, nhỏ giọng hỏi: "Khi ép con thay mận đổi đào, con đã
biết rồi sao? Khi đó Lâm An quận vương mang tiếng xấu, nghe đồn đã từng
chơi người khác chết trên giường, quan sai trong phủ kinh đô còn đến thu thi thể, con cũng là người xử lý vụ này... Con, lẽ ra con phải sợ hắn
mới đúng, nhưng con thà để mình bị gả đi chứ không muốn nói cho bọn ta
biết..."
Sự thật đã tàn khốc như vậy, sao còn có thể xé tan nát cõi lòng người thành vạn mảnh nữa?
Con trai nhỏ của bà, tiểu Lân Nô của bà đã phát hiện ra chân tướng trong
lúc chẳng còn hy vọng nào, cha mẹ ruột, anh em ruột, tất cả mọi yêu
thương vốn phải thuộc về y đều bị dời sang cho Triệu Ngọc Tranh, mà y
còn bị người thân ép đi dọn dẹp cục diện hỗn loạn mà Triệu Ngọc Tranh
gây ra, phát hiện oán hận mà y phải chịu đựng vốn chẳng hề liên quan gì
đến y, phát hiện ra cảnh ngộ bất công, mọi tổn thương suốt mười chín năm qua đều đến từ người thân ruột thịt mà ra cả.
Vào giây phút nhận ra được sự thật, hẳn là y đã phải tuyệt vọng lắm?
Sao có thể tàn nhẫn như thế?
Sao có thể đối xử với y như vậy?
Triệu Bạch Ngư nhìn cha mẹ ruột của mình yêu thương Triệu Ngọc Tranh, vị trí
thế thân của y, bị cha mẹ anh em bắt tay bức bách, trong lòng đã phải
đau đớn biết bao nhiêu chứ?
Có phải là lòng như dao cắt, có phải là vạn tiễn xuyên tâm hay không?
Vẻ mặt Triệu Bá Ung trống rỗng, theo bản năng hỏi: "Vì sao lại không nói cho cha mẹ biết sự thật?"
Triệu Bạch Ngư bình tĩnh đáp: "Ta không có bằng chứng."
Để vạch trần sự thần cần phải có bằng chứng, y có thể đưa ra được bằng chứng gì? Ai sẽ tin lời y nói đây?
Huống chi sự che chở và yêu thương Triệu Ngọc Tranh của người nhà họ Triệu
luôn khiến cho y chùn bước, cái chết không ai quan tâm của "Triệu Bạch
Ngư" sau khi chân tướng được làm rõ trong truyện gốc cũng khiến cho y sợ hãi.
Y sợ.
Y sợ nói ra sự thật rồi sẽ phải thu dọn đồ đạc rời khỏi phủ kinh đô ngay trong đêm, chỉ được bồi thường một ít, bởi họ sợ rằng sự tồn tại của y sẽ làm Triệu Ngọc Tranh phải khổ sở.
Có lẽ là vì số lần tổn thương thất vọng bị tích tụ quá nhiều, khi đạt đến
đỉnh điểm giống hệt như một ngọn núi lửa khí thế sắp sửa phun trào nhưng cuối cùng lại không phun trào, tất cả sức lực đều đã cạn kiệt trong quá trình tích trữ và chuẩn bị, thế là nản lòng, nhưng rồi nó trở nên bình
tĩnh im ắng đến lạ.
Khoảnh khắc biết sự thật y đã buông bỏ được,
một nguyên nhân ngẫu nhiên nào đó ít nhiều thúc giục y mặc kệ nhà họ
Triệu, giúp cho đáy lòng y thừa nhận hai bên thân duyên mỏng manh, không nên yêu cầu xa vời.
Triệu Bá Ung run rẩy nói: "Nếu như con nói thẳng ra, khi ấy ta cũng không phải hoàn toàn không tin tưởng."
Tuy rằng hoang đường, nhưng với bản tính đa nghi cẩn thận của ông, cùng với lòng tin rằng Xương Bình rất độc ác và cố chấp, cái gì ông cũng có thể
làm được.
Mặc dù không dễ dàng tin tưởng, nhưng ông sẽ lệnh cho
người đi thăm dò, bất cứ việc gì, chỉ cần ông ra tay thì chuyện này nhất định sẽ được giải quyết một cách hoàn hảo, cho dù chỉ là một chút vài
dấu vết để lại, ông cũng có thể điều tra được.
"Cha sẽ tra được." Ông nhìn Triệu Bạch Ngư, hai mắt đỏ bừng, ánh mắt khẩn cầu: "Cha nhất định sẽ điều tra được mọi chuyện."
