Chương này vốn cũng không phải chủ đề Trung hiếu, chỉ có một góc thôi)
Bình thường mà nói, mãn kỳ giữ đạo hiếu là một việc rất trọng đại, bất kể là với kẻ mua danh chuộc tiếng hay là với người con thật lòng hiếu thuận
hay.
Đối với loại người đầu tiên thì không có gì để nói nhiều, họ chỉ ước chi tất cả mọi người trong thiên hạ đều biết ta có chữ hiếu, từ đó mở rộng danh vọng, thuận đà thăng tiến.
Đối với loại người
thứ hai thì bởi vì quan niệm vinh hiển tông đường, họ cũng hy vọng quan
khách khắp nơi đến viếng mộ, ăn giỗ nhà mình, cầu mong cha mẹ tổ tiên
trên trời có linh nhìn thấy mà vui lòng.
Tuy nhiên, đó chỉ là trong tình huống bình thường mà thôi.
Với địa vị lão đại Giang Nam hiện giờ của nhà họ Hoàng và thân phận gia chủ tương lai chắc như đinh đóng cột của Hoàng Hùng thì cũng không cần mời
mọc, hô hào. truyện teen hay
Bởi vì các phương thế lực từ thân bằng minh hữu, đến người dưng nước lã,
thậm chí đối thủ cạnh tranh, đều vừa nghe tin liền kéo nhau đến tham dự
ngày tế giỗ mãn tang 3 năm của Hoàng Dung.
Trước đó mấy ngày,
Hoàng Hùng đã xem duyệt mấy lần sổ ghi nhớ thăm hỏi của thế thân, cũng
đã chuẫn bị đầy đủ, cho nên ai đến cũng có thể ứng phó khôn khéo phù
hợp.
Khắp thành Trường Sa, bất kể là tại chốn công cộng hay tại
địa phương ít người, đều có thể thấy các nhà minh hữu thân càng thêm
thân, khen Hoàng Hùng không dứt lời, cho rằng hắn xuất chúng còn hơn
Hoàng Dung và Hoàng Thừa Ngạn khi xưa, thành tựu tương lai không thể đo
lường.
Về phần những phe xa lạ chưa quen vốn đang muốn gia nhập
vào Giang Nam 3 minh hội nên cũng nườm nượp dâng lễ biếu quà, mỗi đến
một người, Hoàng Hùng đều nhận cả đồng thời cũng tặng lại một phần đặc
sản của riêng nhà họ Hoàng mà không nơi nào có, lại còn cho một số lời
khuyên và hứa hẹn.
Như thế thì có thể vừa tránh gây hoang mang,
lo ngại cho các đồng minh tương lai, vừa có thể đi trước các thành viên
cũ một bước trong việc kết giao, dẫn đạo người mới, tránh hiện tượng kéo phe bảo đoàn, hoặc bắt nạt thôn tính.
Hoàng Thừa Ngạn cũng nhân
cơ hội này kêu gọi tổ chức một cuộc hội nghị lớn ở vườn đào trong sơn
trang của mình, đón tiếp hết thảy thành viên 3 minh hội và các minh hữu
tương lai, tuyên bố kế hoạch mở rộng phát triễn thương minh mà hai chú
cháu thảo luận bữa hôm.
Lúc đầu Hoàng Thừa Ngạn cho rằng trước
hết nên bí mật liên hệ các gia tộc đang nộp đơn xin vào thương minh, bàn luận xong xuôi đã rồi hẵn công bố.
Nhưng Hoàng Hùng cảm thấy thao tác này sẽ để cho các minh hữu cũ cảm thấy bị qua mặt.
Trong thương minh có 9 gia tộc không yếu hơn nhà họ Hoàng bao nhiêu, cùng
xưng phương nam thập đại gia tộc Dương châu Cố-Lục-Trương-Chu, Kinh châu Hoàng-Thái-Khoái, Ích nam Hoàng-Trương-Nghiêm.
Thế mà mọi người vẫn đồng ý công nhận nhà họ Hoàng là lão đại, uy quyền trong 3 minh hội còn cao hơn 9 nhà kia gộp lại.
Đó là bởi hai chữ ‘tín nhiệm’!
Hai chữ ‘tín nhiệm’ này khởi đầu từ di sản nhân nghĩa danh vọng mà Hoàng
Dung để lại, nhưng có thể phát triễn đến mức độ hiện nay là nhờ sự rộng
rãi quang minh lỗi lạc mà nhà họ Hoàng dày công xây dựng suốt 3 năm nay.
Từ việc cung cấp kỹ thuật không ràng buộc để các nhà có tư bản và chỗ đứng trong thương minh, đến việc mở rộng cửa cho các nhà tranh cử chức
trưởng lão, trở thành cao tầng của 3 minh hội, tham gia bàn bạc chuyện
lớn chuyện nhỏ.
