(*) Nguyên văn: Hoàng lương nhất mộng - 黄粱一梦 Ý của câu thành
ngữ này dùng để ví với sự mơ tưởng viển vông và những ước mong không thể thực hiện được. Câu thành ngữ này có xuất xứ từ "Chẩm trung ký" của
Thẩm Ký Tế triều nhà Đường.
Min:Tui edit xong
chương này từ mấy bữa trước ùi, nhưng muốn đính kèm thêm chương sau để
cho liền mạch. Và cái gì nên đến cũng đến, plot twist ủn tới mung rồi
kk, mấy bà đừng quên quả truyện củ chuối kia có đến hai kết cục, và cái
kết ức chế mà mấy bà được biết từ đầu đến giờ chỉ mới là cái kết HE của
cặp chính, MHN giấu kết BE tới cuối truyện mới tung nè píc cà bu
Thật ra tui cũng định viết thêm suy nghĩ của tui, mà tính tui lê thê lướt
thướt dài dòng với sợ nói sai nữa nên thôi hjhj để sau vậy. Mấy bà cứ
đọc rồi để lại suy nghĩ của mình cho tui góp dzui với nha.
Dô ~~~
***
Sắc trời đột ngột thay đổi, cuồng phong vũ bão từ đâu kéo tới. lá xanh hoa
hồng trong viện bị đánh dập tơi tả rơi khắp sân, gạch đá xanh từ màu xám trắng biến thành màu nâu đen, côn trùng cuộn mình dưới mớ rễ cây hoặc
là trong khe hở của cửa sổ, chờ đợi cơn mưa tầm tã chiếm cứ cả nửa cuộc
đời của chúng mau chóng kết thúc.
Bầu trời âm u, mây đen giăng kín, trời đất mênh mông sương mù.
Ma ma và hai nha hoàn rẽ từ một góc hành lang sang, xách váy chạy nhanh
tới, một người xông vào nhĩ phòng đóng cửa sổ, ma ma và một nha hoàn
khác thì mau chóng dọn mấy chậu mẫu đơn màu hồng phấn vào trong hành
lang.
Cũng may kịp lúc, không để cho cơn mưa đột ngột làm hỏng những đóa mẫu đơn trị giá hàng trăm lượng vàng này.
"Cẩn thận một chút, đều là hoa tự tay lão gia trồng đấy, dặn xuống dưới nhất định phải chăm sóc cho kĩ, đợi đến tháng ba là có thể tổ chức tiệc mẫu
đơn, để đón tiếp ngũ lang đến thưởng thức chứ." Ma ma rút khăn tay ra
lau bùn đất dính trên bông mẫu đơn đi, đau lòng liên tục rầm rì: "...
Đều là tâm huyết, tâm huyết tưới nước suốt sáu năm trời đấy."
"Tưới nước sáu năm trời, năm nào cũng mở tiệc, năm nào cũng mời, vậy mà chẳng năm nào đến..." Nha hoàn nói thầm một câu, nhưng lại không dám càn rỡ
quá mức, "Ma ma có từng nghĩ đến chưa, có lẽ ngũ lang không thích mẫu
đơn."
Ma ma: "Cô tưởng lão gia chưa từng thử mở tiệc ngắm mai,
ngắm cúc hay sao? Triệu phủ chúng ta dù có lớn hơn nữa cũng không thể mở rộng đến nỗi xây được một vườn mai, nhưng chúng ta có thể đặt mua một
cái ở ngoài, vấn đề là nuôi không sống được, tiệc ngắm cúc cũng giống y
như vậy. Hơn nữa lão gia không muốn nhờ nghệ nhân mà nhất quyết tự tay
trồng, đến mùa hoa nở nói một tiếng với bên ngoài như vậy, ai dám không
nể mặt Tế chấp?"
Nha hoàn không ngờ trồng hoa là vì cớ này, "Nhưng mà ngũ lang cũng đâu có đến đâu."
Ma ma: "Ngũ lang nào có nhìn nhân quyền để thỏa hiệp chứ?" Bà hừ một
tiếng, hơi bất mãn: "Lão gia thông minh tài trí nhưng lại luôn có hơi
khuyết thiếu trước những chuyện liên quan đến cậu ấy."
Nha hoàn ngạc nhiên trừng mắt, ma ma thế này là đang đặt điều Tể tướng đại nhân sao?
Ngoài phòng, mưa tuôn không ngớt thấm ướt bùn đất, hoa lá rơi đầy sân, trong
khi ở bên ngoài tiếng mưa rơi ồn ào, không khí trong phòng yên tĩnh đến
lạ lùng, khói xanh trên bàn thờ lượn lờ, quanh co bay lên tháp hương
trên nóc nhà.