Sau khi thốt ra những lời này xong, nhìn thấy biểu cảm bình thản của Triệu
Bạch Ngư, Triệu Bá Ung đột nhiên hiểu ra rằng, thành kiến mười chính năm trời và mối thù thâm căn cố đế đã xóa bỏ đi toàn bộ lòng tin của Triệu
Bạch Ngư với bọn họ rồi.
Cho đến bây giờ, rốt cuộc là phải bị
chèn ép đến mức nào, một người trao đi thiện lương vô điều kiện, hết sức chân thành và thật lòng với thân hữu như ngũ lang mới không dám tin
tưởng bọn họ nữa?
"Có lẽ vậy." Triệu Bạch Ngư bật cười, không có
thói quen cũng không muốn kể ra tâm trạng của y lúc đó, "Trong chuyện
này, ta là người bị hại, các người cũng là người bị hại. Nghĩ đi nghĩ
lại, đã có quá nhiều chuyện ma xui quỷ khiến, quá nhiều chuyện ngoài ý
muốn khiến cho chúng ta bỏ lỡ khả năng kéo dài thân duyên này."
Y đơn giản quy hai chuyện Triệu gia ép buộc y từ bỏ tham gia khoa khảo và thay mận đổi đào xuất giá về "chuyện ngoài ý muốn" để giữ lại mặt mũi
cho hai người.
"Thân duyên thân duyên, hữu thân hữu duyên, sênh
khánh đồng âm. Hữu thân vô duyên, tự thố đồng dị." Triệu Bạch Ngư lui về phía sau ba bước, vén áo dài lên, một quỳ ba khấu: "Thương xót cha mẹ,
vất vả sinh ta."
Hai quỳ ba khấu: "Triệu đại nhân, Triệu phu
nhân, là tại Triệu Bạch Ngư ta mệnh yếu duyên mỏng, số mạng không tốt,
không trách hai người."
Ba quỳ ba khấu, trán chạm đất không ngẩng dậy: "Khi Triệu Bạch Ngư đồng ý gả vào phủ Lâm An quận vương, ân oán từ nay về sau đã không còn nữa, dùng cả đời để thanh toán."
Ba quỳ chín khấu này gõ vào lòng hai người Triệu Tạ, khiến cho ruột gan bọn họ như đứt đoạn từng khúc.
"Mẹ sai rồi, là tại mẹ sai, không phải tại con mẹ, ngày xưa cũng không nên
cắt đứt tương lai của con vì Triệu Ngọc Tranh, không nên ép con vào hang hổ!" Tạ thị nhào đến trước mặt Triệu Bạch Ngư định nâng y dậy, khóc
không thành tiếng nói: "Không cần phải quỳ mẹ, con không cần quỳ mẹ,
không thể nào thanh toán hết được, con không thể, con chưa bao giờ mắc
nợ bọn ta, sao có thể nói hai bên đã hết ân oán cơ chứ?"
Triệu Bá Ung chậm rãi cúi người nói: "Có... Có duyên mà, duyên phận có thể kéo dài được."
Triệu Bạch Ngư lặng lẽ che miệng vết thương dường như đã rách ra, ngẩng đầu
lên nói: "Hai bên không còn liên quan, an ổn phần mình là được rồi."
Cần gì phải thế?
Tạ thị và Triệu Bá Ung đều phát hiện ra sắc mặt của Triệu Bạch Ngư đã tái
nhợt, nhìn về phía tay đang che chắn ở vị trí miệng vết thương của y lại càng tuyệt vọng hơn nữa, bởi vì y thà ép mình nhẫn nhịn chứ không muốn
kêu một tiếng đau trước mặt bọn họ.
Triệu Bạch Ngư biết được sự
thật, bằng lòng gả vào phủ quận vương cũng không muốn nói ra, bọn họ đã
biết đời này không có khả năng hòa giải nữa rồi.
Có lẽ đối với
Triệu Bạch Ngư, không oán không hận, không chờ mong bất kì điều gì đã là sự hòa giải của y với thân duyên đời này rồi, còn đối với người nhà họ
Triệu mà nói, thì đây chính là thương tổn tan nát cõi lòng đi theo suốt
cả đời.
Ba quỳ chín khấu, trả lại ơn sinh và tất cả những thiệt
thời năm xưa, chẳng thua gì mạnh mẽ đào tim của Tạ thị và Triệu Bá Ung
ra, gọt vào da thịt, đánh gãy xương cốt của bọn họ, cắt đứt gân nối liền xương, máu mủ chí thân, đau đớn đến mức đời này họ khó lòng mà thanh
thản nữa.
Không cam lòng sử dụng mọi cách, bọn họ vẫn không thể níu kéo Triệu Bạch Ngư.
