"... Huynh thì biết cái gì? Ở Thiểm Tây này muốn ăn cá lóc khó lắm đấy!
Cầm lấy, bảo phòng bếp giết rồi nấu nồi canh cá để cho Triệu đại nhân
bồi bổ thân thể đi, hai mươi ngày không được nghỉ ngơi đàng hoàng thì
đúng là đáng thương thật, đại phu nói miệng vết thương trên người ngài
ấy còn chưa lành đã lại nhiễm trùng nữa rồi, cũng may tuổi còn trẻ."
"Đậu cô nương, Triệu đại nhân có cá lóc, còn ta không có à?"
Nghe giọng nói thôi cũng đã tưởng tượng ra được dáng vẻ cười cợt tí tởn của
Thôi phó quan, không những trông chẳng ra cái gì mà còn rất thiếu đánh.
"Gọi ta là Đậu chỉ huy."
"Đậu chỉ huy đại nhân!"
"Cái rổ ở dưới có ba con cá lóc, dù sao cũng dư ra, huynh muốn thì lấy đi."
"Ba con?" Giọng nói của Thôi phó quan tràn ngập niềm vui sướng, "Hơn Triệu
đại nhân hai con, Đậu cô nương, á, không phải, Đậu chỉ huy, cho ta hai
con cá à, ngại quá... Chết rồi? Cô cho Triệu đại nhân ăn cá tươi, cho ta cá chết hả?"
"Không thì sao?"
Tiếp lời chính là tiếng quở mắng của đại phu bảo bọn họ nói chuyện nhỏ một chút, nếu thấy rảnh rỗi
quá không có chuyện làm thì mau ra ngoài giúp sửa chữa tường thành đi.
Có điều chỉ trong chốc lát không gian đã yên tĩnh trở lại, tiếng kêu của Hải Đông Thanh to rõ, vang từ tận trời cao xuống dưới khiến cho chim
chóc xây tổ dưới mái hiên sợ hãi mà bay đi mất.
Tiếng gió rì rào, rừng lá lao xao, ánh mặt trời ấm áp xuyên qua khe cửa sổ chiếu xuống
mặt đất, bụi mịn tung bay giữa luồng sáng, một bóng dáng lướt qua bên
cửa sổ từ bên ngoài bước vào trong phòng, ngẩng đầu lên nhìn Triệu Bạch
Ngư đang mở mắt nằm trên giường.
Hoắc Kinh Đường vội vàng cầm
chén thuốc vụt tới bên cạnh đỡ Triệu Bạch Ngư dậy, vừa sờ trán y vừa
hỏi: "Choáng đầu nên khó chịu sao? Miệng vết thương đau hay là ngứa?"
Triệu Bạch Ngư lắc đầu: "Ta ngủ bao lâu rồi?"
Hoắc Kinh Đường: "Hai ngày ba đêm, mệt nhọc quá độ, miệng vết thương bị
nhiễm trùng, hoại tử dẫn đến phát sốt. Có điều tình huống tệ hơn ta cũng vượt qua được rồi, bây giờ cũng chỉ là chuyện nhỏ thôi, em xem em vẫn
bị ta đánh thức đấy thôi."
Triệu Bạch Ngư siết chặt tay Hoắc Kinh Đường xem vết thương trên người hắn, "Chàng thì sao? Có nghỉ ngơi đàng hoàng không đó?"
Nhóm người về từ phủ Tây Lương gặp nguy hiểm, sau đó ngựa không ngừng vó mà
chạy đi, vừa về đến đã lao vào thành Kinh Châu với nguy cơ bị phá nát,
không chỉ phải chăm sóc y còn hôn mê mà còn phải giải quyết việc xây
dựng lại phủ Kinh Châu, còn cả quân đội Đại Hạ phía Vị Châu nữa, không
biết có chịu nghỉ ngơi hay không.
Hoắc Kinh Đường: "Không sao,
Thôi Tông Chính bỏ mê hồn dược vào thuốc của ta, vậy nên ta cũng ngủ say một ngày một đêm, tinh thần thể lực đều khôi phục lại rồi, vết thương
cũng đã đóng vảy, qua mười ngày nửa tháng nữa là ổn."
Triệu Bạch
Ngư nhận lấy thuốc từ tay hắn uống một hơi hết sạch, sau đó nhanh tay
bốc mứt quả ngậm vào miệng để xua tan vị đắng, cúi đầu nhìn băng vải
trên người rồi nói: "Vết sẹo là vinh quang của đàn ông, sau này về kinh
đô có vốn để khoe khoang với mấy ông lão cổ hủ và mấy tên lỗ mãng kia
rồi."
Đừng chỉ thấy Triệu Bạch Ngư treo trên người cái danh thanh thiên cương trực công chính, mấy năm nay vẫn có không ít quan lại lên
chức gây khó dễ khắp nơi trong triều chỉ vì y đối nghịch với họ, những
kẻ cổ hủ bảo thủ mắng y chanh chua, võ tướng mãng phu mắng y gà mờ hệt
như thằng nhãi con, chỉ sợ thấy máu sẽ chóng mặt, hoàn toàn quên mất
chuyện y đã từng chém đầu ba trăm quan.
Triệu Bạch Ngư bắt lấy
tay Hoắc Kinh Đường rồi nắm tay mình lại thành quyền đụng vào nắm đấm
của hắn, nhếch môi nói: "Trên người hai ta đều có huân chương, đúng là
trời sinh một cặp."
Hoắc Kinh Đường: "Em còn có lòng dạ nói đùa
à? Có biết lúc ta đến nhìn thấy thành bị phá, suýt nữa là tim ngừng đập
thật rồi không."
Triệu Bạch Ngư: "Không còn sức sống thật hả?"
Hoắc Kinh Đường vừa trừng mắt, Triệu Bạch Ngư đã nhanh nhảu xin tha: "Gặp
họa mà vẫn bình an tức là người có phúc, chàng xem ta đã trải qua mấy
bận thập tử nhất sinh rồi hả? Nếu không phải là người phước dày thì khó
mà qua nổi lắm."