Từ việc trao quyền cho các nhà, để con cháu họ
tham gia trộn lẫn với người nhà họ Hoàng trong công việc quản lý bậc
trung hạ, đến việc phân chia lợi ích sòng phẳng, hỗ trợ nâng đỡ các bên, để mỗi thành viên đều có bước tiến rõ rệt chỉ trong 3 năm.
Nghe
thì ngắn gọn như vậy nhưng khúc chiết trong đó chỉ có Hoàng Thừa Ngạn,
Hoàng Dung và Hoàng Hùng là thật sự rõ ràng, nhà họ Hoàng bởi vậy mà tử
bỏ một cơ số lợi ích ngắn hạn và trung hạn.
Tất cả là vì lợi ích lâu dài, vì tầm nhìn trăm năm!
Cho nên Hoàng Hùng mới khuyên Hoàng Thừa Ngạn công khai việc này, có lẽ ban đầu sẽ vấp phải chút trắc trỡ, ngáng chân, nhưng lại bảo toàn được ‘tín nhiệm’ đã có, thậm chí, nếu xử lý tốt, còn có thể moi ra một chút sâu
mọt, kẻ xấu, diệt trừ tai họa ngầm, ngăn chặn phiền phức về sau.
Huống hồ, nói cho cùng thì những kỹ thuật mới mà Hoàng Hùng đưa ra là của
riêng nhà họ Hoàng, muốn làm gì là việc của nhà họ Hoàng, các thành viên cũ cho dùng tạm thời không đồng ý nhưng cũng không thể công khai phản
đối.
Nếu vậy thì việc gì phải giấu giấu giếm giếm, lỡ như bị khui ra trước khi kịp công bố thì ‘không phải tặc cũng thành tặc’, đến lúc
đó ai lại nghe mình nói lý nữa, người khác chỉ chú ý đến hai chữ ‘giấu
giếm’, càng giải thích chỉ càng chiêu lấy nghi kỵ, xa lánh, thậm chí thù ghét.
Quả đúng như Hoàng Hùng dự kiến.
Sau khi các phe
phái biết được kế hoạch ‘dùng đất đai trao đỗi kỹ thuật’ các minh hữu
tương lai đều hồ hởi huân hoan vây kín xung quanh nhân viên chuyên
nghiệp do Hoàng Thừa Ngạn sắp xếp, hỏi han tin tức thủ tục các thứ các
thứ.
Còn những minh hữu hiện tại thì trãi qua một phen tranh luận công khai cũng từ bỏ việc ngáng chân mà bắt đầu họp bàn với nhau xem có nên tham dự vào việc phân chia mớ kỹ thuật mới này hay không, nếu tham
gia thì cần bỏ bao nhiêu ruộng đất và tá điền, chuyển đổi cơ cấu kinh tế đến mức độ nào.
Tình hình của thành Trường Sa từ mấy ngày nay vốn đã tưng bừng náo nhiệt, nói là giỗ mãn tang mà cứ như ngày vui tết lễ.
Hiện giờ lại có chuyện trọng đại vừa công bố tiếp thêm sinh khí, khiến cho
ai nấy đều hăng hái động não động miệng, hội bàn to nhỏ sổi nổi từ trong nhà đến ngoài ngõ, ở khắp các buổi tiệc hội đều có thể nghe được tiếng
cười nói đàm luận chuyện hợp tác cùng phát triễn.
Kéo theo là rất nhiều mối làm ăn mới được ký kết thành công, cũng có một cơ số các
tuyến thương mậu cũ được mở rộng, cũng có hàng tá kế hoạch dự định tương lai được giao ước cởi mở.
Dưới sự hỗ trợ chắp nối khôn khéo tích cực của nhà họ Hoàng, các minh hữu cũ mới đều tạm thời bỏ qua những
hiềm khích lặt vặt trong quá khứ, tay bắt mặt mừng nói chuyện liên kết
thông thương, tiền tài phú quý, thậm chí còn ghép cặp hứa hôn mấy chục
đôi trẻ để cho tình minh hữu ‘thân càng thêm thân’.
Một vài vị sĩ nhân lão thành của phe thế gia Trung Nguyên có dịp đi ngang Trường Sa
vào đoạn thời gian này đã thốt lên những câu như ‘không khí sặc mùi
tiền’, ‘thương nhân chỉ toàn nói lợi ích mà bỏ quên tao nhã’, ‘phương
nam man di, không biết nho lễ’, cloud cloud và go go.
Thực ra thì ở một góc độ nào đó mấy lão ấy nói cũng đúng, bởi vì trong cùng một
dạng không khí tụ hội đông đúc như Trường Sa thì lúc này tại Lạc Dương,
nho môn lấy vị thế chủ đạo độc tôn trấn áp hết thảy ngoại phái.