Là do chính tay bọn họ cắt đứt thân duyên này, từ khoảnh khắc bọn họ ép
Triệu Bạch Ngư gả ra ngoài, ân oán hai bên đã biến mất, bây giờ đổi ý
muốn bù đắp lại, trên đời nào có chuyện tốt đến dễ dàng như vậy được?
***
Triệu Bá Ung và Tạ thị dìu dắt nhau, hai bóng lưng còng xuống bước ra khỏi
thiên điện, tiểu hoàng môn vẫn luôn chờ ở bên ngoài vốn định nói vài câu khách sáo, không ngờ sắc mặt của hai người xám xịt vô cùng đau đớn,
khiến cho người ta nhìn thấy mà kinh hãi.
Chỉ đứng cách vài bước
thôi, dù bọn họ chẳng nói một lời, mặt không biểu cảm, gã vẫn có thể cảm nhận được bầu không khí trầm lặng này tràn đầy đau thương.
Tiểu
hoàng môn sợ sệt khựng lại, không dám tiến lên, trơ mắt nhìn hai người
lướt qua gã như lướt qua không khí đi về phía bậc thang, Triệu tế chấp
từ trước đến giờ cực kì khỏe mạnh bấy giờ tâm trạng hoảng hốt, giẫm hụt
té lăn xuống ba bốn bậc thang, đau đến mức không gượng dậy nổi.
Cũng may lúc té xuống ông đã nhanh chóng buông tay Tạ thị ra, cho nên không kéo bà xuống cùng.
Tiểu hoàng môn nóng ruột vội vàng chạy xuống đỡ người dậy, lớn giọng hô: "Gọi thái y đến!"
Trong lúc đó hắn vô tình thoáng nhìn qua Tạ thị, phát hiện ra sắc mặt bà rất
thờ ơ, không quan tâm mấy đến Triệu tế chấp vừa mới té bị thương, trông
chẳng ra dáng đôi phu thê tình thâm nổi danh kinh đô gì cả.
Thái y nhanh chóng đến nơi, chẩn đoán Triệu Bá Ung chỉ bị thương chân, có khả
năng đã tổn thương đến gân cốt nhưng không đến nỗi gãy chân, chú ý an
dưỡng hai ba tháng là khỏi.
Trong lòng tức thì tự hỏi bậc thang rộng như thế này, sao mà có thể bước hụt để ngã như vậy được?
***
Phủ Lâm An quận vương.
Triệu Bạch Ngư về phủ, đám người Hải thúc đã đốt sẵn chậu than và vỏ bưởi ở
cửa ra vào để cho y bước qua rồi vẫy lên người y mấy giọt nước bưởi,
dùng gỗ đào gõ vào lưng y ba cái, sau đó âm thầm đưa cho y một cái hầu
bao, bên trong đựng ba đồng tiền trừ tà.
Triệu Bạch Ngư muốn nói không cần phải làm vậy, bị bọn họ nghiêm túc phản bác lại: "Ngươi còn nhỏ không hiểu đâu."
Đám người Lý cô nương cũng đến, trên những gương mặt trẻ trung xinh đẹp đều là vẻ mê tín cho rằng làm vậy là đúng.
Triệu Bạch Ngư cãi không lại, quay đầu tìm Hoắc Kinh Đường, phát hiện đối
phương như đang suy nghĩ gì đó, giật mình nhận ra hắn mới là trùm mê tín ở nhà này.
Triệu Bạch Ngư đỡ trán: "Được rồi."
Mặc kệ bọn họ vậy.
Tú ma ma nói với y: "Vào nhanh lên, mấy ngày trước các ma ma đã vội vàng
chạy khắp mấy cái chợ trong phủ, cướp được hơn mười con cua thu chắc
thịt, vốn là phải đợi thêm một hai tháng nữa mới có cua ngon, nhưng vào
thời tiết này nếu như kĩ một chút vẫn có thể tìm được cua ngon không
thua gì cua thu. Thả nuôi trong phòng bếp mấy ngày, nghe nói hôm nay ngũ lang về nên đặc biệt đem ra nấu. Có cua nhồi cam, cua ngâm rượu, cua
hấp, cua om thịt kho tàu... Cho ngươi ăn thỏa thích luôn."
Lý cô nương tiếp lời: "Ngũ lang cứ ăn thoải mái, Từ đại phu nói ăn cua không làm ảnh hưởng đến vết thương lành miệng."
Ngụy bá trầm tĩnh kiệm lời bấy giờ cũng góp một câu: "Cua có thể xua đuổi tà ma."
Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên, không ngờ Ngụy bá mày rậm mắt to cũng lưu lạc rồi.
... Nhưng mà ăn cua có thể trừ tà sao?
Đây là lần đầu tiên nghe đấy.
Mọi người trong phủ quận vương đều vây quanh Triệu Bạch Ngư, nói cười rôm
rả. Triệu Bạch Ngư bước một chân qua bậc cửa tiền thính, bỗng nhiên dừng lại, quay đầu nhìn Hoắc Kinh Đường đang im lặng đi theo sau lưng.
Dù y không nói, Hoắc Kinh Đường cũng thừa biết là y muốn hắn đi cùng, thế
là hắn giả vờ giả vịt thở dài, bước lên đẩy những người khác ra, nắm tay Triệu Bạch Ngư ra vẻ: "Không cách nào bắt được em cả." Rồi hắn quay đầu như muốn nói cho mọi người bên ngoài nghe: "Đừng rời khỏi ta nữa."
Đám người Lý cô nương, Nghiên Băng và Tú ma ma: "..."
Hải thúc và những vị lớn tuổi trong phủ quận vương đều yên lặng xoay mặt
đi, rất không muốn thừa nhận nhưng đây chính là tiểu quận vương của bọn
họ.
Cả một bữa tiệc chỉ có hơn mười con cua, chia cho mỗi người
một con là xong, nhưng Triệu Bạch Ngư vừa mời, mọi người lập tức tìm cớ
bỏ chạy, chỉ để lại một mình y và Hoắc Kinh Đường ăn cơm.
Hoắc Kinh Đường bỏ vỏ lóc thịt cho y, dáng vẻ giống hệt như đang nuôi heo.
Triệu Bạch Ngư chỉ cần chuẩn bị đặt đũa xuống, Hoắc Kinh Đường sẽ bắn ngay
ánh mắt "Tiểu lang không thương ta không cần ta" để tấn công, y cũng
không rõ đến cùng là trong khoảng thời gian này điều gì đã thay đổi Hoắc Kinh Đường nữa, làm sao mà hắn có thể ngây thơ dùng thủ đoạn không biết xấu hổ để làm những chuyện này vậy chứ?
Vừa ăn thịt cua mà Hoắc
Kinh Đường ân cần lóc ra, Triệu Bạch Ngư vừa lo lắng, sau này hắn sẽ
không bày mấy chiêu kiểu như một khóc hai quấy ba thắt cổ chứ?
Nghĩ đến dáng vẻ khóc lóc om sòm của Hoắc Kinh Đường, Triệu Bạch Ngư không nhịn được sợ run cả người.
Hoắc Kinh Đường: "Lạnh à?"
Triệu Bạch Ngư: "Không có." Sau đó vội vàng lùa một đống thức ăn vào miệng.
***
Ăn xong đương nhiên là đi dạo, rồi nghỉ ngơi một chút nữa, đến khi trời tổi hẳn thì đi tắm rửa.
Đã lâu rồi Triệu Bạch Ngư không tắm, để tránh cho miệng vết thương bị
nhiễm trùng, y chỉ toàn dùng khăn ướt lau mình, hỏi Từ thần y, nghe gã
nói là có thể vào nước rồi bèn vô cùng sung sướng bước vào phòng tắm lộ
thiên trong phủ.
Triệu Bạch Ngư vừa tháo đai lưng xuống vừa do dự nhìn Hoắc Kinh Đường đang đi theo sau y như nhàn nhã đi dạo, "Chàng
cũng muốn tắm hả?"
Hoắc Kinh Đường chắp tay, nghe vậy thì nói: "Em tắm đi."
Nói xong kéo ghế quý phi ra, đặt ngay cạnh bể tắm nằm xuống ngắm sao.
Triệu Bạch Ngư đưa lưng về phía Hoắc Kinh Đường, mặc dù chuyện gì cũng làm
rồi, theo lý mà nói không đến nỗi quá xấu hổ, nhưng mà không có bầu
không khí kia thì vẫn khá là lúng túng ngại ngùng khi không mảnh vải che thân.
Lớp áo trong cùng rời khỏi cơ thể, cũng là lúc bỗng dưng
nghe thấy tiềng ngâm nga trầm thấp của Hoắc Kinh Đường vang lên sau
lưng, y nghiêng tai lắng nghe, nghe được câu hát khe khẽ: "Tình đến nghĩ lại mà đau lòng, chỉ đành phó mặc cho gió đông..."
Là tình ca,
giai điệu rất hay, Hoắc Kinh Đường hát cũng rất ra gì, lại thêm âm điệu
hơi trầm khàn, hạ tông thấp xuống một chút sẽ để lộ ra một chút phiền
muộn và si mê quấn quýt, chui vào trong tai ngứa ngáy.
