“Xin tổ sư gia bớt giận, đồ tôn bất hiếu. Hôm nay chúng con gửi thêm một túi bột mì nữa, chúng con thắt lưng buộc bụng lắm mới dành ra được chút ít này, mong người và Bùi thúc tổ bán hàng vui vẻ, ăn uống vui vẻ…”
Cố Cửu cầm nén nhang đứng đối diện bài vị của tổ sư gia lầm rầm niệm, làm
nũng năn nỉ ỉ ôi một hồi rồi mới cắm nhang vào lư. Tối hôm qua Thiệu Dật cùng chung số phận bị khảo bài nên sáng nay cũng đã nhanh chân thắp
nhang nhận sai rồi.
Trước đây thầy trò Bùi sư thúc tổ chưa kịp
thu đồ đệ nào thì đã gặp phải biến cố rồi qua đời, cho nên Cố Cửu và
Thiệu Dật nghiễm nhiên trở thành người kế thừa y bát và chăm lo hương
khói cho bọn họ. Thỉnh thoảng Phương Bắc Minh trở về thì sẽ dạy dỗ hai
đứa học trò một thời gian rồi lại tiếp tục lên đường, hoặc có khi các vị tổ sư gia sẽ dạy cho hai người vài chiêu thông qua việc báo mộng.
Đêm hôm qua bị hành tơi tả trong mộng nên cả hai chẳng ngủ được mấy, sáng
nay đạo quan mở cửa đón khách, sư huynh đệ Cố Cửu ngồi ngoài mái hiên
của chính điện, mỗi người chiếm một góc bàn dùng để tiếp khách hành
hương mà ngủ gà ngủ gật.
Tiểu Đệ vốn đang ghé vào đầu Cố Cửu lim
dim hưởng thụ thì bỗng hai tai giật giật, nhóc ta ngẩng đầu ngó ra ngoài cửa lớn, meo lên một tiếng.
Cố Cửu và Thiệu Dật đồng loạt ngước
nhìn, chỉ thấy một bàn tay gầy quắt queo không biết từ đâu đột nhiên
xuất hiện, chụp lên khung cửa, dường như chủ nhân của nó phải dùng hết
sức mới bám được vào cửa, theo ngay sau đó là một mái đầu bù xù như tổ
quạ. Người nọ chui vào cửa, tay đỡ lấy một chân, khập khiễng lê từng
bước vào trong đạo quan.
“Đạo trưởng, cứu mạng với…” Người vừa mới tới nhìn thấy Cố Cửu thì như nhìn thấy vị cứu tinh, sống chết nhào tới trước mặt cậu.
Cố Cửu hết hồn, nhanh nhẹn bế mèo đen lên dạt ra một chút: “Ông là ai vậy?”
Cậu nắm lấy đệm thịt của mèo Tiểu Đệ, nhờ móng của nó vén mớ tóc lộn xộn
trước trán của người đó ra xem. Khuôn mặt của người này bầm dập cả,
nhưng trông có vẻ quen quen, hình như đã từng gặp ở đâu rồi.
Đã
ra nông nổi này nên bây giờ cứ mở miệng nói chuyện là mặt Bao Phú Quý
lại đau thấu, gã méo xệch miệng xuýt xoa, nói: “Đạo trưởng, là tôi đây,
người xem bói cho cậu trong trấn nhỏ dưới chân núi đó.”
Cố Cửu lập tức nhớ ra: “A, là ông à.”
Bao Phú Quý bám vào mép bàn, cảm kích nói: “Tạ ơn đạo trưởng lần trước đã
cho tôi bùa bình an, nhờ nó mà tôi mới giữ được cái mạng này.”
Ngày hôm đó, Bao Phú Quý nhìn vào vết mèo cào rướm máu trên tay cứ ngờ ngợ
mãi, không biết có phải mình vừa gặp phải một tay lừa đảo già đời hơn
không nữa, nhưng mà dù sao cái bùa bình an đó cũng tiêu mất hai văn tiền cuối cùng của gã nên gã vẫn tiếc của, giữ lại trong người không ném đi.