Phố thương nghiệp bị quan bế, tất cả các cửa hàng buôn bán nhỏ lẻ đều phải
tạm thời dẹp tiệm, một số tự cho là khôn lanh thì đã sớm cuốn gói ra
khỏi thành nhưng cũng bị bắt rời xa khỏi tầm mắt của lính canh đầu
tường, tức là ít nhất phải cách thành trị 10 dặm.
Duy chỉ có một
số tửu lâu cao cấp có quyền thế chống lưng như Hoàng Lạc lâu mới còn mở
cửa, nhưng tuyệt nhiên không gặp được chuyện lợi ích làm ăn hoặc lời nói vui đùa ngã ngớn.
Thi từ ca phú bay bổng khắp phố phường Lạc
Dương, ở trong lời văn không nghe được dù chỉ một chút hơi tiền mùi bạc
mà chỉ nghe được những mỹ từ thê lương tựa như văn tế điện, ai điếu.
Lưu Hoành đương nhiên không ăn giỗ Hoàng Dung.
Nhưng đúng là liên quan tới chữ Dung.
Hiện tại là 100 ngày của Vương Mỹ Nhân!
(P/s: Vương Mỹ Nhân tên thật Vương Vinh,
Chữ Vinh và chữ Dung mặc dù đọc ra riếng Việt thì khác nhau rõ rệt nhưng
trong tiếng Hán-Nôm thì đọc gần giống nhau, có thể xem là đồng âm.
Phiên âm ra tiếng Anh đều là Rong.
Ai đọc Đấu La Đại Lục thời kỳ đầu khi việc convert còn bát nháo hẵn cũng
biết hai cái tên Ninh Dung Dung và Trữ Vinh Vinh tráo nhau suốt, hồi đó
tác cũng bị hoa cả mắt.
Thời cách đây 50-60 năm, khi chữ quốc ngữ chưa phổ biến như hiện giờ, ông già bà cả còn sài tiếng nôm nhiều, thì
thỉnh thoảng vẫn có người dùng lẫn hai từ này với nhau)
Vương
Vinh xuất thân từ Hàm Đan Vương thị là một Hàn môn điển hình, cụ cố từng làm Trung Lang Tướng, địa vị tương tựa như Lư Thực hiện giờ, song các
đời sau không quá nổi trội, chỉ là bình bình, quan chức không cao, càng
thiên về thực nghiệp, trong nhà có xưởng thêu có thương đội, xem như một phú hộ.
Nam không xuất chúng, nữ lại hơn người, Vương Vinh là
con gái út trong nhà, văn chương học phú lại sâu rộng hơn các anh, thêu
thùa may vá, giao thiệp kinh thương đều có một bộ.
Đáng tiếc là
phong tục trọng nam khinh nữ ở Trung Nguyên quá mạnh, mặc dù từ sớm đã
tham gia quản lý coi sóc gia nghiệp, phụ giúp cha anh, nhưng tuyệt nhiên không có khả năng kế thừa một hào một cắc bởi vì sớm muộn cũng gã ra
ngoài.
Nữ nhân Trung Nguyên thời này chính là vậy, cho dù khi còn nhỏ được cưng chiều âu yếm đến đâu thì cuối cùng cũng sẽ đến một ngày
trôi theo cuộc mai mối đến nhà người ta.
May mắn lắm thì gặp được người chồng tài đức vẹn toàn, hiền lành ôn nhu có đảm đương, thì có thể trông nhờ được nửa đời sau an ấm, nhưng cũng rất khó chen chân vào
đường sự nghiệp, bộc lộ tài năng, độc lập tài chính, thậm chí nếu không
phải chính thê thì đến việc nhà cũng khó mà quản.
Không đủ may
mắn thì phải làm thiếp làm tỳ, để cho người ta trao đổi qua lại, xem như món hàng bán buôn, phục vụ cho lợi ích của kẻ ác phu, không những không có danh phận mà còn bị khi nhục đủ điều, so với hoa nữ trong thanh lâu
còn không bằng.
(P/s: Việc đem tỳ thiếp làm món hàng trao đổi xã
giao là một phong tục ‘bình thường’ ở xã hội phong kiến, bắt nguồn từ
thời Xuân Thu lận, nho gia không những không ngăn cấm mà đôi lúc còn cổ
vũ.
Mặc dù lão La không nói rõ ràng nhưng thông qua hai nhân vật Lưu Bị và Tào Tháo cũng có thể thấy.
Lưu Bị cả ngày hô hào ‘nữ nhân như áo mặc, huynh đệ như tay chân’, từng
không chỉ một lần vứt bỏ thê thiếp vợ con, nhưng lại được xem là ‘nhân
nghĩa’, thậm chí bởi vì vậy mà được Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Tử Long
đánh giá cao.