Miệng lưỡi trơn tru nói lời chọc cười, cũng
không biết là học từ đâu nữa, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo
giấy, có lẽ là vì ngày nhỏ thường trà trộn vào đủ thứ hạng người nên mới có bản lĩnh này, về sau làm quan phải thận trọng nên đã bỏ bớt thói
xấu, mấy năm nay được Hoắc Kinh Đường nuông chiều nên nó đã có dấu hiệu
"hồi sinh", ấy vậy mà đã thật sự chọc cho hắn phải bật cười.
Hoắc Kinh Đường vốn không tức giận, Triệu Bạch Ngư bình an vô sự đã là may mắn lắm rồi, làm sao hắn nỡ nặng lời trách móc chứ?
"Em không nên điều Chiết Thanh Phong đi."
"Không cho điều thì cũng đã điều rồi, thế phải làm sao bây giờ đây?"
Hoắc Kinh Đường không nhịn được nở nụ cười, vất vả lắm mới có thể gắng gượng chống đỡ cơ thể suýt nữa là sụp đổ như núi, nói thật lúc ấy hắn đã rơi
vào tình thể nguy hiểm, cũng may Chiết Thanh Phong đến kịp, nếu không có lẽ hắn đã bỏ mình ở Đại Hạ, mãi mãi không thấy ngày về rồi.
"Triệu Bạch Ngư, em lại cứu ta rồi, em cứu ta hai lần, kéo ta từ bờ vực sinh tử trở về, ta nợ em hai mạng."
"Chàng cũng đã cứu ta hai lần..."
Hoắc Kinh Đường nhớ lại, cảm thấy không đúng lắm, "Vậy chẳng phải hai ta huề nhau sao? Nhưng tính kĩ thì ta chỉ cứu em lần này thôi, lần trước không thành, đều là nhờ công lao của thái y, ta không thể vô sỉ ôm công được, vậy cứ cho là ta nợ em một lần đi." Nói về chuyện quan trọng này, hắn
còn dùng lời lẽ nghiêm túc để nói: "Ngoại trừ tước vị vô dụng, của cải,
thanh danh thì chỉ có tấm thân to cao và gương mặt khôi ngô này là có
chút giá trị thôi, tiểu lang quân, cho ta thấy thân báo đáp nhé."
"... Cút đi."
Hoắc Kinh Đường đá rớt giày xuống đất rồi chui lên giường, ôm Triệu Bạch Ngư náo loạn trong chăn một hồi, đến giờ cơm mới lệnh cho người đến phòng
bếp mang nồi canh cá lóc vào cho y bồi bổ cơ thể.
Đến ngày thứ ba Triệu Bạch Ngư đã có thể xuống giường hỏi thăm công việc ở Kinh Châu,
ai nấy đều bừng bừng khí thế làm công tác tu sửa các mục trong phủ, các
phương diện khác như buôn bán, nông nghiệp và quan phủ đều đi vào quỹ
đạo, mà vòng vây của Vị Châu cũng đã được giải quyết, quân đội Đại Hạ
còn lưu lạc ở biên cảnh Tây Bắc đều bị đánh cho chạy bán sống bán chết,
tin tức Tang Lương Ngọc đã chết dường như đã được truyền đi khắp Tây
Bắc, Đột Quyết nắm tin tức xong cũng lập tức hành động, rời khỏi đường
biên giới Tây Bắc chỉ trong một đêm.
Tây Bắc đã tạm thời khôi
phục lại sự yên tĩnh của ngày xưa, nhưng các nhánh binh mã lại đang chờ
xuất phát, Nam Cương, Mông Cổ và Đột Quyết đều nhìn chằm chằm, Đại Hạ
lung lay từ bên trong chính là một miếng thịt vụn thối nát, hấp dẫn đám
kền kền tham ăn xung quanh, ba kẻ kia không dám lộn xộn là bởi vì bọn
chúng phát hiện ra Đại Cảnh đã đang điều điều sáu trăm ba mươi ngàn binh đóng quân Tây Bắc, chúng sợ hãi đánh chính diện với con quái vật khổng
lồ này, cũng sợ bị trả thù, thế cho nên chẳng ai dám hành động trước.
Bầu không khí bình lặng kỳ lạ bao phủ Tây Bắc và Đại Hạ, mà ngay lúc này,
Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn chạy trốn ra khỏi Đại Hạ đã xưng đế ở
trấn Hắc Thủy, phái Lai sứ ra với ý đồ hòa đàm với Đại Hạ.
Một
tháng kể từ khi Đại Hạ khơi mào chiến tranh, phủ kinh đô truyền thánh
chỉ xuống, lệnh cho năm nhánh binh mã Tây Bắc chia ra các tuyến đường
khác nhau tấn công Đại Hạ, giao cho Hoắc Kinh Đường cầm binh.
Lai sứ Đại Hạ đi vào quân doanh Vị Châu, vừa tỏ ý đồ đến đã bị Hoắc Kinh
Đường chém chết tại chỗ, hắn cầm đầu lâu lên nói: "Lai sứ Đại Hạ có ý đồ ám sát bổn vương, người đến không lành, bản tính khó dời, lòng ngấp
nghé thành trì Tây Bắc ta chưa dứt, triều đình của chúng ta tôn trọng
hòa bình là vì suy nghĩ cho sự yên bình của dân chúng biên cảnh, bao
dung cho Đại Hạ dù đã xâm phạm Tây Bắc nhiều lần, cũng chấp nhận biết
bao nhiêu điều kiện hòa đàm thậm chí là mở các cuộc trao đổi hữu nghị,
nhưng không hiểu sao lòng tham vô đáy của quý tộc Đại Hạ vẫn không chết, liên tục giở thủ đoạn bẩn thỉu... Các tướng sĩ có chịu đựng được
không?"
Lòng tướng sĩ đầy căm phẫn, nổi giận hô lên không thể nhẫn nhịn không muốn chịu đựng, tiêu diệt Đại Hạ!