Khoảng thời gian sau đó, Bao Phú Quý nơm nớp lo sợ mình sẽ gặp phải “tai nạn
đổ máu”, thỉnh thoảng còn nghĩ tới quẻ bói mà Cố Cửu đã xem cho mình. Gã đặc biệt để ý đến câu “khổ cực lúc về già” kia. Lúc còn trẻ chịu khổ
một chút, nhân lúc thân thể còn khỏe mạnh thì ráng lo bôn ba kiếm sống
cũng không có gì, nhưng mà nếu đã có tuổi mà còn không được hưởng phúc
tuổi già, vẫn phải lăn lộn khắp nơi thì thật thê thảm quá.
Thời
đại này người ta rất xem trọng chuyện hậu sự, có người còn đến hơn mười
năm nữa mới được xem là cao tuổi mà đã rục rịch chuẩn bị hậu sự cho mình rồi, lo mua sắm quan tài phòng xa, Bao Phú Quý gã tuy chỉ có một thân
một mình nhưng cũng không ngoại lệ. Thế là gã cố ý nán lại nơi này để
hỏi thăm về Thái Nguyên Quan. Cuối cùng tính tới tính lui, Bao Phú Quý
quyết định gửi gắm hi vọng vào Cố Cửu, muốn tìm cậu mặt dày xin bái sư
học đạo, tốt nhất là học được một chút kĩ năng thật sự chứ không tiếp
tục con đường lừa gạt gian dối nữa, hòng tích phúc về sau.
Hôm nay
không phải lần đầu tiên Bao Phú Quý tìm lên Thái Nguyên Quan, chỉ là lần đầu gã đến thì đúng dịp bọn Cố Cửu ra ngoài lo việc của Tiểu Thụy nên
không gặp được.
Sáng hôm qua Bao Phú Quý lò dò đến Thái Nguyên
Quan lần nữa, nào ngờ lần này giữa đường lại gặp chuyện ngoài ý muốn, gã tình cờ nhìn thấy một kẻ lưu manh đang lôi xềnh xệch một cô gái giãy
dụa kịch liệt vào trong rừng.
Bao Phú Quý vốn không định lo việc
bao đồng làm gì cho nhọc thân, nhưng lúc gã dợm bước đi thì bỗng sực nhớ đến câu nói của Cố Cửu “bớt đi lừa gạt người ta, siêng năng làm việc
thiện” bèn khựng lại, cộng thêm tiếng la hét cầu cứu của cô gái kia thê
thảm quá nên cuối cùng gã vẫn cắn răng lao vào rừng cây.
Bao Phú
Quý tìm được đến nơi bèn hét to quát bảo tên lưu manh dừng trò đồi bại
kia lại, ai ngờ tên đó thấy gã thân cô thế cô nên chẳng những không sợ
mà còn hùng hổ nhào lên tấn công gã. Lúc Bao Phú Quý bị đấm cho một cú
thì nghĩ thầm trong bụng, bị đánh thì cũng đã bị rồi, nếu bây giờ chùn
bước thì thành ra công cốc hay sao, thế là gã bất chấp làm liều, ráng
nhịn đau ôm chầm lấy tên côn đồ để tranh thủ thời gian cho cô gái chạy
trốn.
Sau khi cô gái kia thoát thân, gã bị đánh một trận tơi bời.
Không những vậy, lúc gã quýnh quáng chạy trốn bất thình lình trượt chân, ngã nhào xuống vách núi.
Vách núi chỗ đó rất cao, Bao Phú Quý
chỉ bị gãy một chân và rách da đầu đã xem như là kì tích rồi. Gã bị
choáng nên ngất lịm đi, nằm dưới vực cả đêm. Ngay khi vừa tỉnh lại, gã
mò mẫm trong túi muốn lấy lá bùa bình an vẫn mang theo bên người ra xem
thử thì chỉ vốc được một nhúm bột mịn. Bao Phú Quý sợ đến nỗi đổ mồ hôi
lạnh khắp người, nếu không có lá bùa này thì thật chẳng dám tưởng tượng
kết cục của gã sẽ ra sao nữa.