Tào Tháo bị La Quán Trung mô tả là háo sắc ái nhân
thê, nhưng kỳ thực chỉ có mỗi vụ ở Uyển Thành là bị phản phé thôi, còn
lại các mối quan hệ tình một đêm của Tào Tháo đều thành công thu phục
một đám thuộc hạ mới, dường như mấy ông kẻ địch và cấp dưới của Tào Tháo cảm thấy phải để hắn ngủ với vợ mình thì con đường sự nghiệp của mình
mới đảm bảo vậy.
Nghe rất yy nhưng chính là như vậy!)
Vương Vinh cảm thấy mình nên thuộc về loại thứ nhất, nàng cũng cố hết sức
trau dồi trí tuệ khôn khéo và danh vọng cho bản thân, hy vọng có thể tìm được một người chồng tài đức.
Cho đến khi được dịch đình tuyển chọn vào cung để ra mắt Lưu Hoành thì cuộc đời của Vương Vinh mới bước sang một trang mới.
Từ sau khi sinh ra Lưu Biện, nhà họ Hà càng ngày càng quá đáng, thậm chí
liên hợp với thế gia, mua chuộc lũ hoạn quan tráo trỡ, bức ép Lưu Hoành
nâng sớm lập thái tử, thậm chí mới đây còn phải phong Hà Hiền lên làm
Hoàng Hậu
Lưu Hoành tự nhiên không phải dạng vừa, thế là lại tuyển tú.
Lần này Lưu Hoành từ bỏ tầng lớp thảo dân vì lo ngại sẽ sinh ra một Hà Hậu thứ hai.
Mà danh môn vọng tộc cũng không được, vì thế thì chẵng khác nào quanh đi
quẫn lại vòng về thế gia, nâng đỡ ngoại thích là để chống đối thế gia,
đâu phải để gia tăng lực lượng cho thế gia.
Thế là Lưu Hoành nhắm vào hàn môn.
Có lẽ Lưu Hoành cũng miễn cưỡng xưng được là con cưng của khí vận.
Năm 12-13 tuổi, đang ngồi trong nhà thì Tào Tiết từ trên trời rơi xuống,
một đống vương công quốc hầu để đó không mời, lại đi rước hắn, một vị
Đình Hầu nho nhỏ vào Lạc Dương làm Hoàng Đế.
Con đường sau đó
cũng không tính là quá mức trắc trỡ, phế trừ thế lực tàn dư của Lưu Chí, xây dựng thế lực mới của mình, mấy lần đánh thành thế 5-5 với thế gia,
so với Lưu Chí ngày trước thì trâu bò hơn nhiều.
Mặc dù từ khi
Thái Ung bị đi đày, Hà Hiền sinh con trưởng Lưu Biện thì Lưu Hoành gặp
một chút trắc trỡ, nhưng hắn cũng chưa nãn lòng, lúc không người vẫn tự
nhủ rằng đó là thử thách ông trời muốn hắn vượt qua, ngày trước Quang Võ trung hưng cũng không dễ dàng thông suốt, có đến mấy lần suýt chết.
Quả nhiên vận may lại đến với Lưu Hoành khi hắn vừa ban lệnh tuyển tú thì
lập tức tìm được một thí sinh hoàn mỹ để thay thế cho Hà Hiền, đó là
Vương Vinh.
Vương Vinh thông tuệ lại ngoan hiền, mặc dù tài năng
xuất chúng nhưng cũng lễ phép ôn hòa, trong nhà kính cha anh, ở ngoài
thi ân nghĩa, dân chúng địa phương đều ca tụng nàng hết lời, lãng khách
giang hồ xưng là Hàm Đan tiên tử.
Nàng vừa không ngây thơ nhược
trí như Tống Nhu ngày trước, cũng không hỗn láo nham hiểm như Hà Hiền
bây giờ, càng đáng quý là nàng xuất thân hàn môn, có học vấn, có tầm
nhìn, lại không lụy thế gia.
Ngoài ra Vương Vinh cũng có thể tính là đồng hương của Lưu Hoành, bởi quận Hàm Đan và Hà Giang quốc nằm cận
nhau, đều thuộc phần trung tâm của Hà Bắc, nhà họ Vương cũng có một chút quan hệ hợp tác qua lại với nhà họ Đổng, bên ngoại của Lưu Hoành.
Điểm cộng nữa của Vương Vinh là thi từ ca phú và hiểu biết về văn hóa người Hồ nhờ vào việc phụ giúp thương đội của gia đình.
Lưu Hoành ít có sở thích, 8-9 thành tâm trí của hắn đều dồn vào ý nguyện
‘Trung Hưng’, phần còn lại chính là ở thơ văn và Hồ phong.
Lưu
Hoành ưa thổi sáo, hắn có thể thổi lên hương vị thảo nguyên, Vương Vinh
sẽ đánh tỳ bà, nàng có thể đánh ra giai điệu trăng rằm.
Lưu Hoành buông câu thơ, bày tỏ chí nguyện cao xa vời vợi, Vương Vinh dâng lời đối, bày tỏ tấm lòng trung trinh theo hầu.