Mõ khẽ kêu, tiếng vọng theo nhịp vang đều cùng với
tiếng tụng kinh quanh quẩn bên tai, đèn cầu phúc nhấp nháy ánh lửa, trụ
trì trong miếu bước đến bên cạnh phu nhân tể tướng, nói một câu vạn phúc trước, sau đó nói 'A di đà Phật'.
Phu nhân tể tướng có phong thái khoan thai điềm đạm, hỏi thăm mệnh số của con trai nhỏ nhà bà.
Phủ Kinh Đô này không ai không biết con trai út nhà tể tướng là kim tôn
ngọc quý, chỉ hơn chứ không hề kém cạnh các hoàng tử vương tôn, đến
Hoàng đế Thái hậu cũng yêu thương cậu, các hoàng tử cũng chiều chuộng
cậu, có thể nói là số mệnh tốt nhất trong thiện hạ rồi.
Trụ trì nói đúng sự thật, lựa thêm vài lời hay đắp vào, tất nhiên nhìn thấy tâm trạng của phu nhân tể tướng trở nên vui sướng.
"Phựt" một tiếng, khi phu nhân tể tướng bước ra cửa đại điện, vòng Phật cầu
phúc trong tay đột nhiên đứt đôi, trong mắt người tin Phật, dù thế nào
đi nữa thì cũng đều là điềm báo chẳng lành.
Trụ trì vội nói:
"Vòng Phật bồ đề này ngày đêm được thờ cúng hương khói, đã có linh tính, bỗng nhiên bị đứt có lẽ là để ngăn cản tai họa cho chủ nhân, là chuyện
tốt."
Phu nhân tể tướng nhẹ nhàng thở ra, nhưng trái tim chợt như rơi xuống nặng trịch, ra khỏi cổng chùa Tướng Quốc, chuẩn bị lên xe
ngựa, bà thoáng nhìn thấy có một trận tranh cãi đang diễn ra ở quán trà
cách đó không xa, tìm hiểu thử mới biết có một gã ăn mày uống trà không
trả tiền mà nhất quyết đòi đoán mệnh để gán nợ, tính ra được không phải
số tốt, chọc giận chủ quán trà, ông chủ chẳng màng quan tâm người ngoài
khuyên can, định dạy dỗ gã ăn mày một trận.
"Nơi cửa Phật đừng nên tranh cãi, chớ làm phiền sự thanh tĩnh nơi này, đi lấy chút tiền trả cho ông chủ quán trà đi."
Nói xong lên xe, nhắm mắt nghỉ ngơi, không hiểu sao trong ngực phu nhân tể
tướng dâng lên một nỗi bất an lo sợ, đột nhiên xe ngựa dừng lại, người
đánh xe quở mắng hai câu, nhưng nghe rõ ngọn nguồn rồi mới biết hóa ra
người cản đường kia chính là gã ăn mày được giải vây lúc nãy, nói là sẽ
tính cho quý nhân một quẻ để báo ơn.
Mạng của bà sao có thể để cho kẻ khác tùy tiện tính toán chứ?
Phu nhân tể tướng lệnh cho người đuổi đi, nhưng không biết vì cớ gì mà tên
ăn mày vẫn cứ bám rịt lấy, bị sự bất lực ép buộc, bà đành phải đứng ra
nhẫn nại nói: "Ta không muốn đoán mệnh, xin tiên sinh hãy nhường đường
cho."
Thầy tướng luộm thuộm như ăn mày vừa nhìn thấy mặt phu nhân tế tướng thì sững người trong nháy mắt, gọi thẳng: "Lão phu đã từng
đoán mệnh cho bà rồi."
Phu nhân tể tướng đang chuẩn bị quay về xe ngựa nghe vậy thì nói, "Ta chưa từng gặp ông."
Thầy tướng: "Nếu nói chính xác thì là vào hai mươi sáu năm trước, ta đã đoán mệnh cho bào thai trong bụng bà."
Con trai bà ư? Lòng phu nhân tể tướng khẽ dao động, tò mò hỏi: "Chẳng phải
thầy tướng các ông chỉ xem ngũ quan người, vân tay và ngày sinh để đoán
mệnh à? Còn có thể tính được mệnh của thai nhi chưa ra đời nữa sao?"
"Số mệnh của trẻ con gắn bó chặt chẽ với mệnh của cha mẹ, ta đoán mệnh của đứa trẻ, cũng là đoán mệnh của bà."
Phu nhân tể tướng cảm thấy hứng thúc, khóe môi cong lên: "Vậy số mệnh của con trai ta như thế nào?"
"Thân duyên cạn, lắm tai ương, đường đời nhiều ngang trái, không thể chết già."
Thoáng chốc mặt phu nhân tể tướng trở nên lạnh lùng, giận dữ thét lên: "Đuổi ông ta đi!"
Không đợi người đánh xe nhảy xuống, thầy tướng già đã lảo đảo đi xa, nhưng
dường như cũng chỉ trong chớp mắt, ông ta độn thổ biến mất giống như
thần tiên, người đánh xe hoảng sợ dụi mắt, còn lồng ngực của phu nhân tể tướng thì lan tràn nỗi hỗn loạn mất kiểm soát.