Việc này càng củng cố quyết tâm
muốn đến nương nhờ Cố Cửu của gã. Gã bám lấy cây cỏ dọc bên triền núi,
lần mò bò lên từng chút một, vật vã mất cả buổi sáng mới lên được tới
nơi. Sau đó gã không chần chừ gì nữa, vội vàng lê cái chân què chật vật
đi lên Thái Nguyên Quan.
Cố Cửu nghe xong đầu đuôi câu chuyện bèn lấy thuốc trị thương ra, bảo Bao Phú Quý tự soi gương mà bôi thuốc, còn cậu thì tìm hai thanh gỗ nẹp chân cho gã.
“Đã là kiếp số thì sẽ
không tránh khỏi, tránh được một lần chứ không tránh được một đời, thà
chịu khổ một chút nhưng thoát được kiếp nạn thì tốt hơn. Bây giờ coi như kiếp nạn của ông đã được giải, chỉ có điều tương lai như thế nào vẫn
phải xem bản thân ông hướng thiện hay ác.”
“Đạo trưởng, ngài thu nhận tôi làm đồ đệ đi!” Bao Phú Quý nhìn Cố Cửu một cách da diết.
Cậu nhịn không được phì cười: “Tôi còn đang là đồ đệ của người ta đây này.”
Bao Phú Quý mặt dày không chịu từ bỏ: “Nếu như vậy thì làm sư đệ cũng được mà.”
Trước khi gã lên đây đã hỏi thăm rõ ràng rồi, quan chủ của Thái Nguyên Quan
đã ra ngoài từ lâu, hàng năm trong quan chỉ có hai sư huynh đệ Cố Cửu ở
lại. Tuy rằng người lợi hại nhất là đại sư huynh Thiệu Dật nhưng Bao Phú Quý không dám đả động gì tới hắn. Vừa rồi gã cẩn cẩn thận thận cười cầu tài với người ta, mà người ta lại chỉ ném cho gã một ánh nhìn lạnh buốt thấu xương, làm Bao Phú Quý có cảm giác như mỗi lời người này phun ra
sẽ độc địa như một lưỡi dao sắc bén vậy.
Cố Cửu cố định hai thanh nẹp bằng một nút thắt rồi nói: “Tôi làm sao nhận một sư đệ lớn tuổi như ông được chứ.” Bao Phú Quý này ít nhất đã hơn ba mươi rồi.
Gã nghe vậy vội la lên: “Đừng đuổi tôi mà, tôi không ngại nhận ngài làm sư huynh đâu.”
Cố Cửu nghiêm chỉnh nói: “Nhận đồ đệ không có đơn giản nhưng ông tưởng
đâu, không phải cứ nói vài câu là xong việc. Thôi được rồi, đừng nhắc
tới chuyện này nữa, ông ở chỗ nào, tôi tìm người đưa ông về.”
Bao Phú Quý co rúm người lại: “Từ nhỏ tôi đã lang thang trôi dạt khắp nơi, làm gì có chỗ nào ở chứ, hôm qua đến giờ tôi còn chưa có gì bỏ bụng nữa là…”
“Vậy làm sao ông có sức bò nổi từ dưới đáy vực lên tới đây?”
“Thì ăn qua loa mấy miếng cỏ dại cầm hơi thôi.”
Bao Phú Quý vì để đạt được mục đích mà ra sức tỏ ra thê thảm, thế là cuối
cùng dù không bái được thầy nhưng cũng được ưu đãi cho ở lại đạo quan
dưỡng thương. Chuyện này là do Cố Cửu quyết định, nhưng Thiệu Dật cũng
không có ý kiến gì, bởi vì Cố Cửu thuyết phục hắn rằng đến khi làm xong
Thất Tinh Hoàn, hai người họ cũng phải ra ngoài làm việc, phải rất lâu
mới quay về đạo quan một lần, chẳng lẽ lại bỏ phế đạo quan như trước
đây, không có ai chăm lo hương khói hay sao?