"Nhịn được thì nhịn, không nhịn được nữa thì không cần phải nhịn! Chúng tướng sĩ tẩy binh thả ngựa, chờ xuất phát theo ta đi mở đất biên cương, đạp
phá phủ Hưng Khánh, đưa bờ Hoàng Hà, đồng cỏ Cao Hà và hành lang Hà Tây
vào bản đồ Đại Cảnh ta!"
Đám tướng sĩ thi nhau hò hét, tinh thần sục sôi, sĩ khí trước đó chưa từng có tăng vọt lên.
***
Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư gặp lại nhau chưa tới hai tháng đã lại
chia tay lần nữa, nhưng lần này hai người không lưu luyến bịn rịn quá
nhiều, chỉ nói một câu: "Sống chết có nhau."
Triệu Bạch Ngư: "Ta cất rượu Tần, chờ ngày chàng đại thắng về triều sẽ khui ra."
Hoắc Kinh Đường cười to: "Nếu đã vậy không quay về thì sẽ tiếc lắm nhỉ!"
Bên này bọn họ quấn quít chia tay nhưng cũng chẳng ai để ý đến, bởi vì
người đứng khắp gò núi này đều đang chiết liễu tiễn biệt nhau, cách đó
không xa là Thôi phó quan và Đậu cô nương.
Đậu cô nương kia chính là con gái của Đậu Hồng, để bảo vệ Kinh Châu, anh lớn đã trá hàng hi
sinh trong doanh địch, vì vậy mà cha già mới đau buồn đến bạc trắng tóc, không chịu nổi cảnh người đầu bạc tiễn người đầu xanh nữa, trùng hợp
thay Thôi phó quan vừa nhìn thấy nàng đã yêu, dính chặt lấy nàng suốt
hai tháng trời, mà Đậu cô nương cảm thấy người này cũng không tệ lắm,
bản thân nàng cũng không phải là người dễ ngại, thử thách mấy phen bèn
đồng ý cho Thôi phó quan theo đuổi mình.
Có điều Đậu cô nương
chấp nhận Thôi phó quan không phải là để cởi giáp, mà là để sinh một đứa con an ủi cha già, ngoài mặt bày tỏ lòng hiếu tháo, quay đầu lại chạy
đi làm nữ tướng.
Cách này vừa có thể làm tròn chữ hiếu, vừa có
thể tiếp tục nhiệt tình với sự nghiệp, chẳng trách mọi người đều nói phụ nữ Tây Bắc rất ngoan cường và không bao giờ khuất phục.
Đưa mắt
nhìn Hoắc Kinh Đường xoay người lên ngựa, hòa vào đội quân rồi, Triệu
Bạch Ngư quay lại mới thấy Triệu Trường Phong đứng dưới một gốc cây liễu khô cách đó không xa, hai người nhìn nhau, thời gian qua đi cảnh vật
cũng đổi, tâm trạng không còn như lúc trước nữa.
Triệu Trường
Phong đi tới, cẩn thận nhìn mặt Triệu Bạch Ngư, bốn năm trước kể từ sau
cung yến hắn vẫn không có cơ hội được gặp Triệu Bạch Ngư, ngũ lang trong trí nhớ của hắn cũng không còn rõ ràng mấy, mỗi lần nhớ lại, những gì
mà bọn họ thiếu nợ y sẽ càng trở nên chân thực hơn, lồng ngực cũng thít
vào đau đớn gần như khiến hắn không hít thở nổi.
"Ngũ lang gầy đi nhiều rồi."
Triệu Bạch Ngư cười khách sáo.
Triệu Trường Phong cúi đầu, muốn nói gì đó lại thôi.
Triệu Bạch Ngư thầm thở dài, đã không còn ý định kéo dài thân duyên, cũng
không có ý chà đạp tấm lòng của người khác, chỉ chắp tay qua đầu nói:
"Tướng đi vạn dặm, đường xá gian nan, hy vọng người túi gấm còn tên,
thắng lợi về triều, bình an vô sự."
Triệu Trường Phong bỗng giương mắt lên, cảm động không thôi, một lúc lâu sau mới thốt ra được hai chữ: "... Cảm ơn."
Triệu Trường Phong cứ chần chừ tại chỗ mãi không chịu nhúc nhích, đến khi cấp trên thúc giục lần nữa, hắn mới đành leo lên ngựa rời đi, đi được một
đoạn đường xa rồi, Triệu Trường Phong mới mò vào ngọc quân tử trong ngực áo, đó vốn là quà cập quan mấy năm trước muốn tặng cho Triệu Bạch Ngư,
nhưng cho đến giờ vẫn không thể tặng được.
Đội quân nối thành một hàng dài xuất chinh, biến mất dần trong ánh trời chiều, những người đến chia tay đều lưu luyến đứng lại tạm biệt bọn họ đến tận khi mặt trăng
leo lên đỉnh núi rồi mới lục tục rời đi.
***
Khẩu dụ từ
phủ kinh đô truyền Triệu Bạch Ngư trở về đã đến hai lần nhưng đều bị y
lấy lý do công việc ở Tây Bắc bận rộn để từ chối, đóng giữ Kinh Châu đến khi thời tiết nóng bức của đầu hè ập tới, thời gian lặng lẽ trôi đến
cuối tháng sáu, cũng chính vào lúc này, biên cảnh truyền tin chiến thắng về, phủ Hưng Khánh đã bị phá, đại quân đánh thẳng vào hoàng cung Đại
Hạ, bắt lấy Thác Bạt Minh Châu và Cao Di Sơn có ý đồ chạy trốn lần nữa.
Người trước rút đao tự vẫn, kẻ sau cảm thán đi đến bước đường cùng, thời gian không chờ đợi ta, rồi sau đó cũng đi theo.