Bà nghĩ, sao thân duyên có thể cạn được chứ?
Cha mẹ cưng chiều, anh em thân thiết, ai mà chẳng biết con trai út nhà họ Triệu được nhận vô vàn thương yêu?
Lớn lên trong gấm vóc rực rỡ, sao có thể chịu lắm tai ương, đường đời nhiều ngang trái được chứ?
Chú trọng điều dưỡng cơ thể nhiều năm trời đã biến thiếu niên lang hoạt bát khỏe khoắn trở thành một quân tử chững chạc đoan chính, làm sao mà
không thể chết già được?
Phu nhân tể tướng siết chặt vòng Phật
cầu phúc đã cầu lại, mặc kệ nỗi hỗn loạn trong lòng, quay về Triệu phủ,
ma ma trong phủ đến báo cáo chuyện trong phủ, đến lúc sắp kết thúc bỗng
nhiên nói một câu: "Ngũ lang chết rồi."
"Ai?" Phu nhân tể tướng phản ứng rất mạnh.
Ma ma sững sờ, sau đó mới nói Ngũ lang gả đến phủ quận vương đã chết rồi.
Y? Phu nhân tể tướng trố mắt hồi lâu mới hỏi: "Vì sao lại mất?"
"Hôm nay y bỗng nhiên ra tay trên đường chợ đông đúc, ý đồ dùng kim độc mưu
hại tứ lang, bị một vị cao thủ chặn đường kim đi đẩy ngược trở lại,
trúng ngay giữa họng, tắt thở bỏ mạng, thân bại danh liệt."
"Gieo gió gặt bão." Phu nhân tể tướng chỉ nói một câu, bà nhìn ra cảnh xuân
tươi đẹp bên ngoài phủ, lồng ngực bỗng nhiên trống vắng.
Im hơi
lặng tiếng chết đi trong ngày xuân ấm áp, vẫn còn chưa kịp đi hội đạp
thanh, cùng người thả rượu trôi sông*, thật ra có hơi đáng tiếc.
(*) Nguyên văn là Khúc thủy lưu thương - 曲水流觞: là một phong tục TQ có từ đời nhà Chu. Vào đầu tháng 3, mọi người ngồi
hai bên bờ dòng nước và thả những chén rượu xuống, chén trôi tới ai thì
người đó uống.
Mới hai mươi sáu, còn trẻ quá.
Một lát sau, bà lại hỏi: "Cao thủ cứu tứ lang là ai?"
Ma ma tỏ vẻ khó xử, do dự một hồi mới nhỏ giọng nói: "Là Lý Đắc Thọ."
"!" Đồng tử phu nhân tể tướng co rút nhanh, quá khứ khó coi không chịu nổi
lại gào thét cuồn cuộn ập đến, trong nháy máy bao trùm lấy bà, khiến cho bà hít thở vô cùng khó khăn: "Bà ta về rồi sao?"
Ma ma gật đầu.
Phu nhân hồn bay phách lạc đi về phía trước, bước xa mười thước rồi mới hoàn hồn: "Bà ta có biết thân phận của tứ lang không?"
Ma ma: "Hẳn là biết đấy ạ, khi đó Đông cung đang đi cùng tứ lang, nhận ra
Xương Binh đang ngồi trên xe ngựa, còn lên tiếng chào hỏi nữa."
Phu nhân tể tướng siết chặt tay ma ma, "Lúc đối mặt với tứ lang, bà ta phản ứng ra sao?"
Ma ma mới lại cảnh tượng lúc ấy: "Bình tĩnh lắm, trầm tính hơn Xương Bình
của ngày xưa nhiều... À đúng rồi, bà ta còn nói một câu 'Đây là con trai nhỏ mà Triệu tế chấp yêu thương tận trời đấy à?' rồi không nói thêm gì
nữa."
Phu nhân tể tướng thấp giọng lầm bầm: "Bà ta ở Lưỡng Giang
hai mươi sáu năm, làm sao vừa thấy mặt tứ lang đã biết thân phận của nó
được? Người ngoài đều gọi nó là tứ lang, nhưng mà trước đây nó thứ năm,
chỉ mới đổi cách đây vài năm thôi mà, người bị giáng chức đến Lưỡng
Giang sao có thể biết rõ ràng như vậy? Chẳng lẽ giờ phút nào bà ta cũng
để ý đến động tĩnh trong Kinh Đô à? Nhưng người của bà ta ở đâu ra?"
Bà cúi đầu vội vàng chạy đi, lúc bước vào chủ viện, toàn thân phu nhân tể
tướng sững lại, sắc mặt ngây ra nhìn chằm chằm xuống đất, tuyệt vọng và
đau đớn thoáng vỡ vụn trong đáy mắt, cùng với đó là vẻ trốn tránh khó mà chấp nhận được.