Nếu đã vậy chi bằng để
cho Bao Phú Quý ở lại đây, giúp bọn họ coi sóc việc trong việc ngoài, để đạo quan tránh được cảnh hoang tàn. Dĩ nhiên việc này cũng phải hỏi ý
của Phương Bắc Minh mới được.
Tạm sắp xếp xong xuôi như vậy, Cố
Cửu và Thiệu Dật đi một chuyến xuống núi để hỏi thăm tin tức của cô gái
suýt bị hại kia. Nếu sự việc đã xảy ra trên ngọn núi này thì ắt tên lưu
manh kia ở không xa mấy. Thế nhưng bọn họ đợi mấy ngày liền đều không
thấy chút tin tức nào.
Cố Cửu có thể hiểu được nguyên nhân trong
đó, sự việc thế này đặt vào bối cảnh xã hội hiện đại còn dễ dàng dẫn đến đủ loại thị phi gièm pha, thậm chí là đổ lỗi cho người bị hại, chứ nói
chi đến thời đại này. Thông thường chính bản thân cô gái và cả người nhà đều chọn cách im lặng nhịn nhục. Nếu việc này để lọt vào tai người
ngoài thì dù cho cô gái đó có thoát nạn thì cũng khó mà bảo toàn danh
tiết, khó tránh khỏi bị nhà chồng sau này khinh khi.
Cố Cửu nhíu mày hỏi Thiệu Dật: “Sư huynh, chẳng lẽ chúng ta buông tha cho tên côn đồ đó sao?”
Thiệu Dật nhìn cậu một cái: “Dĩ nhiên không.”
Hai người trở lại đạo quan, Cố Cửu thấy Thiệu Dật rút một bó rơm trong
phòng chứa củi ra, sau đó bện một người rơm nhỏ xíu rồi đi tìm Bao Phú
Quý.
Thiệu Dật nói với Cố Cửu, Bao Phú Quý có vật lộn với kẻ nọ,
ắt hẳn trên người còn vương lại hơi thở của hắn, chỉ cần dẫn một luồng
hơi đó vào hình nộm rơm rồi lấy tơ hồng quấn lên hai tay hai chân của nó thì hình nộm ấy sẽ trở thành thế thân của đối phương trong một lúc.
Giải thích xong, Thiệu Dật thả người rơm xuống đất, người rơm bắt đầu cử
động, khua tay múa chân. Nó tạo một dáng ngồi trên không khí, một chân
buông thõng, một chân giương cao giống như đang đạp lên một băng ghế vô
hình. Dáng người nó hơi nghiêng, chốc chốc lại đưa tay phải lên miệng,
trông điệu bộ như là đang ăn cái gì đó.
Cố Cửu hỏi: “Bây giờ hình nộm này là tên lưu manh kia à sư huynh?”
Thiệu Dật đáp: “Ừm.”
Thiệu Dật khẽ đung đưa dây tơ, người rơm đột nhiên bị ép đứng lên, lúc này
hẳn là tên lưu manh kia sợ muốn chết rồi, cơ thể tự dưng không điều
khiển theo ý mình được nữa, cứ giãy dụa ở mãi một chỗ. Thiệu Dật cười
lạnh, gảy gảy dây tơ hồng trong tay, vờn đuổi tên nọ một hồi, sau đó hắn dùng chuôi kiếm gõ thật mạnh vào đầu gối trái của người rơm, thế là nó
run rẩy dữ đội, ôm lấy chân trái té nhào xuống đất.
Vừa hay Bao Phú Quý bị ngã gãy chân trái.
Thiệu Dật lại trở tay gõ nhẹ lên đầu người rơm một cái, nó lập tức ôm lấy đầu bằng cả hai tay, vậy mà còn chưa kết thúc, hắn tiếp tục gõ một cái vào
hạ bộ của người rơm, lần này nó khuỵu xuống, đưa tay che chỗ nhạy cảm
kia lại.
