Mặc dù được đặc cách cho nghỉ nguyên hôm nay nhưng Alexandre lại rất khó chìm vào giấc ngủ.
Không phải vì thời điểm hiện giờ là buổi sáng.
Cơ thể con người vốn không phải máy móc, bất kể sáng tối, hể mệt là phải nghỉ ngơi, phải ngủ, nhất là đối với người lớn tuổi.
Vả lại ngoài trừ Bard, người đã sớm và vẫn đang nằm ngáy o o ngon lành,
thì cả Alexandre và Asiana đều được Lê Phi Yến sắp xếp vào nghỉ ngơi tại khu vực đặc biệt, nơi mà bình thường chỉ dành cho cảnh viên ngầm của
Nhân Dân Tự Vệ Quan hoặc đặc viên của hội đồng.
Vậy nên đâu chỉ
những tinh linh nắng gió nghịch ngợm của tự nhiên khó lòng trêu đùa đến
Alexandre, ngay cả tiếng nhộn nhịp chào ngày mới của các thành viên khác trong trại cũng chẵng đến được đây.
Alexandre khó ngủ là vì xế chiều hôm nay hắn có một cuộc hẹn với vị lãnh tụ trẻ tuổi nọ.
Thời gian quá gấp gáp mà ông lại có quá nhiều điều muốn nói, muốn hỏi, muốn
đề đạt, nhiều hơn rất nhiều những gì ông bộc lộ vào tối qua.
Alexandre xoa xoa hai bên thái dương và mí mắt rồi nhìn quanh.
Trong phòng có bàn làm việc, ở trên đã chuẫn bị sẵn văn phòng phẩm, có đủ
giấy bút và lọ mực có nắp đặc biệt, nghe bảo là sản phẩm mới từ cơ sở
nghiên cứu nào đó ở gần đây.
Lê Phi Yến không giải thích rõ, chỉ
bảo là lọ mực này luôn sẵn sàng để sử dụng, nhưng nhớ là không dùng thì
phải đóng nắp nếu không sẽ mực trong lọ sẽ bị khô vì ‘bay hơi’, một
thuật ngữ khá lạ dành cho mực.
Bút cũng có mấy loại khác nhau.
Thân bút đều mảnh, nhẹ, chắc nhưng không giòn, đôi chỗ có ngấn tròn như thể một chiếc nhẫn đính luồn vào
Chỉ với việc nhấc lên sờ thử là Alexandre cũng có thể khá chắc chắn rằng
chúng hẵn là làm từ cùng một loại vật liệu nhưng ông không biết là đó là gì chỉ đoán rằng hẵn là loài thực vật đặc hữu nào đó của vùng đất này.
Bề ngoài của bút trang trí hoa hòe hoa sói đủ kiểu, màu sắc và họa tiết
bắt mắt gợi cảm, có cây thổi lên hương thanh mát của đồng cỏ rừng cây,
có cây đen tuyền điểm sao sáng như trời đêm huyền ảo, có cây lại mộc mạc giản dị với màu gỗ chen đất, …
Đầu bút thì càng đặc sắc, không chỉ kích thước to nhỏ và màu sắc khác nhau mà chất liệu cũng phân biệt rạch ròi:
Những cây dùng sợi lông mao nằm riêng tựa như một bộ đồ nghề quét sơn của những thợ thủ công Athen chuyên nghiệp;
Một bộ khác thì khá quen thuộc với Alexandre bởi có tâm là một chiếc lông
vũ, chỉ khác ở chỗ có thân bút bao bọc thì tay người viết sẽ khó bị lấm
mực hơn;
Đặc biệt là có một vài cây đầu cứng vót nhọn nhìn như đá
phấn mà theo lời nhắc của Lê Phi Yến thì chúng gọi là bút chì, một sản
phẩm khác của trung tâm nghiên cứu nọ và quan trọng là chẵng cần dùng
mực.
Một trung tâm nghiên cứu quái lạ, vừa cải tiến mực lại còn sáng chế ra một loại bút không dùng mực.
(P/s: Cảnh sát lịch sử chớ bắt lỗi, có thể lên youtube tìm ‘cách làm bút chì
tại nhà’, hoặc ‘homemade pencil’ thì sẽ biết bút chì cũng không đòi hỏi
siêu cấp kỹ thuật.
Khai thác than chì bắt đầu vào cuối thế kỷ 16, cây bút chì đầu tiên được tạo ra năm 1662, cả 2 mốc này đều xảy ra trước
cách mạng công nghiệp 1750.