Mặt khác, toàn bộ quý tộc Đại Hạ đều quỳ xuống đất cầu xin tha thứ, bởi vì
những người dám phản kháng Tang Lương Ngọc đều đã bị ông ta giết sạch
rồi, trái lại dân chúng không hề hấn gì trước việc này, dù sao thì quân
đội Đại Cảnh cũng không dám làm những chuyện như đốt giết cướp bóc, hơn
nữa, ít nhất hai ba mươi năm về trước có người không phải là con dân Đại Hạ mà là người có cùng nguồn gốc với phiên tộc Tây Bắc, vốn chẳng có
lòng yêu nước gì cả, làm bá tánh của nước nào thì có sao đâu?
Ăn
uống no đủ là tốt rồi, dù gì về sau đi chợ cũng không cần phải đợi quan
phủ phê chuẩn mới được, thỉnh thoảng các chợ đóng cửa, cả nhà còn phải
lâm vào tình cảnh không có đồ ăn cực kì thê thảm, Đại Hạ chết rồi là
chuyện tốt đấy chứ.
Đại Hạ bị diệt, Hoắc Kinh Đường còn dẫn binh đánh vào Nam Cương và Mông Cổ nữa, coi như trả thù.
Đột Quyết ở sát vách Đại Hạ cũng chẳng chiếm được cái gì tốt, trước đây có
thể chân vạc bị Đại Hạ kiềm hãm, bây giờ môi hở răng lạnh, khó đảm bảo
tiếp theo không phải là bọn họ nước mất nhà tan, lúc này phái Vương tử
đi làm Đại sứ hòa đàm, phái thêm công chúa đi hòa thân, bày tỏ lòng kính sợ, dùng thái độ vô cùng lo lắng để cầu hòa.
Trước mắt không
phải là thời điểm chỉnh đốn Đột Quyết, vậy nên Nguyên Thú đế không từ
chối hòa đàm, có điều thái độ vẫn cứng rắn, thở ra một câu tỏ rõ ý rằng
ông vẫn có ý định ra sức làm thịt Đột Quyết.
***
Đầu tháng bảy, mặt trời nhô cao.
Giả Long Thiên Châu trở thành thủ lĩnh tộc Giả Long, nàng lặn lội từ Nguyên Châu đến, mang theo một ít quà cáp chuẩn bị bái kiến Triệu Bạch Ngư,
trên đường gặp được ni cô Nhã Thiện đã kết hôn với thanh mai trúc mã,
bấy giờ đang mang thai sáu tháng, nàng ta cảm niệm vì ngày xưa nàng đã
chăm sóc các ni cô ở Kính Châu nên tặng cho nàng bánh hoa mà mình tự tay làm, lại nghe nói Giả Long Thiên Châu sắp sửa đi gặp Triệu Bạch Ngư ân
nhân của nàng ta, Nhã Thiện bèn vội vàng đi soạn một giỏ bánh hoa và kẹo cưới nhờ Giả Long Thiên Châu đi tặng giúp.
Thế là Giả Long Thiên Châu xách theo túi lớn túi nhỏ đi vào Ngạc phủ đã được tu sửa lại rồi
sung vào công quỹ, nàng không gặp được Triệu Bạch Ngư, hỏi thăm mới biết người ta đã đi đến lễ đua ngựa mà phiên tộc địa phương tổ chức vào
tháng bảy rồi.
Tiểu đồng canh cửa nói: "Triệu đại nhân và Đậu đại nhân đều đã bị kéo đi làm trọng tài, là do Đậu cô nương bắt đi cho bằng được đấy, bởi vì lễ đua ngựa chỉ có phái nam mới được tham gia thôi,
Đậu cô nương tức lắm cho nên muốn Triệu đại nhân và Đậu đại nhân ngầm
thay đổi thể lệ, cho phép phái nữ dự thi, cũng không hiểu sao mà Triệu
đại nhân rất tán thành, còn đề xuất thi đấu theo nhóm nam, nhóm nữ rồi
nhóm nam nữ hỗn hợp nữa... Cô biết mà, lễ đua ngựa này không chỉ có đua
ngựa mà còn có những hoạt động khác, tổ chức từ sáng sớm đến tận tối
muộn, cá chắc là nó sẽ không kết thúc cho đến tận hừng đông ngày mai
đâu... Cô có định đến đó không?"
Giả Long Thiên Châu đã làm ni cô mười mấy năm, tính tình trầm ổn, không quen với không khí ồn ào náo nhiệt nên bèn từ chối.
"Ta có thể ngồi trong phủ chờ được không..."
Còn chưa dứt lời đã nghe thấy tiếng hí vang của tuấn mã truyền đến từ xa và tiếng kêu thánh thót xé rách bầu trời của hùng ưng, quay đầu nhìn lại,
đập vào mắt đầu tiên chính là một con Hải Đông Thanh trống cực đẹp, theo sau đó là một kỵ binh lao đến trước mặt nàng trong nháy mắt, khí thế
khắc nghiệt lạnh lùng ập đến khiến cho Giả Long Thiên Châu và tiểu đồng
đều phải run rẩy đề phòng.
Chờ người nọ tháo mặt nạ sắt bảo hộ
xuống, để lộ đôi mắt Bồ Tát màu vàng lưu ly đặc trưng và gương mặt vô
cùng tuấn mỹ ra, hai người thấy đó là Hoắc Kinh Đường thì mới thôi cảnh
giác.
"Tiểu nhân / Giả Long thị tham kiến tướng quân."
Hoắc Kinh Đường quét mắt nhìn phủ đệ vắng tanh vắng ngắt, chỉ hỏi một câu: "Tiểu lang đang ở đâu?"
Tiểu đồng trả lời đúng sự thật, Hoắc Kinh Đường chẳng nói chẳng rằng giục ngựa rời đi.
Giả Long Thiên Châu hơi ngạc nhiên: "Cấm quân đã thắng trận trở về rồi à?"
Nếu thắng trận trở về thì phải đánh tiếng thật lớn mới đúng chứ, nhưng có
lẽ Lâm An quận vương không chịu nổi cảnh nhớ nhung, bỏ rơi đại quân còn
mình thì ngày đêm chạy gấp về đây ấy mà.