Triệu Bạch Ngư vô thức nghiêng mặt nhìn sang, vừa khéo thấy Hoắc Kinh Đường đang
nhìn y mỉm cười, hai tay vỗ nhịp trên đùi, thay đổi một câu hát khác:
"... Ta và em một lòng một dạ, nguyện tin yêu nhau đến trăm tuổi, cả đời này một khắc cũng không rời."
Hoắc Kinh Đường giữ nguyên biểu
cảm, mái tóc dài buông xõa, áo dài tay rộng, vạt áo phanh rộng, phóng
đãng không bị trói buộc, xung quanh tự có phong thái điên cuồng thuộc về riêng mình, đâu đó thấy được quá khứ chôn giết quân địch, thấm đầy máu
tươi từ trong xương cốt, nhưng trên tay lại đeo vòng Phật, giữa những
ngón tay ngoại trừ vết chai do đao kiếm mài ra, còn có vết chai nổi lên
do chép kinh Phật.
Đã là Nhân đồ, còn là Phật tử, một tổ hợp mâu
thuẫn như thế kết hợp với Hoắc Kinh Đường lại trở thành một thứ mê hoặc
lòng người.
Một người như Hoắc Kinh Đường có lẽ sẽ muốn oanh liệt cả đời này, hắn là rượu mạnh đao điên, là ngọn lửa cháy lan ra đồng cỏ, cũng là ánh mặt trời kiêu ngạo chói chang, hắn không quan tâm đến ánh
mắt của người khác, muốn khóc sẽ khóc, muốn giận sẽ giận, tuy rằng lúc
giận chiếm phần nhiều hơn lúc khóc... Trước mắt đã nhìn thấy được khi
Triệu Bạch Ngư cửu tử nhất sinh.
Dù là đoan chính nghiêm túc hay
là đứng đắn đàng hoàng, khi hắn đã muốn quyến rũ người khác, thì thật sự không có cách nào ngồi yên mà lòng không loạn cả.
Triệu Bạch Ngư nuốt nước miếng, líu ríu nói: "Vết thương của ta còn chưa ổn, làm mạnh quá... Sẽ rách ra."
Ánh mắt của Hoắc Kinh Đường lập tức trở nên quỷ quyệt, im lặng một hồi lâu
mới thở dài nói: "Thật ra ta chỉ muốn để tiểu lang thấy rằng ta cũng có
được vài phần giống thư sinh học đòi văn vẻ thôi, không ngờ tiểu lang
lại nổi hứng thú với ta."
Hắn giang hai tay, kéo vạt áo ra một chút đủ để thấy được cơ bụng tuyệt vời: "Ta sẽ nhẹ thôi."
Triệu Bạch Ngư định quát hắn không đứng đắn, nhưng mở miệng lại hỏi: "Có thể làm không?"
Hoắc Kinh Dường đáp: "Tin tưởng lực cánh tay của ta đi."
Đôi phu phu xa cách một năm không cận kề da thịt liếc nhìn nhau, một người
ngồi thẳng dậy, người còn lại nhẹ nhàng cất bước đi tới, phối hợp rất ăn ý.
***
Suy cho cùng thì cũng do không kìm lòng nổi, miệng vết thương vẫn bị rách ra, hai người về phòng cúi đầu chịu lời phê bình của Từ thần y, thành thật tự kiểm điểm.
"Thứ lỗi cho ta nhưng
phải nói, tiểu quận vương ngài bình thường cũng tỉnh táo lắm cơ mà, hai
mươi mấy năm trước thật sự thanh tâm quả dục giống hệt như Bồ Tát, ta
còn tưởng rằng ngài không mấy hứng thú với tình yêu của phàm thế nhân
gian, cho nên lúc này mới yên tâm để hai người ở cùng nhau, cứ nghĩ ngài là người có chừng mực chứ. Đương nhiên ta biết rõ hai người thành thân
mới hai năm, nhưng thời gian xa nhau đã tròn một năm trời, củi khô bén
lửa là chuyện bình thường, tình yêu nam nữ... tình yêu nam nam cũng
giống vậy thôi, ăn uống yêu đương là ham muốn lớn nhất của con người,
nhưng các ngươi phải lý trí một chút! Kiềm chế một chút chứ!"
Triệu Bạch Ngư cúi đầu: "Ta cũng sai."