Ở những cặp đôi bình thường, thời kỳ mật ngọt khó mà dài lâu, bởi vì sớm muộn cũng bị chán ngấy hoặc là bị ngoại lực ảnh hưởng.
Nhưng với Lưu Hoành-Vương Vinh thì không.
Kỳ trăng mật của họ kéo dài mãi.
Vương Vinh là nữ nhân xuất sắc nhất mà Lưu Hoành từng gặp, tài năng của nàng
bao quát học thuật đến nữ công, có Hán có Hồ, muôn màu muôn vẻ, khiến
cho Lưu Hoành không biết chán.
Càng khó được là bởi vì Vương Vinh có kinh nghiệm tham dự quản lý gia nghiệp và giao thương buôn bán nên
nàng có thể góp một số ý kiến thanh kỳ mang tính đột phá cho Lưu Hoành
trong việc giải quyết chính sự, cũng không giành công, không khoe
khoang, cực kỳ nhu thuận, trái ngược hoàn toàn với những miêu tả về Đát
Kỷ, Bao Tự ngày trước.
Cho nên mặc dù quân vương không vào triều nhưng mọi việc vẫn nắm trong lòng bàn tay, thậm chí giải quyết có phần
càng suôn sẽ hơn.
Quả đúng với câu ‘thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn’.
Về phần ngoại lực ảnh hưởng đến họ.
Lưu Hoành vốn đã xây dựng hình tượng hôn quân vô đạo từ sớm, đâu có quản
chi thêm chút lời đàm tiếu, từ khi nạp Vương Vinh vào cung, không có một thế lực nào có thể làm ảnh hưởng tới việc riêng của hắn, bao gồm cả Hà
Hậu và thế gia.
Đối với quốc sự hắn có thể vì đại cục mà nhường
nhịn, nhưng về phần tình cảm lứa đôi thì Lưu Chí bật mồ sống lại cũng sẽ bị Lưu Hoành đạp ngược xuống hòm.
Hai người Lưu Hoành-Vương Vinh quấn quýt ăn ý nhau đến mức chuyện tình của họ trở thành chủ đề rôm rã nơi trà dư tửu lậu.
Thậm chí có lời đồn trong chốn giang hồ rằng Lưu Hoành và Vương Vinh đã có
duyên gặp gỡ khi còn bé trong một lần Vương Vinh được dắt theo đoàn buôn của gia đình còn Lưu Hoành thì cải trang vi hành bên ngoài lãnh địa, họ có một thời gian thanh mai trúc mã cùng nhau, sinh cảm tình từ đó, chỉ
là khi ấy nàng không biết thân phận thật của chàng, chàng không biết quê quán gốc của nàng, đến khi ông trời tác hợp cho gặp lại trong cung thì
mới nối lại tiền duyên, cũng đơm hoa kết trái lên một cung bậc mới.
Đúng vậy!
Không biết lời đồn giang hồ có thật hay không, thậm chí có lẽ là do thế gia
tung ra để bêu rếu Lưu Hoành là đồ ‘đi hoang ngỗ ngược từ nhỏ’ và ‘háo
sắc ham thương buôn nữ’ cũng nên.
Nhưng có thể chắc chắn 10 phần là Lưu Hoành sinh chân tình, một thứ xa vời gần như không nên có ở một kẻ như hắn.
Bởi vì Tào Tiết đã từng vô tình nhìn thấy Vương Vinh được cầm lên Hòa thị bích, thay Lưu Hoành đóng dấu chiếu thư.
Phải biết rằng từ xưa vô tình nhất là hoàng tộc, mà trong hoàng tộc thì
hoàng đế chính là chúa của vô tình, thậm chí có thể xưng một câu ‘chí
thượng vong tình’.
Bất kể là Tống Nhu hay Hà Hiền hay những cung
phi khác đều là quân cờ bị Lưu Hoành lợi dụng mà thôi, có đã bị ném bỏ
như Tống Nhu, có sắp bị cho ra rìa như Hà Hiền, còn những người khác thì vừa sinh con trai liền ly kỳ chết mất, hóa điên hóa dại rồi bị tống vào lãnh cung.
Về phần cầm ngọc tỷ đóng dấu thay hoàng đế thì đừng có mơ.
Trong lịch sử có nhưng lúc thịnh thế, không thiếu minh quân dám rộng lượng
trao quyền cho hiền thần phụ giúp phê duyệt tấu chương, đóng dấu chiếu
chỉ.
Cũng có một số hoàng đế nhìn thấu được quy luật đất trời,
không truy cầu trường sinh, ở thời kỳ giáp hạt, nâng đỡ người kế vị,
trao cho thái tử quyền giám quốc.