Giả Long Thiên Châu bật cười, thấp giọng rầm rì: "Hóa ra người Hán ở Trung Nguyên không phải ai cũng thận trọng bảo thủ nhỉ."
***
Kinh Châu là nơi rất nhiều phiên tộc chung sống, trên đồng cỏ, có mấy con
ngựa hoang đang uống nước bên hồ Trân Châu, đằng kia kia chính là địa
điểm tổ chức lễ đua ngựa, không khí vô cùng ồn ào và vui vẻ.
Xa
xa thấy Đậu cô nương cưỡi trên lưng tuấn mã phi như bay, trong ngực ôm
con dê con vừa mới cướp được về tay, trên thân dê con vẫn còn treo quả
cầu hoa, nó đã sớm bị dọa cho không dám nhúc nhích gì, phía sau còn có
tầm mười con ngựa khác không ngừng đuổi theo, thậm chí còn đang nghĩ đến chuyện giành lấy con dê nhỏ trong lòng Đậu cô nương nữa.
Triệu
Bạch Ngư mặc lan sam khoác áo dài màu trắng đứng ở bên hồ, di chuyển tầm mắt nhìn về phía mặt hồ trong vắt, nhìn thoáng qua có thể thấy được mấy con cá lóc đang chơi đùa với mấy cây bèo nữa.
Lúc này sau lưng
truyền tới tiếng vó ngựa, Triệu Bạch Ngư cứ tưởng kia là hán tử đua ngựa nào đó chạy tới đây cho ngựa uống nước cho nên không để ý lắm, không
ngờ bên hông căng chặt, trong nháy mắt bay lên trên không, trời đất quay cuồng một trận thế là bị bắt lên lưng ngựa, chạm vào giáp sắt lạnh lẽo
thì khẽ giật mình, sau đó hít sâu một hơi rồi duỗi hai tay ra ôm eo kẻ
xấu, thân mật vùi mặt vào.
Người đua ngựa bên kia phát hiện ra
điều kì lạ, vội vàng giá ngựa đuổi theo, có lẽ mọi người đều cho rằng
đường đua đã bị thay đổi nên mới muốn đuổi theo bọn họ, trong nháy mắt
đã có mấy chục con ngựa nối đuôi theo sau, vó ngựa không dừng, bụi mù
cuồn cuộn, thảm cỏ dưới trời xanh toàn là tiếng reo hò hoan hô vang lên
chẳng ngớt.
Triệu Bạch Ngư phất tay về phía sau, cô nương đuổi
theo một quãng đường dài mệt mỏi hết sức chợt hiểu ra, hung hăng trừng
mắt một cái rồi quay đầu khiến cho đám người sau lưng đồng thời than thở một tiếng dậy đất, nhưng lại không thể không đuổi theo.
Triệu
Bạch Ngư thấy vậy, đột nhiên hiểu ra mới bật cười thành tiếng, ôm siết
lấy eo Hoắc Kinh Đường bảo hắn đi một chỗ, đào rượu Tần cất từ mùa xuân
lên rồi mới quay trở lại thảo nguyên mênh mông bát ngát để chè chén say
sưa.
Đến khi màn đêm buông xuống, hai người mới đi đến bên một bờ hồ xa ngút ngàn chẳng có bóng người, nằm trên thảm đá xanh bên cạnh hồ
vừa uống rượu vừa ngắm sao bay đầy trời, gió đêm hè thảo nguyên thổi
qua, tán gẫu một chút về trận chiến tiêu diệt Đại Hạ lần này.
"Không có gì đáng ngại, bên trong Đại Hạ giống như là hang côn trùng bị đục
rỗng vậy, thiết kỵ tới nơi như vào chốn không người, thành trì ở ngoài
cùng còn có ý chống cự, nhưng càng vào sâu càng chẳng ai chống nữa, thậm chí cỏ thành chủ động mở cổng nghênh đón Cấm quân, cúi đầu xưng thần.
Không còn Tang Lương Ngọc, Đại Hạ giống như đứt mất cánh tay vậy, huống
chi gần ba trăm ngàn binh mã đã chết hết một nửa ở Tây Bắc, dù Thác Bạt
Minh Châu và Cao Di Sơn có chút tài, cũng có lòng anh dũng ngoan cố
chống lại đến cùng nhưng sẽ đánh không lại Cấm quân Đại Cảnh, cũng không thể níu kéo được lòng dân, sụp đổ dễ như trở bàn tay vậy."
Không phải Đại Hạ không có người chính trực, cũng có kẻ kiên cường giữ thành
chống lại Cấm quân Đại Cảnh hơn một tháng trời, Hoắc Kinh Đường nói
chuyện còn tỏ ý kính nể, đương nhiên là những điểm quan trọng còn lại
toàn là lấp ló khoe khoang ngầm muốn Triệu Bạch Ngư khen ngợi hắn, nếu
có chỗ nào bị lặp lại thì sẽ tỏ vẻ ghét bỏ hắn cho có lệ.
"Khi
Đại Hạ đánh Linh Châu đúng thật là đã gặp khó khăn, suýt nữa là binh
tướng đều tổn thất, trong quân Tây Bắc có người lấy cớ tịch thu lương
thảo của Chiết gia quân, trong lúc Chiết gia quân tấn công Linh Châu thì ra lệnh nghiêm ngặt buộc họ phải ở yên chờ lệnh, rồi sau đó chuẩn bị
tấn công. Nếu như đánh hạ Linh Châu rồi thì không sao, nhưng vẫn cứ là
không đánh được, còn vì bị binh Hạ đập vỡ nguồn nước Hoàng Hà, nhấn chìm Cấm quân Tây Bắc, toàn quân suýt chút nữa là bị diệt."
Nhắc đến
việc này, Hoắc Kinh Đường làm vẻ mặt giống như cười mà lại không phải
cười, nếu như nhìn kĩ thì chỉ thấy toàn là sát ý lạnh băng.