"Ngũ lang đột tử đầu đường, thân bại danh liệt, bị người thân bỏ rơi, không ai sẵn lòng nhặt xác cho y cả."
Thầy tướng già nói, con trai út của phu nhân thân duyên cạn, lắm tai ương, không thể chết già.
"Nếu như đã biết rõ thân phận, con ruột chết thảm, còn là chết vì con trai
của người phụ nữ mà bà ta hận nhất, vì sao Xương Bình vẫn thờ ơ? Tâm
phúc của bà ta, vì để cứu con trai của tình địch mà giết chết con trai
của bà ta, vì sao! Chẳng mảy may quan tâm!"
Biểu cảm của phu nhân tể tướng dần trở nên dữ tợn, hai mắt đỏ quạch, gân xanh nổi đầy trên
trán và cổ, nỗi sợ hãi thúc giục bà nhắm chặt mắt ngăn chặn ánh sáng,
nhưng cơn phẫn nộ trước nay chưa từng có ép bà tiếp tục bước đi, dù con
đường phía trước chính là con đường vạn kiếp bất phục.
***
Sấm sét rền vang xé rách bầu tròi u ám, chiếu sáng tất cả mọi người trong phòng khách.
Mặt mày của phu nhân tể tướng, Tế chấp và ba đứa con trai của bọn họ đều
trắng bệch, ngọn nến lập lòe, nhảy nhót phản chiếu trong ánh mắt, dấy
lên ngọn lửa hận thù trong lòng.
Triệu nhị lang đặt những chứng
cứ phạm tội của Xương Bình công chúa mà hắn tra được suốt bao năm qua
lên bàn, một trong những chứng cứ phạm tội kéo dài suốt hai mươi sáu năm trời đã được đưa ra ánh sáng, cuối cùng cũng nhìn thấy mặt trời, nhưng
người chịu đủ mọi oan khuất đã an nghỉ lòng đất từ lâu, bị người thân
ghét bỏ, ngậm oan mà chết trong lời khinh bỉ của muôn người.
Tạ
thị nghe thấy Triệu nhị lang nói: "Ít nhất mười năm trước, Triệu Ngọc
Tranh đã biết rõ thân phận của mình, Xương Bình công chúa luôn đưa tử sĩ tới bảo vệ cho nó. Ngũ lang vốn không thể nào làm tổn thương nó. Ngũ
lang muốn tham gia khoa khảo, bị người được Triệu Ngọc Tranh một lòng
nịnh nọt cố tình đẩy thứ hạng xuống, bởi vị kích động, xúc động quá mức
cho nên mới có ý định ra tay trên phố, ý vốn là muốn làm ngựa hoảng sợ,
dạy dỗ Triệu Ngọc Tranh một chút mà thôi. Không ngờ, bỏ cả mạng."
Sự thật đổi con bị phơi bày ra trước mặt người nhà họ Triệu, con trai út
thật của bọn họ lúc còn sống nghe theo vận mệnh, không thể chết già,
trái lại hai mẹ con tu hú chiếm tổ chim khách kia lòng tham không đáy,
lòng dạ rắn rết, giờ đây phong quang vô hạn.
Nếu như con trai út
thật không phải đau khổ cả đời, nếu như Triệu Ngọc Tranh không phải đã
biết trước chuyện này mà không báo cáo, yên tâm thoải mái hưởng thụ tất
cả mọi thứ không thuộc về cậu, còn ra tay hãm hại ngũ lang, nếu như
không biết được những chi tiết và sự thật bị bao phủ suốt hai mươi sáu
năm này từ sớm, có lẽ bọn họ vẫn sẽ bị ràng buộc bởi hai mươi sáu năm
chung sống, có lẽ sẽ đau lòng vì tình cảm không trọn vẹn mà rơi vào tình thế khó lựa chọn, nhưng sự thật là lòng chân thành và số mệnh của bọn
họ đã đều bị hai mẹ con ác quỷ kia chà đạp, sự thật là cuối cùng, đứa
con trai út vô tội thế thân Triệu Ngọc Tranh đã phải gánh chịu sự ghét
bỏ, khắt khe của bọn họ, cuối cùng chết thảm đầu đường.
"Con trai của mẹ đã làm sai điều gì?" Trong lòng Tạ thị tràn ngập câu hỏi: "Sao lòng người lại có thể ác như vậy?"
Khi ấy lệ đã rơi đầy mặt bà, nhưng bà vẫn dửng dưng như thể chưa phát hiện ra.
***
Phủ Lâm An quận vương thu giữ thi thể của ngũ lang, chọn cho y một nơi non
xanh nước biếc tươi đẹp, không ai ngờ rằng người nhặt xương cho người
kia lại là Lâm An quận vương tàn bạo không chịu nổi trong lời đồn.