"Không thì sao hả? Tiểu Triệu đại nhân cảm thấy lời ta nói không dính dáng gì
đến ngài đấy à? Cái nết xấu của tiểu quận vương ai ở Tây Bắc mà không
biết? Nhưng mấy ai biết được cái nết đó sẽ thay đổi lúc nào chứ! Nhưng
mà ngài thì không giống như vậy, ngài là quân tử trong sáng như trăng,
là Bồ Tát mà trời phái xuống, ai không quen biết ngài còn nghĩ ngài uống sương sớm để mà no bụng, ai biết được ngài có thể tham hoan túng dục
đến mức này hả!"
Từ xưa đến nay, câu nói đừng đắc tội bác sĩ
chính là lời nói chí lý nhất, coi như bình thường gã cũng rất trung
thực, rất tận tụy và kính nể, thậm biết cảm kích y không hết vì là ân
nhân cứu mạng vợ gã kiêm bà mối, nhưng bất cứ ai không coi lời của bác
sĩ ra gì thì đều có thể bị tóm lại mắng cho một trận.
Những lời châm biếm mà hắn nói có khả năng sát thương cực cao.
Triệu Bạch Ngư xấu hổ cúi đầu thấp hơn, để lộ dấu vết trên cổ ra.
Hoắc Kinh Đường nhìn thoáng qua, hả hê run chân.
Từ thần y thấy động tác run chân của hắn, hơi lạnh trên người đột nhiên tăng lên.
Đúng là hết thuốc chữa!
***
Ăn uống ngủ nghỉ trong phủ vài ngày, chớp mắt cái đã đến tết Trung thu.
Rước đèn và dùng bữa cơm đoàn viên chính là những hoạt động chính của tết
Trung thu, từ lúc hoàng hôn, các món ngon vật lạ đã được chuẩn bị sẵn,
ăn uống no nê đến khi trời sụp tối rồi thì đi tụ tập ngoài các phiên
chợ, thâu đêm suốt sáng.
Trần Sư Đạo đã đặt chỗ ở một quán rượu
lớn nhất trong phủ để ngắm trăng đêm nay, mời Hoắc Kinh Đường và Triệu
Bạch Ngư tới chung vui, hai người đều đã đồng ý.
Nhưng trước khi đến điểm hẹn, Hoắc Kinh Đường đã đưa Triệu Bạch Ngư đến chùa Hồng Phúc.
***
Điện Vạn Phật, chùa Hồng Phúc.
Hàng vạn ngọn đèn sáng lấp lánh như muốn che cả trời đất, từng ánh nến nhỏ
góp lại thành biển lửa trên thảo nguyên, nguy nga long trọng, thật sự
làm lòng người rung động, đúng lúc đó có tiếng chuông vàng vang lên cách đó không xa như vọng lại từ ngàn xưa, trong lòng tự nhiên sinh ra cảm
giác quạnh vắng và bao la hùng vĩ, vừa thần bí vừa tịch mịch, còn có cảm giác như thần phần vẫn tồn tại đâu đó ở nhân thế này nữa.
Triệu Bạch Ngư nhẹ giọng hỏi: "Đây là pháp hội vạn chúng cúng đèn sao?"
Hoắc Kinh Đường: "Có biết ba mươi ngàn ngọn đèn trong ngoài điện Vạn Phật này đều là để cầu phúc cho ai không?"
Triệu Bạch Ngư mơ hồ có được đáp án.
Hoắc Kinh Đường kéo y đi, chọn một hàng đèn cầu phúc gần đó, chỉ vào giấy
dán trên thân đèn nói: "Chư Phật hành quyết, cầu cho thanh thiên Triệu
Bạch Ngư vô tai vô thống." Chỉ sang hàng tiếp theo, "Ngàn cầu ngàn ứng,
giải trừ mọi điều không như ý trong đời Triệu Bạch Ngư.", rồi tiếp tục
đến một hàng khác, "Quan Thế Âm Bồ Tát đại từ đại bi, cầu cho thanh
thiên Triệu Bạch Ngư không còn tai nạn, độ nhân quả, không gì không hài
lòng, muốn gì được nấy."
Lòng Triệu Bạch Ngư hoảng hốt: "Đèn ở đây... Đều cầu cho ta sao?"
Y nhớ lại lúc hôn mê mình đã mơ hồ nghe được, nhưng tưởng đó là lời nói
quá thôi chứ không đúng thật, nhưng cảnh tượng này hùng vĩ và thành khẩn hơn y tưởng nhiều.