Nhưng từ xưa đến nay chỉ mới
nghe qua mạt thời hôn quân là dám phân cái quyền vị chí cao này cho hậu
cung, điển hình như Hạ Kiệt-Muội Hỉ, Thương Trụ-Đát Kỷ, Chu U-Bao Tự.
Có lẽ lúc đầu Vương Vinh cũng sẽ trở thành một quân cờ, đợi khi hết giá
trị thì cũng gặp kết cục tương tự như hai người Tống-Hà, hoặc may mắn
lắm thì sống cô quạnh đến già.
Nhưng không biết bằng một duyên
phận nào đó, hoặc có lẽ đúng như lời đồn giang hồ rằng Vương Vinh và Lưu Hoành chính là thiên mệnh chân tình, hoặc có lẽ bởi thái độ phụ trợ hết lòng không cầu danh lợi của Vương Vinh trong thời gian ‘quân vương
không lên triều’,
Lưu Hoành vậy mà trao cho người tình cái quyền hành đủ để làm nghiêng ngã thiên hạ ấy.
Đương nhiên, nói là làm ‘nghiêng ngã thiên hạ’ cũng không phải vấn đề của hai người Lưu-Vương, mà là vấn đề của thế gia.
Từ khi Lưu Bang lập Hán đến nay đã có không ít lần hậu cung can dự chính
sự hoặc buông rèm nhiếp chính, khởi nguyên có Lã Trĩ, gần đây có Đậu
Diệu, chen giữ có không dưới mười lần như thế, tiêu biểu như Hoắc Thành
Quân thời Hán Tuyên Đế và cô cháu Vương Chính Quân-Vương Hiểu Bình thời
tiền Tân Mãng.
Việc này cũng bình thường, các vua nhà Hán hầu như đều ưa chuộng dùng sức mạnh ngoại thích để so găng cùng thế gia, và mấy ổng thường ngỏm củ tỏi khi người nối nghiệp hãy còn nhỏ dại, thế là vị
hoàng tử nhỏ mới lên ngôi cũng cần phải dựa vào thế lực ngoại thích của
mẫu hậu để chấn nhiếp quần thần, diều dắt trãi đường đến khi trưởng
thành.
Vấn đề là mỗi lần như vậy đều ít nhiều ảnh hưởng tới lợi
ích và quyền vị của thế gia, trọng điểm nhớ lâu như Lã Trĩ tru sát công
thần, như Hoắc thị chuyên quyền, và có lẽ sự việc cô cháu nhà họ Vương
là khiến thế gia nhớ lâu nhất.
Hồi đó Vương thị là cây cờ đầu của thế gia, hệt như Viên thị hiện giờ, Vương Mãng càng ghê gớm hơn Viên
Phùng một bậc, quyền khuynh triều dã, đã sớm cấu kết các bên, xây dựng
thế lực cực kỳ vững chắc, chỉ thiếu mỗi cái quy trình ‘thiện nhượng’ cho phù hợp với quy tắc ‘Thiên mệnh’ mà Đổng Trọng Thư đề ra.
Ai ngờ cô cháu họ Vương coi trọng lòng trung thành với họ Lưu hơn ‘gia hiếu’
với họ Vương, không những không thỏa hiệp mà còn quát mắng Vương Mãng,
thậm chí lấy Hòa thị bích ném toác đầu.
Bởi thế mà thế gia mất
đi cơ hội soán Lưu đổi triều, thậm chí còn có một bộ phận không kịp quay cờ sang Lưu Tú, hoặc vì đi quá gần với Vương Mãng mà bị Lưu Tú cự
tuyệt, kết quả là vạn kiếp bất phục, đã mất màu trong dòng sông lịch sử, một chút con cháu lẻ tẻ có lẽ đã trốn chạy đến vùng biên thùy và bị
đồng hóa bởi dân địa phương.
Vậy nên thế gia cực kỳ lo sợ và căm ghét việc hậu cung thiệp chính, căm ghét đến nổi di lưu đến ngoài
triều, xuống địa phương, vào trong nhà.
Cái phong tục trọng nam
khinh nữ thực cũng không phải rất rõ nét ở thời tiền Tần, trong lịch sử
Xuân Thu-Chiến Quốc có không ít nữ tướng quân, nữ học giả, thậm chí nữ
thương nhân, nữ nghệ sĩ, lưu danh với đời.
Chỉ đến sau 400 năm Hán tộ thì cái tập tục trọng nam khinh nữ mới chính thức rõ ràng.
Vậy nên dù sự kết hợp xử lý chính sự của Lưu Hoành và Vương Vinh là tiến bộ trong tư tưởng, nhưng lại đi ngược với thời thế, hay nói cho đúng là
phản nghịch với thế gia.
Thế là những ngày xuân tươi của Lưu Hoành chấm dứt.
Bởi vì Tào Tiết biết thì thế gia biết, thế gia biết lại mượn Hà Hiền làm
đao, thậm chí chính Hà Hiền cũng không ngờ rằng thế gia thâm độc đến độ
cố tình đem chứng cứ giữ lại, chỉ thẳng nàng.