Ngũ lang nhập liệm không bao lâu, Lâm An quận vương cũng biến mất.
Binh Tây Bắc thất bại, Đại Cảnh hòa đàm, Lai sứ Đại Hạ đến đòi bồi thường,
mà vào đêm cung yến, nghịch đảng Lưỡng Giang đã trà trộn vào đoàn mua
hát kịch với ý đồ hành thích, Lai sứ Đại Hạ suýt nữa bị hại, là nhờ
Triệu Ngọc Tranh cản giúp hắn một đao.
Xương Bình lỡ miệng nói ra sự thật.
Bấy giờ người bên ngoài mới biết màn đổi con sóng gió này, không hẹn mà cùng tò mò phản ứng của người nhà họ Triệu thế nào.
Không có chuyện gì bất ngờ xảy ra, hiển nhiên là người nhà họ Triệu nổi trận
lôi đình, từ chối gặp Triệu Ngọc Tranh, nhưng có Thái hậu và bệ hạ chu
toàn từ bên trong, hơn nữa Triệu Ngọc Tranh không quỳ gối nổi, cơ thể
mỏng manh, cuối cùng tình thân nhiều năm cũng chiếm thế thượng phong,
người nhà họ Triệu lại chấp nhận Triệu Ngọc Tranh lần nữa, vẫn cưng
chiều cậu như trước, cũng vì thế mà tha thứ cho tất cả mọi hành động của Xương Bình năm xưa.
Quan hệ không thể nói là hòa thuận, nhưng hiềm khích lúc trước đã tiêu tan rồi.
Người đứng ngoài phủ Kinh Đô nhìn vào, thấy Triệu Ngọc Tranh bây giờ trước có bệ hạ, Thái hậu và Đông cung sủng ái, sau có cả nhà Tể tướng cưng
chiều, hôm nay lại có thêm một Xương Bình công chúa nữa, thân phận càng
trở nên nóng bỏng tay, nào ai dám đắc tội?
Tất nhiên là chỉ chúc mừng ngoài mặt, trong lòng lại cảm thấy tội nghiệp cho Triệu ngũ lang không ai hỏi thăm kia.
***
Đông cung và Xương Bình bắt tay nhau, còn có người nhà họ Triệu giúp đỡ hết
sức nên đánh bại chỗ dựa của Lục hoàng tử là phủ Trịnh quốc công một
cách dễ dàng, giữ vững vị trí Thái tử cho Đông cung.
Mùa xuân năm sau, Nguyên Thú đế bị gió tà nhập vào người, sức khỏe chuyển biến đột ngột, không tới hai tháng đã băng hà.
Đông cung đăng cơ làm vua, khi Thái tử phi đã mang thai sáu tháng, lợi dụng
lý do không được chịu vất vả mà dời đại điển phong hậu về sau, cuối cùng Thái tử phi qua đời vì sinh khó, cũng may đã thuận lợi hạ sinh một vị
hoàng tử.
Cuối năm đó, khi xương cốt Thải tử phi hãy còn chưa
lạnh, tân đế đã lập tức cùng Xương Bình và một nhà Triệu tế chấp kiệt
lực bác bỏ mọi nghị luận không cùng ý kiến, phong Triệu Ngọc Tranh làm
nam hoàng hậu đầu tiên của Đại Cảnh.
Mùa xuân năm thứ ba, đại
điển phong hậu được cử hành như thường lệ, đầu tiên là sắc phong, sau đó nhận sách bảo, sau đó để cho các quan lại dâng tấu chương chúc mừng,
cuối cùng là đến thái miếu yết kiến liệt tổ liệt tông, quá trình này
diễn ra đã khiến cho đại điển sắc phong càng thêm long trọng.
Hậu vị của người phụ nữ tôn quý nhất thiên hạ này cứ thể rơi vào tay một
người đàn ông, không ai dám bàn đến sự hoang đường ấy, những người phản
đối đều bị lấy cớ diệt trừ, nhưng kẻ có quyền thế nhất vương triều này
bắt tay nhau tạo ra chốn đào nguyên cho Triệu Ngọc Tranh, dường như
không có chút giới hạn nào, điên cuồng yêu thương một mình cậu.
Không biết có bao nhiêu người vô cùng ngưỡng mộ và ghen tị với Triệu Ngọc
Tranh, nhưng sau lưng lại cảm thấy khó hiểu, Đông cung và Xương Bình
thôi đã đủ rồi, vì sao mà người nhà họ Triệu cũng thay lòng như điên,
toàn tâm toàn ý yêu thương ly miêu giả dối thế kia?
Tất cả những khúc mắc ấy đã có được đáp án vào ngày đại điển sắc phong diễn ra không lâu sau đó.
Lâm An quận vương mất tích đột nhiên cử binh tạo phản, dẫn theo thiết kỵ
Đường Hà dũng mãnh thiện chiến vào như đến chốn không người, xuất hiện
trong đại điển sắc phong ép buộc tân đế thoái vị.