"Linh Châu phạm phải sai lầm coi như xong, sau đó còn ta vào đánh hạ phủ Hưng Khánh, lúc đuổi giết kỵ binh nhẹ Mông Cổ, chúng mai phục ta ở nơi hiểm
yếu, bị bắt tại trận còn dám nói láo rằng ông ta nghĩ nhầm thiết kỵ
Đường Hà của ta là kỵ binh Mông Cổ... Tiểu lang cũng biết người này là
ai chứ?"
"Trịnh Nguyên Linh?"
"Ừ." Hoắc Kinh Đường trở
mình, vùi mặt vào trong cổ Triệu Bạch Ngư, một chân cong lên, tay trái
choàng qua vai y rồi nói: "Có đôi khi ta không tài nào giải thích được
vì sao có nhiều người nhìn chằm chằm vào cái ghế kia đến vậy, dù là
Trịnh Nguyên Linh, lão Lục hay cả nhà Trịnh quốc công đều đã cống hiến
hết thời gian tốt đẹp nhất của cuộc đời ở biên cương, đúng là bọn họ có
chút lòng dạ riêng, thế nhưng lòng trung thành bảo hộ núi sông, che chở
cho dân chúng không phải là giả. Thực ra lão Lục lúc là thiếu tướng quân quân Ký Châu rất có khí phách, túc trí đa mưu, cũng là kẻ được người
người ca tụng, thủ đoạn sạch sẽ, không thể so với thanh liêm nhân từ
nhưng rất ngay thẳng, nhưng đã vào quan trường rồi, về lại triều đình,
theo đuổi cái ghế kia, biến thành người giống với Thái tử, trở nên ngu
dốt, cố chấp, ích kỷ, làm sao có thể lãng phí mạng sống của tướng sĩ chỉ vì tham lam chút công lao này kia chứ!"
"Làm quan ngàn dặm chỉ
vì tiền tài, làm người muôn đời thì cầu quyền thế, từ xưa đến nay đều
như vậy." Triệu Bạch Ngư an ủi Hoắc Kinh Đường.
Hoắc Kinh Đường đột nhiên bật cười, "Ta cũng không có tư cách nói đến người khác."
"Vì sao?"
"Trước đây ta cũng từng đuổi theo cái ghế đó, có lẽ là từ nhỏ ta đã biết rõ bệ hạ đối xử với ta khác, rất dễ đoán ra tâm tư của ông ấy, mặc dù bị ném
đến phủ Tĩnh vương, ta vẫn tin rằng bệ hạ chỉ đang thử thách ta mà thôi, ông ấy muốn ta trở thành hùng ưng lang vương chứ không phải là một quân vương độc đoán mềm yếu, ta đã từng giận ông ấy, lòng tin cũng thay đổi. Ta đến Ký Châu, lăn lộn ở Tây Bắc, đã từng trải qua nhiều lần sống chết khó khăn, tự mưu tính con đường trở thành Thái tử, lấy lòng những người đa mưu túc trí, điều chỉnh lại thiết kỵ Đường Hà, đào tạo võ tướng
thuộc về ta, sắp xếp quân cờ ở khắp nơi... Em có biết ta đã từng ra sức
mời Trần Sư Đạo không?"
Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên: "Ta không biết chuyện này."
"Nếu như không phải đã nhìn ra dã tâm của ta, thì ngày trước làm sao ông cụ
có thể một lòng tin tưởng em gả cho ta là để trở thành mưu sĩ giúp ta
làm việc cho vua, che đậy tai mắt người khác?"
"Hóa ra là thế?"
"Dã tâm trở thành Thái tử tan nát khi bị cổ độc tra tấn, rồi bị nghiền nát
hoàn toàn khi bệ hạ quay lưng lựa chọn lão Lục, bỏ mặc ta bị cổ độc hành hạ ngày qua ngày nên càng trở nên gắt gỏng hơn, tiếng xấu vang xa...
Lần em đến nhặt xác, đám người kia là do hậu cung xếp vào, lúc đưa bọn
họ vào cũng chính là lúc cổ độc bạo phát, ta không thể khống chế được,
lời đàm tiếu nói ta tàn bạo, chơi đùa người khác đến chết trên giường bị truyền đi, còn bệ hạ chỉ... thờ ơ."
Triệu Bạch Ngư ôm chặt lấy
Hoắc Kinh Đường, mặc dù đã biết cảnh ngộ của hắn, nhưng nghe hắn tự nói
ra thì trong lòng vẫn đau xót không thôi.
"Lúc ta gặp chàng, chàng rất dịu dàng, trong lòng ra chàng chính là người vô cùng tốt."
Y nói ấn tượng của mình về Hoắc Kinh Đường.
"Chàng biết khi chàng xuất hiện trước mặt ta, bảo ta đi gióng trống khua chiên cáo trạng cứu thầy, trong lòng ta đã nghĩ gì không?"
"Nghĩ gì?"
"Ta nghĩ, người đã khiến cho ta phải sợ hãi suốt hai năm trời, chính là
người duy nhất mở cho ta một con đường phía trước, cùng là người dọn
sạch đường lui phía sau trong suốt mười chín năm cuộc đời của ta, từ nay về sau, hắn nhất định sẽ tách biệt hoàn toàn với vạn người trong thiên
hạ."
Triệu Bạch Ngư quen lủi thủi một mình, tuy có Tú ma ma và
Ngụy bá quan tâm, che chở y, nhưng phần lớn thời gian y đều phải tự mình lo liệu trước sau, dù có phải đối mặt với sóng to gió lớn gì cũng đều
đứng chắn phía trước như một thói quen, không ai mở đường cho y, càng
không ai có thể kéo y lại khi thuyền y bị lật, vì vậy nên Triệu Bạch Ngư mới quen với việc chú ý cẩn thận với mọi thứ.
Khi cứu Trần Sư Đạo, trong lòng y đã tồn tại suy nghĩ muốn chết, vậy mà Hoắc Kinh Đường lại ngang nhiên xuất hiện ngay lúc ấy.