Đến lúc này thì Hà
Hiền lại ngu ngốc cũng biết việc mình rước tay sai của thế gia vào hậu
cung là ngu ngốc đến nhường nào, nàng tung hoành hậu cung 4-5 năm nay
không có một lần để cho Lưu Hoành nắm được chứng cứ xác thực, kết quả
lần này lại bại lộ rành rành như phạm án trước mặt công an.
Nhưng biết thì thế nào?
Lưu Hoành đã nổi khùng!
Cả tòa thành giăng đầy vãi trắng cờ đen suốt trăm ngày, dùng nghi thức
quốc tang đễ tiễn đưa một vị mỹ nhân, đến cả dòng Lạc Thủy phía nam kinh thành cũng ảm đạm u sầu, ảm đạm cho lứa đôi, u sầu cho vận Hán.
Còn tiếng sóng Hoàng Hà phía bắc thì gào thét phẫn nộ như muôn bộc lộ nổi lòng của bậc chí tôn.
Lưu Hoành đã mấy lần muốn phế Hà thị, thậm chí làm thịt toàn bộ nhà họ Hà.
Chỉ là hoạn quan và thế gia đều hợp nhau phản đối, khiến cho Lưu Hoành bơ
vơ một mình, vừa uất ức vì bất lực, vừa căm hận vì đau xót.
Lưu
Hoành cực kỳ khó thở, cực kỳ bực tức, nếu không phải có Tả đạo nhân hỗ
trợ điều khí thì Hán triều chỉ sợ phải sớm tính bề đổi một hoàng đế:
“Hờ … hờ …!
Đã tìm được người thay Hà Miêu chưa?
Hờ … Hờ …!”
Tả đạo nhân vừa nắm tay truyền nội khí vừa xoa lưng Lưu Hoành, khuyên bảo:
“Xin bệ hạ chớ vì kẻ tiểu nhân mà hại thân.
Như thế chỉ khiến kẻ địch vui mừng”
Lưu Hoành gằn giọng:
“Trẫm hỏi!
Đã tìm được người thay Hà Miêu chưa?”
Khác với Hà Tiến, làm quan trong triều, chỉ cần còn bắt tay với thế gia thì
vẫn được thế gia nâng đỡ, cho dù Lưu Hoành muốn hạ bệ hắn cũng cực kỳ
khó khăn, khiến cho Lưu Hoành cảm thấy hối hận như cầm tảng đá tự đập
chân mình.
Hà Miêu thì khác, hắn là Huyền Kính Ty, không liên
quan quái gì tới thế gia cả, ít nhất là ở mặt ngoài, Lưu Hoành đem hắn
ra ngũ mã phanh thây, lăng trì tùng xẻo thì cũng không ai quản được.
Vấn đề khiến cả Lưu Hoành và Tả đạo nhân đau đầu là lâu nay Hà Miêu vẫn giữ vai trò người liên lạc với Trương Giác, một kẻ vừa là địch vừa là bạn,
không tính là minh hữu, chỉ có thể xem là tạm chung mục đích, đều muốn
quật thế gia.
Mặc dù Thái Ung đã rời xa, nhưng bản kế hoạch của
ông và lý tưởng quy tụ lực lượng Hàn môn, bình dân thành đồng minh cho
hoàng quyền vẫn được Lưu Hoành xem trọng áp dụng, thậm chí Lưu Hoành còn nuôi khát vọng khống chế Trương Giác hoặc người nối nghiệp của Trương
Giác, từ đó cuỗm luôn Thái Bình đạo về tay mình.
Sự việc cho đến
hiện nay vẫn xem như tốt đẹp, phái bảo hoàng và Thái Bình Đạo phối hợp
xem như ăn ý, đem thế gia Trung Nguyên quấy nhiễu không thôi, đặc biệt
là ở Hà Bắc, rất nhiều thế gia Duyện-Ký-Thanh đã có xu hướng chịu không
nổi muốn liên hợp làm phản.
Lưu Hoành đang đợi bọn họ ngoi lên rồi hốt gọn đâu.
Hắn thậm chí còn cố tình câu kéo, không xuất toàn lực đánh đuổi người Hồ và các cuộc nổi loạn ở Lương châu và U châu, dùng Thập Thường Thị quấy phá lương thảo hậu cần, bức đám tướng lĩnh lấy phòng thủ làm chủ, chính là
vì bảo toàn quân lực, đợi thế gia bùng ra thì lập tức quay đầu lại đánh
diệt.
Vì không để cho sự việc mất kiểm soát, khiến Khương Hồ nhập quan, Huyền Kính Ty phải hoạt động hết công suất, thậm chí đều không
rãnh quan tâm đến vấn đề Ô Giang hội ở phương nam đến nổi con cờ giấu đã lâu như Tôn thị và Ngô thị đều bị vận dụng để giảm bớt áp lực.