Đế hậu lo lắng
không thôi, Xương Bình thét ra lệnh cho Lư tri viện nắm trong tay Cấm
quân và Triệu gia đại lang bắt Lâm An quận vương lại, nhưng ngạc nhiên
phát hiện ra người nhà họ Triệu, bao gồm cả Lư tri viện và một đám đại
thần đều đứng về phía Lâm An quận vương, dùng thái độ lạnh lẽo nhìn bọn
họ.
Tân đế giận dữ, gào lên: "Các ngươi dám tạo phản à? Một đám
bất trung bất hiếu bất nhân bất nghĩa, triều thần Đại Cảnh ta sao có thể là hạng người trộm cắp không chịu khuất phục như các ngươi chứ?"
Lâm An quận vương lần vòng Phật của hắn, cười như không cười liếc nhìn bọn
họ, không nói một lời nào, đã có triều thần nhẫn nhịn từ lâu bước lên
lột tấm da mặt giả tạo của bọn họ ra.
Trên mặt Lư tri viện tràn
đầy sát ý, vạch trần âm mưu hợp tác hãm hại con gái ông của Đông cung và Xương Bình, nói cách khác là Thái tử phi đã bị ép nhường lại hậu vị cho Triệu Ngọc Tranh, trong khi Triệu Ngọc Tranh biết rõ mọi chuyện mà
chẳng hề nói gì!
"Nham hiểm độc ác, lòng dạ quỷ quyệt, có thể làm vua một nước hay sao? Nối giáo cho giặc, lời lẽ xảo trá, giả vờ câm
điếc, hào nhoáng bên ngoài, có thể là mẫu nghi một nước hay sao? Thần tử trung quân, nhưng là phải trung với vị vua nhân nghĩa!"
Triệu Bá Ung lộ vẻ bình tĩnh, nhưng nếu nhìn kỹ vào mắt ông là sẽ thấy được sự
điên cuồng ngọc nát đá tan bên trong, cơn điên cuồng này cũng tràn ngập
trong lòng của những đứa con nhà họ Triệu, kèm theo sự thôi thúc khiến
cho bọn họ không sợ gánh bêu danh mưu triều soán vị, lại càng không sợ
tiếng xấu vang xa muôn đời, phải phanh thây xé xác đám ác quý hại chết
ngũ lang mới có thể khiến cho ngọn lửa không thể dập tắt trong lòng bọn
họ lắng xuống.
Ông lấy những vật chứng chứng minh mà mình mang
theo trong người ra, đứng giữa sảnh đường lên án tân đế bắt tay với
Xương Bình mưu hại tiên đế, chứng cứ phạm tội vô cùng chính xác, không
thể chối cãi.
"Là một người bình thường vô năng, phàm có một chút nhân từ, khắc sâu câu trung quân ái quốc vào trong xương cốt, thì bá
quan văn võ có ai không ủng hộ ngươi?"
Triệu Bá Ung mặc kệ Xương
Bình, bước tới gần bóp lấy khuôn mặt xinh đẹp tỏ ra vô tội của Triệu
Ngọc Tranh, cố kìm chết đễ không bóp chết cậu mà gân xanh nổi đầy tay:
"Triệu Ngọc Tranh, đến cùng là người nhà họ Triệu ta đã làm gì có lỗi
với ngươi? Từ nhỏ đến lớn, ngươi muốn cái gì mà không có được? Cả nhà từ trên xuống dưới đều nâng niu ngươi trong lòng bàn tay để mà yêu thương, không cầu ngươi phải hồi đáp ngang bằng, nhưng ít nhất cũng phải để lại cho bọn ta một chút nhân từ chứ! Ít ra ngươi có thể đối xử tốt với ngũ
lang một chút, một chút thôi cũng được... Nhưng ngươi đã làm cái trò gì
đây? Ngươi ngày càng tệ hơn, hãm hại nó, hai lần thay mận đổi đào giá
họa lên đầu nó, đã như vậy rồi mà ngươi vẫn còn không chịu buông tha cho nó, ngươi khiến cho nó, khiến cho nó chết trong tuyệt vọng, đau đớn!
Sao ngươi có thể? Bọn ta nợ ngươi thứ gì, mà ngươi lại muốn trả thù lên
người vô tội nhất? Tất cả mọi thứ của thằng bé đều đã bị ngươi cướp đi
rồi, vì sao đến cả cơ hội sống ngươi cũng muốn cướp đi chứ?"
Biểu cảm của Triệu Ngọc Tranh từ đau đớn, bi thương trở thành giễu cợt, khó
khăn thốt ra từng chữ: "Ta... Ta biết ngay mà, một khi thân thế bị vạch
trần, các người, các người sẽ không yêu thương ta nữa... Ta biết mà!
Muốn trách phải trách các ngươi quá thiên vị ta, ta sợ... ta sợ mất đi
nó."