"Không chỉ chùa Hồng Phúc, mà chùa Bảo Hoa
cũng có, còn có cả những dân chúng ở Lưỡng Giang, Hoài Nam nhận ân huệ
của em, hoặc là cảm niệm em đã cầu công bằng, bên vực lẽ phải vì bọn họ
nữa, không chỉ ba mươi ngàn ngọn đèn, một trăm ngàn, một triệu ngọn
đèn...Lê dân bá tánh trong thiên hạ này đều nhớ đến em, ở đây còn có một ngọn đèn của Trần Sư Đạo, đám người Nghiên Băng, Đỗ Công Tiên, Phạm Văn Minh cũng đến đốt đèn, Hạ Quang Hữu ở Hoài Nam và Trần Phương Nhung ở
Sơn Đông ngàn dặm xa xôi đều sai người đến chùa Hồng Phúc này đốt cho em một ngọn đèn cầu phúc."
"Sơ đầu nương tử, Lý Ý Như mà em đã cứu, Đặng Vấn An được em sửa lại án oan cho, Hoàng Thanh Thường, Khuông Phù
Nguy, Dương thị... Không ai là không nhớ đến em, không ai là không nóng
lòng nóng dạ vì em cả."
Hoắc Kinh Đường ôm Triệu Bạch Ngư từ phía sau: "Nếu như có một ngày ta không giữ được em nữa, thì em cũng phải nể tình lê dân bá tánh, ở lại thêm một chút nữa rồi hãy đi nhé."
Triệu Bạch Ngư muốn chết dọa Hoắc Kinh Đường đến nỗi giờ phút này rồi hắn vẫn không có tự tin, mặc dù từ sau khi tỉnh lại, Triệu Bạch Ngư đã thể hiện rằng y luôn cần đến hắn, mặc dù y nói rằng y trở về vì Hoắc Kinh Đường, nhưng hắn vẫn còn rất sợ hãi.
Ở lại chùa Hồng Phúc thêm một lúc nữa, hai người mới bước to bước nhỏ rời đi, mãi đến giờ Thìn năm khắc mới tới quán rượu, lúc này trăng đã treo
cao giữa trời, ánh trăng như lụa, chợ đêm dưới lầu đông như mắc cửi, ven sông trang trí mấy ngàn chiếc đèn lồng rực rỡ, cảnh tượng vô cùng rung
động lòng người.
Trong quán rượu, ngoại trừ Trần Sư Đạo còn có Đỗ Công Tiên, phu phu Khang vương, Hộ bộ Phó sứ, Công bộ Thị lang, Cao
đồng tri... Quan triều đã đến hơn phân nữa, đều mặc thường phục, hoặc
nằm hoặc ngồi hoặc nghiêng ngả, nhìn thấy Triệu Bạch Ngư bèn nhao nhao
vẫy tay gọi lại.
Hai người đi vào giữa chào hỏi một lát, rồi mượn trăng làm thơ, hoặc đi phạt rượu, chơi vui vô cùng.
Bên cạnh Triệu Bạch Ngư là Cao đồng tri, ông giơ chung rượu lên nói với
Triệu Bạch Ngư: "Lão phu kính tiểu Triệu đại nhân, vì công lý."
Triệu Bạch Ngư thấy hơi lạ, cầm chung rượu tính đáp lễ, bị Cao đồng tri đè tay xuống, đối phương kính chén thứ hai.
"Lão phu lại kính tiểu Triệu đại nhân, lập mệnh cho dân."
Đến chén thứ ba, Cao đồng tri giơ lên, nhìn chằm chằm Triệu Bạch Ngư nói:
"Lão phu kính tiểu Triệu đại nhân chung thứ ba, là muốn nói hai tiếng
xin lỗi."
Xin lỗi vì ông thân là Tam công Cửu khanh mà lại không thể làm gương tốt, làm quan thế là uổng.
Triệu Bạch Ngư lộ vẻ xúc động, sau đó mím môi cười, uống cạn một chung rượu
rồi nói: "Hai chung trước ta không dám nhận, chung thứ ba ta sẽ đáp lễ,
ông không được cản ta đâu." Nói xong uống cạn rượu trong chén.
Cao đồng tri sửng sốt, sau đó cười to thoải mái.
Người ngoài không biết, chỉ coi rằng đó là một cuộc trò chuyện thú vị, cho nên tiếp tục chuyên tâm chơi đùa ngắm trăng.
Triệu Bạch Ngư đảo mắt qua từng người, ân sư Trần Sư Đạo, Tể tướng Cao đồng
tri, phu lang Hoắc Kinh Đường của y, còn có chúng quan viên khác nữa,
trăng sáng nhô cao, gió thu lành lạnh thổi qua gạt đi phiền muộn tích tụ sâu trong đáy lòng, bỗng nhiên tiêu tan sạch sẽ.