Thấy đã khá hài lòng, trước khi dừng tay Thiệu Dật khắc thêm mấy dòng chữ lên người của hình nộm, đại khái có tác dụng làm cho tên
lưu manh phải tự lên huyện nha đầu thú. Đến lúc này, hơi thở được dẫn
vào người rơm cũng tan biến.
Hai ngày sau, Cố Cửu và Thiệu Dật
xuống núi lần nữa thì nghe nói trong thôn có một tên côn đồ cắc ké không biết thế nào mà đang ăn cơm ở nhà bạn bỗng nhiên bị quỷ nhập. Con quỷ
nọ làm hắn ta gãy mất một chân, gõ vỡ đầu hắn, lại còn phế đi đường con
cái của hắn. Bị tra tấn dữ quá, tên lưu manh đó thực sự sợ hãi, hắn ta
và đám bạn bè cùng hội cùng thuyền vội đi đầu thú. Sau khi điều tra,
huyện nha lôi ra được đủ loại tội danh của bọn chúng.
Mọi người
còn cho rằng cùng lắm tên du thủ du thực đó chỉ trộm cắp hay chòng ghẹo
con gái nhà lành mà thôi, sau khi mọi việc được đưa ra ánh sáng, người
ta mới kinh hãi phát hiện ra cả đám bọn họ từng mưu hại một cô gái, đã
dính đến mạng người. Bây giờ đám cặn bã đó đã bị tống hết vào ngục, trừ
phi gặp được dịp đại xá thiên hạ thì may ra còn có cơ hội ra tù, còn
không thì hẳn là phải ở trong đó đến cuối đời.
Sau khi có kết quả xử
án, nghe nói dân chúng trong vùng ai nấy đều vỗ tay hoan hô, họ còn kháo nhau rằng chuyện này là do cô gái chết oan kia trở về báo thù. Nhờ việc này mà đám du côn trong vùng cũng yên phận được một thời gian, trộm cắp vặt thì chưa bàn tới, nhưng việc động tới mạng người thì tuyệt không
dám dây vào, kẻo một ngày nào đó lại gặp phải kết cục giống như mấy tên
kia.
Có điều sau đó ít lâu, Cố Cửu có nghe nói đám lưu manh đó ở
tù không bao lâu đã chết rục cả, toàn bộ đều bị chuột gặm mất cơ quan
sinh dục, không một tên nào thoát. Người khám nghiệm tử thi kết luận
rằng bọn họ bị đau đớn giày vò đến chết. Điều kì lạ là tối ngày hôm đó
bạn tù xung quanh phòng giam đó đều không nghe được bất cứ âm thanh nào
cả, vô cùng quái dị. Cố Cửu lại biết, bấy giờ mới thật sự là cô gái bị
hại kia quay về báo thù.
Nàng ấy chết đã lâu, nhưng đám người cặn bã
kia vẫn không gặp chuyện gì là bởi vì bọn chúng làm ác nhiều, sát khí
trên người tích tụ không ít, quỷ lại sợ ác nhân nên nàng ta không dám
đến gần. Bây giờ bọn chúng bị hạ ngục, mà ngục giam là nơi trấn áp kẻ
ác, sau khi bọn chúng bị nhốt, sát khí đã tiêu giảm cho nên quỷ hồn của
cô gái nọ mới nhân cơ hội này báo thù.
Bọn Cố Cửu không phải cứ
nhìn thấy quỷ là nhào đến bắt, ví dụ như trường hợp này, quỷ báo tư thù
nhưng không gây hại đến người vô tội, không phạm đến bọn họ thì bọn họ
sẽ không làm gì. Bây giờ đã vào tháng bảy, tháng bảy là tháng của quỷ,
tiết trung nguyên sắp đến, công việc cần làm của hai sư huynh đệ còn
ngập đầu đây này.