Trái tim Triệu Bá Ung đau đớn tựa như bị bóp chặt, trong
nháy mắt vô cùng ngỡ ngàng luống cuống, hóa ra là vì quá thiên vị Triệu
Ngọc Tranh nên mới khiến cho cậu ra tay với Triệu Bạch Ngư sao? Tất cả
những điều bất công làm tổn thương ngũ lang, là nguồn gốc nguyên nhân
dẫn tới cái chết của y sao?
Đến cùng là bọn họ đã làm những việc
gì, mà mỗi một chi tiết nhớ lại thì phát hiện tất cả đều là bằng chứng
ép chết ngũ lang chứ?
Người hại chết ngũ lang không chỉ có Xương Bình, Triệu Ngọc Tranh, mà còn có cả những kẻ tự xưng là người nhà như bọn họ nữa!
Trong nháy mắt Triệu Bá Ung như bạc đầu, không còn chút khí phách nào, mãi mãi hổ thẹn trong lòng.
***
Tạ thị không màng quan tâm những lời khuyên can mà đào phần mộ của ngũ
lang lên, mặc kệ Lâm An quận vương có mỉa mai tình yêu chậm trễ của bà,
nói rằng tình yêu đó vẫn là sự tổn thương đối với con trai út nhà họ
Triệu, chết rồi vẫn không chịu để người ta yên, thật sự là sống chết vẫn thiếu nợ bọn họ.
... Không, ngũ lang không thiếu nợ bọn họ, là bọn họ mắc nợ ngũ lang!
Tạ thị đưa thi thể của ngũ lang về phủ, mời các cao tăng đạo sĩ đến tu cho y một kiếp sau tốt đẹp, bà không tiếc cho đi phúc phần mười đời của bản thân, nhưng những cao tăng đạo sĩ kia chỉ biết tụng kinh mà thôi.
"Chỉ biết tụng kinh thôi à!" Tạ thị ngày đêm không nghỉ, tiều tụy không sao
chịu được, bà sao chép kinh văn, đốt không biết bao nhiêu chậu, "Vì sao
chì biết tụng kinh! Ta chỉ là muốn chuộc tội, muốn con trai ta kiếp sau
được viên mãn, ta không làm hại ai, vì sao đến chút việc nhỏ ấy cũng
không làm được?"
Người nhà họ Triệu muốn khuyên bà tỉnh táo,
nhưng cảm giác tội lỗi to lớn ấy đã làm cho bọn họ bị choáng ngợp, tìm
kiếm hồi ức suốt hơn hai mươi năm qua, những ký ức có liên quan đến ngũ
lang đều khiến lòng người nguội lạnh, bọn họ nhìn khuôn mặt trắng nhợt
không chút sức sống, cô đơn đáng thương trong quan tài, sao có thể an
lòng cho được?
Tinh thần khó an, cho nên cũng mù quáng giống như
Tạ thị chạy đi tìm người đắc đạo, cũng muốn dành phần phúc dời sau của
mình cầu cho ngũ lang có được kiếp sau viên mãn.
Bọn họ nói kết
cục bi thảm của Triệu Ngọc Tranh cho Tạ thị nghe, khi ấy Tạ thị đã vuốt
ve tóc mai của ngũ lang, nghe vậy thì im lặng hồi lâu, sau đó mới nói ra một câu làm lòng người vỡ nát: "Nhưng mà con trai nhỏ của mẹ chết rồi."
"Triệu Ngọc Tranh mắc nợ có thể bị trừng phạt, còn mẹ cũng mắc nợ, mẹ phải trả lại như thế nào đây?"
Triệu Bá Ung dùng hết toàn lực để tìm kiếm vị thầy tướng già mà ông chỉ mới
gặp được một lần, cuối cùng cũng tìm được thầy tướng tóc trắng xóa ấy,
ông ta vẫn giữ nguyên dáng vẻ của mấy chục năm trước, không thấy già yếu đi, liền biết đó là thần tiên thật.
Ông cứ cầu xin thầy tướng già mãi, nguyện dùng công đức phúc phần đổi lấy kiếp sau trọn vẹn cho con trai út.
Thầy tướng già thở dài: "Không có duyên phận không thể tụ họp, không có nợ
nần không thể đến, duyên tụ duyên diệt đều bắt đầu từ một ý nghĩ mà
thôi. Duyên cạn mệnh ngắn, số mệnh đã thế, cưỡng cầu cũng vô ích, chi
bằng buông đi."
Dù có khẩn cầu như thế nào đi nữa, thầy tướng già cũng không đồng ý ra tay đổi mệnh, không lâu sau đó liền biến mất.
Về phần người nhà họ Triệu, bọn họ tự thẹn trong lòng, không quên việc ấy, cả đời cũng không bỏ xuống được.