Hoắc Kinh Đường cười mấy tiếng, bỗng dưng níu lấy Triệu Bạch Ngư lật khỏi
thảm đá nhảy xuống hồ, một đám bọt nước tung lên kêu rào rào, Triệu Bạch Ngư không phản ứng kịp nên uống phải một ngụm nước rồi nhanh chóng bị
Hoắc Kinh Đường chặn miệng, lấy rong rêu dưới thân làm giường, cá con to cỡ bàn tay bừng tỉnh, kéo bầy kéo đàn lủi đi mất.
Hồ nước trong
vắt đến nỗi y có thể nhìn thấy ánh sao trời chiếu xuống lấp lánh, thậm
chí lúc này đây y còn có thể cảm nhận được nhiệt độ của Hoắc Kinh Đường
khi hắn dán sát vào người mình, đó chính là sự nóng nảy mà nước hồ lạnh
buốt không thể thấm ướt, là toan tính điên cuồng tràn trề hưng phấn
không thể dập tắt mà Hoắc Kinh Đường ngày đêm gấp gáp trở về sau khi
giành thắng lợi trên chiến trường, tiêu diệt Đại Hạ, gây dựng sự nghiệp
to lớn đến cả Thánh tổ cũng chẳng thể làm được.
Dường như mới vừa rồi dịu dàng tâm sự, để lộ vẻ đa sầu đa cảm chẳng qua là vì sợ tiểu
lang quân sợ hãi mà thôi, hắn đã cố hết sự giảm nhiệt độ rồi, chỉ tiếc
là chẳng có hiệu quả mấy.
Nước lại vang lên rào rào, Triệu Bạch
Ngư đạp nước ngoi lên, được Hoắc Kinh Đường ôm tựa vào mép hồ, trâm ngọc đã bị rút ra, mái tóc ướt sũng tản ra rũ xuống, chóp mũi chạm nhau vừa
nóng vừa ướt, nụ hôn nhỏ vụn rơi xuống không ngừng, nhanh chóng từ nhẹ
nhàng hóa thành gió lớn mưa rào.
Dưới màn trời này, trên thảo
nguyên, cạnh hồ nước, hai người trút hết tinh lực tràn trề tới mức gần
như chẳng còn gì, ôm ấp lấy sự mỏi mệt sau khi thỏa mãn, lấy trời làm
màn lấy đất làm chiếu ngủ đến tận lúc mặt trời mọc mới cưỡi ngựa trở về, nhìn ra xa thấy được tro tàn của lửa trại đêm qua, Hoắc Kinh Đường
không đi sang đó mà ôm Triệu Bạch Ngư quay đầu ngựa về phủ.
***
Đại Hạ bị diệt, Cấm quân Tây Bắc thắng lợi về triều chính là sự nghiệp to
lớn nhất từ xưa đến nay giữ cho Đại Cảnh trăm năm thịnh thế, Nguyên Thú
đế rất vui, đại xá thiên hạ, lệnh cho ba tỉnh sáu bộ chuẩn bị cho tốt
danh mục quà tặng, bắt tay vào sắp xếp chuyện này đến chuyện khác với ý
đồ nhận lại Hoắc Kinh Đường, lòng dạ gấp gáp muốn lập trữ rõ mồn một.
Trong điện Văn Đức, chỉ có Nguyên Thú đế đang ngồi phía trên, đại thái giám
và một người đàn ông trung niên đang quỳ rạp dưới đất, hình như lão vừa
báo cáo công tác xong, đang đợi phân công.
Một lúc lâu sau,
Nguyên Thú đế mới nói: "Nhân dịp đại hỉ, trẫm chuẩn bị đến ngoại ô phía
nam tế trời sau Trung thu này." Buông tấu chương xuống, ông nhìn về phía đầu người ở dưới, "Ngươi có hiểu ý của trẫm không?"
Người phía
dưới đảo mắt mấy vòng, nghĩ một chút liền hiểu được, thoáng chốc kinh
hồn bạt vía, vì sự quả quyết của Nguyên Thú đế mà không nói nên lời, có
điều trên mặt vẫn cung kính lễ độ: "Thần tuân chỉ!"
Sự chú ý của Nguyên Thú đế lại quay về trên tấu chương, hời hợt đáp: "Về đi, đừng để người khác nhìn thấy."
Ông lệnh cho đại thái giám đi tiễn một đoạn, dẫn người đến một con đường ít ai qua lại.
Hai người này một trước một sau đi trên cung đạo, hai bên là tường thành
màu đỏ, khi đi qua một cung điện mọc đầy cỏ dại, mưu sĩ đi phía sau mới
nhét túi tiền vào trong tay đại thái giám, hỏi một câu "Tâm trạng của bệ hạ thế nào".
Đại thái giám nhìn trái nhìn phải, nghĩ tới sức
nặng của túi tiền, tốt bụng nói: "Ông còn không nhìn ra được à? Tất
nhiên là rất vui rồi. Thịnh thế này coi như là được mở ra trong tay bệ
hạ, người nên ngã cũng đã ngã, đồ muốn có cũng đã có, hài lòng như ý, ý
trời tương trợ, tất nhiên vẫn muốn mọi chuyện được suôn sẻ, phải vô cùng hoàn mỹ mới được." Lão giảm âm thanh xuống khuyên nhủ, "Ông ấy à, bây
giờ đã gánh vác trách nhiệm trên vai thì chớ có quay đầu lại. Trong thời điểm quan trọng này, phàm có ai muốn làm bệ hạ phật lòng thì không chỉ
phải nghĩ đến đầu của mình, mà còn phải nhớ tới gia đình họ hàng nữa."
"!" Mưu sĩ run rẩy, nhớ tới mấy chữ "gánh vác trách nhiệm", không khỏi cười khổ: "Ta tạ lời hay của công công."
Đại thái giám vẫy vẫy tay: "Tiễn ông đến đây thôi, đi cẩn thận một chút, đừng để cho ai trông thấy."
Mưu sĩ nói lời cảm ơn rồi đi ngay, đại thái giám đứng đó một lát rồi cũng đi.