Kết quả, đúng lúc sắp thành thì lại bày ra sự việc Hà Hiền độc sát Vương Vinh.
Tả đạo nhân không biết tâm trạng của Lưu Hoành đảo điên ra sao, là đau
tình hay là đau quốc, nhưng bản thân Tả đạo nhân thì thật muốn chữi mợ.
Từ khi hắn vâng lệnh sư môn rời núi giúp Lưu Hoành chấp chưởng Huyền Kính
Ty đến giờ, hắn vẫn luôn tâm niệm nhiệm vụ chèn ép nho gia hy vọng khang phục đạo gia, trở thành học phái bá chủ của Trung Nguyên.
Thế
nhưng luôn luôn có những sự việc vớ va vớ vẫn xuất hiện cản đường, còn
Huyền Kính Ty thì rõ là cái sàng rách, vá không được, dùng không xong,
chẵng những thường xuyên làm hỏng việc còn hại chết không ít sư huynh đệ tỷ muội của Tả đạo nhân.
Mỗi lần hắn đều phải muối mặt viết thư
xin nhờ sư môn phái thêm môn nhân trợ giúp, tích lũy hơn 10 năm nay, hắn cảm thấy mình đều có thể vắt da mặt ra muối đi bán.
Nghĩ đến sư môn trả giá quá nhiều, Tả đạo nhân lần nữa cắn răng đau khổ khuyên bảo:
“Bệ hạ!
Lúc này thế gia càng hy vọng bệ hạ diệt trừ ngoại thích a bệ hạ.
Ngài càng làm như vậy, bọn họ càng hả hê a!”
Lưu Hoành cũng biết vậy nhưng hắn vẫn cố chấp cãi càn:
“Hừ!
Hả hê?! Hả hê!!!
Trẫm đều muốn phế hậu mấy lần vì sao chúng còn ngăn cản?
Hả hê chỗ nào?!!!”
Đương nhiên là hả hê làm dáng a!
Thế gia cũng không phải luôn luôn đoàn kết một lòng.
Ở vấn đề Vương Vinh thì họ nhất trí muốn nàng chết vì theo họ thì sự tồn
tại của Vương Vinh gây nguy hại đến lợi ích chung của tất cả thế gia.
Nhưng ở vấn đề Hà Hiền thì khác.
Có những thế gia quan hệ gút mắc quá sâu với Hà Tiến, và Hà Hiền, cũng còn nuôi hy vọng khống chế Lưu Biện, nên mới cứu trợ Hạ Hiền một phen vừa
gieo ân tình, vừa chẵng hại gì.
Về phần những thế gia khác, chỉ
cần Vương Vinh chết thì bọn họ đã thắng lớn, đạp Hà Hiền một phen chỉ là thuận chân thôi, được thì tốt, nếu như không được thì thôi, không cần
phải vì vậy mà gây sự với nhóm thế gia thân Hà Hiền.
Thậm chí, ở
một góc nhìn khác, nhóm thế gia thứ 2 đạp Hà Hiền một phát chính là tạo
cơ hội cho nhóm thế gia thân Hà Hiền có thể dang tay cứu nàng, nhờ đó
đạt thành mục đích ‘thân càng thêm thân’, như vậy thì nhóm này còn phải
cám ơn nhóm thứ 2.
Những lý do này Tả đạo nhân hiểu, hắn cũng
biết Lưu Hoành hiểu, bởi vì hắn đã phân tích cho Lưu Hoành ngay từ những ngày đầu tiên khi chứng cứ chỉ thằng Hà Hiền vừa được tìm thấy.
Nhưng điều khiến Tả đạo nhân khó mà chấp nhận là kẻ hắn cho rằng ‘đại trí như ngu’, nhìn thì hôn quân mà thực minh lý, cuối cùng vẫn không thể thoát
khỏi sức mạnh cảm tình, vẫn để nóng giận che mờ hai mắt, căn bản không
nghe lời hắn.
“Được rồi!
Ráng thêm mấy năm xem Trương Giác và Thái Bình đạo có làm nên trò trống gì không.
Lúc đó lại tính”
Nghĩ như vậy, Tả đạo nhân đành im lặng chịu trận, mặc cho Lưu Hoành mắng chữi một phen.
May là hắn rất có tâm đắc với ‘Thanh tĩnh chú’, không đến mức trở tay quật một phát tiễn Lưu Hoành đi gặp Lão Tử luôn.
Lắm lúc, Tả đạo nhân muốn bỏ về núi tu luyện, thậm chí hắn đã tính đường
nếu sư môn phán định hắn phản môn, muốn thanh lý môn hộ, thì hắn sẽ chạy đi phương nam, nương nhờ vào Ô Giang hội, thậm chí Bách Việt.