Cơn mưa rào mùa xuân khiến cho hoa lá rơi rụng đầy sân, tiếng tụng kinh gõ
mõ trong một góc phủ tể tướng vang lên không ngừng nghỉ, nhang khói lượn lờ, thanh đăng được đốt lên, ngoài phòng vang vọng tiếng nói liên miên
của ma ma và các nha hoàn, gọi một tiếng: "Cẩn thận hoa trong hành lang
kìa!", thoáng chốc bừng tỉnh khỏi giấc mộng hoàng lương.
Chuỗi hạt bỗng nhiên đứt đoạn, hạt bồ đề lọc cọc rơi xuống đất, người trên giường mở mắt ra, lệ rơi lã chã.
"... Là mơ sao?"
Sao lại chân thật thật như thế?
Là kiếp trước kiếp này, hay là kiếp này kiếp sau?
Bà đang ở trong giấc mộng nào? Giấc mộng hoàng lương ấy là thế giới nào?
Nếu như phải chọn một thế giới giấc mơ mà ở đó không phải thức dậy, bà chỉ mong mình được ở lại nơi này mãi mãi.
Dẫu cho trăm năm không nhận nhau, ít ra con trai nhỏ của bà vẫn còn sống,
sống rất tốt, dù vui dù buồn vẫn luôn có người bên cạnh làm bạn, không
lẻ loi hiu quạnh, mộ phần hoang vắng như kiếp trước.
***
Phủ Lâm An quận vương.
Từ khi Hoắc Kinh Đường khôi phục lại thân phận Đại hoàng tử, phẩm cấp cũng đã được thăng từ Quận vương lên thành Thân vương, gọi là Lâm An vương.
Cơn mưa ngày xuân liên miên không dứt, vạn vật trong trời đất đều không
muốn động đậy, đương nhiên con người cũng ham lười biếng, lại trùng hợp
vào ngày nghỉ phép, Triệu Bạch Ngư dứt khoát làm ổ trong phòng làm việc ở phủ, ăn trưa xong bèn di chuyển đến giường gần cửa sổ đọc thoại bản một lát, lắng nghe tiếng mưa rơi theo tiết tấu mà chìm vào giấc ngủ.
Nén nhang trên bàn đã được đốt lên, tro nhang chất đống bên cạnh lư hương,
nha hoàn đã vào thay bốn nén nhang rồi. Một nén nhang đốt nửa canh giờ,
bây giờ đã hai canh trôi qua, sắc trời tối xuống, mưa cũng đã ngừng rơi, bầu trời như được khoác tấm áo mới, hương thơm bùn đất và hoa cỏ tràn
ngập trong không khí, côn trùng nhao nhao bò ra hít khí trời.
Tiểu tư bên ngoài nhỏ giọng hỏi: "Ngủ bao lâu rồi?"
"Hai canh giờ, chưa từng lâu như thế, chắc là mệt muốn chết rồi. Bảo mọi
người thả lỏng nghỉ ngơi đi, cơ mà cá, ếch bên ngoài chắc đã tụ đầy ở hồ nước rồi đấy, mưa vừa ngớt là kêu ộp ộp không ngừng."
"Đã gọi người đến đó xem rồi ạ."
"Mang hoa dưới hành lang ra vườn lại đi... Mang từng chậu đi thôi, buổi tối sẽ không mưa nữa đâu."
Lúc này có một loạt tiếng bước chân dồn dập đi tới, người nọ thấp giọng
nói: "Phu nhân tể tướng đến rồi, Hải tổng quản đang ở nhà trước tiếp đón đấy."
"Là vị nào... Triệu phu nhân hả? Biết rồi, ta sẽ vào phòng đánh thức Triệu đại nhân ngay."
Một lúc sau, có tiếng cọt kẹt vang lên, có tia sáng lọt vào trong phòng,
tiếng bước chân nhẹ nhàng đi tới chiếc giường cạnh cửa sổ, người nọ vừa
định lên tiếng đã thấy Triệu Bạch Ngư mở to mắt, đôi mắt sáng trong,
trông chẳng giống như ngái ngủ chút nào cả.
"Đại nhân tỉnh từ khi nào thế ạ?"
"Mới vừa tỉnh thôi." Triệu Bạch Ngư đứng dậy khoác thêm áo choàng, vừa mang
giày vừa hỏi: "Triệu phu nhân có nói vì sao lại đến nhà thăm hỏi không?"
Tiểu tư đáp: "Chỉ nói muốn đến thăm ngài thôi."
Triệu Bạch Ngư đi ra ngoài, đột nhiên quay đầu lại nhìn về phía thứ ánh sáng
xua tan bóng tối ở gần giường, bên cạnh lư hương vẫn còn lưu lại một
luồng khói xanh, trong sương khói tựa như cất giấu mộng cảnh hoang đường kì lạ vừa nãy.
Sắc mặt thoáng xuất hiện sự hốt hoảng, Triệu Bạch Ngư xoay người lại, "Đi thôi."