Cung điện tan hoang vô cùng yên tĩnh, bỗng nhiên có tiếng lá khô bị đạp nát
vang lên, có người bước ra từ phía sau bức tường phủ đầy dây thường
xuân, sắc mặt tái nhợt, ánh mắt u ám như nước, ấy vậy mà lại là Ngũ
hoàng tử ít xuất hiện đi chẳng còn nghe thấy tên tuổi kể từ khi Đông
cung chết.
***
Phủ Tấn vương.
Phụ tá khuyên nhủ:
"Bàn về văn trị võ công, tất cả mọi thứ Lâm An quận vương đều hơn vương
gia một bậc, bệ hạ vốn luôn thiên vị hắn. Còn có Thái Trọng Thăng về báo cáo công tác rồi vô cớ bị giáng chức đến một nơi hoang dã như Nam Man,
Trịnh nhị gia cũng không truyền tin về đã nhiều ngày liên tục rồi, thậm
chí chẳng hiểu sao binh quyền của nhánh Hoàn Khánh lại bị chuyển giao
cho phó tướng, hơn nữa bệ hạ hành động liên tiếp, tình thế cấp bách, nếu để cho Hoắc Kinh Đường về kinh an toàn, e là vị trí Thái tử sẽ rơi lên
đầu hắn, đến lúc đó ngài và phủ Trịnh quốc công có muốn cố gắng cũng
chẳng còn cơ hội!"
Lục hoàng tử ngày xưa giờ đã trở thành Tấn vương: "Theo tiên sinh, ta nên làm thế nào?"
Phụ tá: "Việc này là việc trọng đại, chắc chắn bệ hạ sẽ đi ngoại ô phía nam để tế trời, Thái hậu cũng đi theo, trong cung không có người, Cấm quân
phòng thủ yếu kém, đó chính là cơ hội tốt nhất để đoạt quyền."
Tấn vương yên lặng nhìn phụ tá, nhìn đến mức người nọ cảm thấy sợ hãi, lúc
này mới dời tầm mắt đi, cau mày nói: "Mấy năm nay ta bước đi khó khăn,
đảng văn thần không phát triển nổi, đảng võ quan cũng bị gọt dũa đi
nhiều, lấy binh quyền ở đâu ra để mà đoạt vị?"
Phụ tá: "Dù gì
Trịnh Sở Chi cũng đang nhậm chức Đô úy doanh Long Hổ, có thể phối hợp
chặt chẽ với quân cờ ta xếp vào Cấm quân trong cung, chỉ cần lấy được
ngọc tỉ và dây đeo triện, chống chọi đại thần văn võ trước rồi ép bệ hạ
thoái vị."
Quân doanh đóng quân trong phủ kinh đô gọi chung là doanh Long Hổ, cũng là một nhánh trong tám trăm ngàn Cấm quân.
Tấn vương: "Tiên sinh thật sự muốn ta mưu phản ép vua thoái vị sao? Nếu như cũng thất bại giống như Đông cung lúc trước, kết cục của ta và ông đều
sẽ là đầu rơi xuống đất!"
Lúc này phụ tá quỳ xuống đất, dùng giọng đanh thép đáp lại: "Thuộc hạ nguyện đầu rơi máu chảy vì vương gia, đến chết mới thôi!"
Tấn vương dán chặt ánh mắt theo dõi ông ta, một lúc lâu sau mới vỗ lên tay
ghế cười to: "Hay! Hay! Tiên sinh là phụ tá đắc lực của cô, là Chư Cát
tể tướng của cô!" Sau đó hắn thở dài như thể đang nhớ về trước kia:
"Tiên sinh đến bên cạnh cô từ năm nào ấy nhỉ?"
"Năm Nguyên Thú
thứ mười tám, lúc vương gia tòng quân, trên đường cứu được thuộc hạ bị
bỏ tù oan, giúp người nhà của thuộc hạ sử lại án oan, thề làm ngựa chó
dốc sức suốt quãng đời còn lại vì điện hạ."
"Năm Nguyên Thú thứ
mười tám... Cũng đã tám năm rồi." Tấn vương như có điều suy nghĩ: "Nếu
như nghiệp lớn thành công, cô nhất định phụng tiên sinh làm Tam công."
"Thuộc hạ đi theo điện hạ chỉ vì báo ân, nguyện vì điện hạ đạt thành nghiệp lớn, không vì tiếng tăm của bản thân!"
Tấn vương nở nụ cười, tự tay nâng phụ tá dậy, tha thiết an ủi giống như
thường ngày, nhỏ nhẹ thương lượng chuyện lớn, chờ cân nhắc xong xuôi mới đưa người đi, nụ cười trên mặt lập tức biến mất, thay vào đó là đau
thương, trong mắt dần dần ngập tràn nặng nề xót xa.
"Cha mẹ
thương con, tất vì con mà lo toan chu toàn." Tấn vương mấp máy môi nói,
"Cô luôn tin rằng lúc trước phụ hoàng hao tâm tốn sức sắp xếp tiên sinh
đến bên cạnh là bởi vì muốn nâng đỡ cô, thật sự ký thác kỳ vọng vào cô,
rõ ràng đó chính là tình thương của cha. Nhưng hôm nay lại tốn công tốn
sức khiến ta rơi vào vùng đất chết, rõ ràng là hy vọng cô đi tìm chết,
đó vẫn là tình thương của cha... Nhưng lại không phải dành cho ta."
Sau lưng hắn có một người khác xuất hiện, đó là Ngũ hoàng tử mặt không cảm xúc.
Lão Lục còn được Nguyên Thú đế yêu thương cất nhắc, đến cả Đông cung cũng
đã từng có lúc được ông gửi gắm hy vọng, còn gã thì sao? Bị biến thành
một quân cờ mặc người sử dụng, dường như đến cả tư cách cũng không đủ.
Thái tử, lão Lục còn có tư cách để đau khổ, hắn thì chẳng có thứ gì.