Có lẽ vì không
thể hoàn toàn lý giải được thứ mà y theo đuổi, có lẽ vì cho rằng lúc
trước y nói không muốn sống nữa là do nản chí ngã lòng với quan trường
đen tối, vì dân chúng cực khổ, cũng có lẽ chỉ nghĩ rằng y quá chính
trực, quá giàu lòng đồng cảm, cho nên mới không thế hòa hợp với thời đại này.
Nhưng mà như vậy là đủ rồi.
Quy luật phát triển của
lịch sử đã định trước rằng thời đại mà y đang ở không có khả năng tiến
nhanh lên ngàn năm nữa, dù là kỳ tài ngút trời, hay là thánh nhân muôn
đời cũng không thể vượt qua được giới hạn ngàn năm thời đại, nhưng một
đốm lửa có thể đốt cháy cả cánh đồng.
Chẳng lẽ Triệu Bạch Ngư đến từ thế giới sinh ra đã bình đẳng, tự do có thể phủ nhận được tư tưởng
đã cắm rễ từ tận sâu trong xương máu của mình, và văn hóa không chịu
nhiều ảnh hưởng từ nền văn minh được hun đúc mấy ngàn năm hay sao?
Đạo trời xanh, lý công bằng chính nghĩa, dân chúng như nước, dân động như
khói, hình phạt không phân biệt đẳng cấp, thiên tử phạm pháp cũng cùng
tội với thứ dân... Nếu như hoàng chung đại lữ* cũng vang vọng sử sách,
hòa vào trong máu thịt của y, thì kiếp trước kiếp này dù là trăm năm về
sau cũng không thể mất đi được.
(*) (黃鐘大呂聲) Hoàng chung (chuông vàng) là nhạc khí, có 12 âm cơ bản là 6 luật (tiếng dương) và 6 lã (tiếng âm), trong đó, Đại lã là âm thanh cao nhất, hay nhất. Trong
kinh điển Phật giáo, từ ngữ Hoàng chung đại lã thanh được dùng để chỉ
cho yếu chỉ sâu xa của Phật pháp.
Bởi chúng cũng vĩ đại trong thế giới này, thậm chí có kẻ sống mãi về sau.
Có nhiều thứ là cha truyền con nối, không phải là không thể đồng cảm.
Con đường đi về phía trước có lẽ sẽ cô đơn, nhưng chỉ là trong chốc lát mà thôi, cũng không hẳn là không có người tiếp bước.
Thỏa hiệp, nhượng bộ, ôm lấy thời đại không hoàn hảo này một lần nữa, chính là lần hòa giải đầu tiên giữa Triệu Bạch Ngư với nó.
Có lẽ sau này còn sẽ gặp được quan trường phủ tấm màn đen làm người ta
thất vọng đau khổ hơn nữa, có lẽ vẫn còn có thể bị thời đại phong kiến
xem mạng người như cỏ rác này đâm cho mình mẩy đầy thương tích, có lẽ
vẫn sẽ nản chí thất vọng đến mức phải ẩn cư hoặc muốn chết, nhưng suy
cho cùng đó là những thứ y đã đi qua, đã từng nhìn thấy.
Cứ coi như không hợp nhau, đi ngược chiều nhau, nhưng rồi cũng sẽ có thời khắc trăm sông đổ về một biển mà thôi.
Dù đó chỉ là một khắc ngắn ngủi, hay chỉ trong nháy mắt thôi, nhưng như vậy là đủ rồi.
==
Tác giả muốn nói:
Vậy là em Cá đã hòa giải với nhà họ Triệu, hòa giải với thời đại này rồi.
Với nhà họ Triệu, em Cá và gia đình đó đã hoàn toàn kết thúc khi em bị họ gả thay rồi.
Em ấy bình thường trở lại, không oán không hận, không yêu không yêu không
hy vọng, thanh toán xong xuôi, hai bên không thiếu nợ nhau, an ổn phần
mình.
Có lẽ thời gian qua đi họ sẽ nhận được sự tha thứ, nhưng đó cũng là chuyện của rất lâu về sau nữa.
Còn với thời đại, em ấy vẫn sẵn lòng bao dung sự không hoàn hảo của thời
đại này, cũng đã thoáng nhìn thấy được những nét riêng biệt của thời đại ấy, không phải điều gì cũng hoàn toàn sai, giống như cách tư duy hiện
đại của chúng ta vậy, bởi thật ra những tư tưởng, văn hóa ăn sâu chúng
ta đều đến từ sự tập hợp của rất nhiều tư tưởng từ thời xưa.
Tuy
rằng ngang hàng tự do vẫn còn rất xa xôi, vẫn tồn tại suy nghĩ xem mạng
người như cỏ rác, nhưng với toàn bộ khả năng sẵn có, nó vẫn có thể trở
thành đốm lửa chiếu sáng sử sách.