Nếu còn chưa được nữa thì đó là lỗi của Ô Vũ, không phải của tác, tác không liên quan)
Giấy cũng đặc biệt không kém.
Ông từng nghe thầy kể rằng ở phương đông người ta không dùng cọ papirus làm giấy mà sử dụng một loại phương pháp hoàn toàn khác, không phải rất ưu
tú, chỉ xem như tạm được, so với papirus thì có chỗ hơn có chỗ kém.
Thế nhưng ông không thể ngờ rằng thứ giấy phương đông mình đang sử dụng lúc này lại vượt xa khỏi những mô tả của thầy ông.
Nó chiến thắng papirus trên tất cả các phương diện.
Từ cảm nhận bên ngoài thì chúng trắng bóng hơn, mịn màng hơn, mỏng nhẹ mà
lại dai chắc, và khi viết thì ăn mực hơn rất nhiều so với giấy papirus,
để cho ông, người đang mệt mỏi đến run tay hoa mắt vì thức khuya và tuổi tác, cũng không thể phủ nhận rằng chữ viết của mình hôm nay đẹp hơn
bình thường.
Càng quan trọng là các tờ giấy được đóng lại thành
tập vuông vức ngay ngắn, kích thước mỗi tờ đều tương tự nhau nên rất khó để nhận ra sự khác biệt, bì ngoài cùng làm bằng ván cứng mỏng bọc da,
Alexandre không nghĩ ra một thứ nguyên liệu nào có thể vừa mỏng lại vừa
cứng cáp như vậy nhưng ông đoán chắc rằng chỉ cần lớp bìa này không bị
gỡ ra thì cuốn tập này sẽ có thể được bảo quản rất lâu, trừ trường hợp
gặp phải mối mọt.
Thế nhưng hỡi ơi, ai lại đem một vật quý giá như thế này quăng bừa không coi sóc để gặp phải côn trùng và tự nhiên phá
hủy cơ chứ.
Alexandre thậm chí tự hỏi rằng phải chăng thầy của
mình ngày trước đã quá tự cao và hời hợt khi đưa ra nhận xét có phần quá không khách quan về giấy phương đông như vậy, có lẽ ngày đó các thương
nhân đã không mua giấy đóng tập mà chỉ mua giấy bán lẽ, những thứ dễ
dàng bị biến chất nghiêm trọng sau khi vượt qua chặng đường đầy thử
thách của tự nhiên giữa hai miền đông tây của thế giới.
“Đúng thế,
Thầy ta là một học giả khôn ngoan và đáng kính.
Không thể nói ông ấy hoàn toàn sai.
Ít nhất là ở kía cạnh dễ bảo quản và chống chịu thời tiết tự nhiên thì
giấy này nếu không đóng thành tập hẵn là vẫn thua cho papirus”
Alexandre còn chưa biết được rằng thứ giấy mà ngày xưa thầy ông mua được với giá
cắt cổ từ thương nhân Arsacid chỉ là giấy Thái Luân do hoạn quan ăn xén
tuồn ra ngoài mà thôi, kém hơn nhiều thứ hàng lỗi kỹ thuật trong những
xưởng sản xuất của Lưu Hoành ở Tư Lệ chứ đừng nói là so với giấy Giang
Nam chính hiệu trước mặt ông.
Lắc đầu xua đi những ý nghĩ tản mạn, Alexandre gắng gượng tinh thần, chống đỡ qua cơn buồn ngủ để viết xuống vài dòng, hoạch định một số ý chính cần thiết cho cuộc hẹn vào buổi
chiều.
Nhưng rồi hệ quả của việc thức trắng đêm dần dần đánh gục thân thể có tuổi của ông.
Sau vài lần đung đưa cố lấy lại tỉnh táo, Alexandre bị mất thăng bằng, xuýt nữa thì ngã ngửa ra sau.
Chiếc ghế dựa cao bốn chân mặc dù tạo cảm giác thoải mái khi làm việc nhưng ông mới ngồi được vài lần, vẫn cảm thấy không quen.
Cũng may mà Asiana vẫn luôn bật sáng ý thức chiến đấu, nàng đã được rèn rũa
từ thuở mới tập đi, và giờ đây, sau hơn 20 năm luyện tập thì nàng có thể chụp lấy một hòn đá bắn lén ngay cả khi đang nhắm mắt nghỉ ngơi chứ
đừng nói đến cái tổ hợp loạng chòa loạng choạng của một ông lão hơn 40
và một chiếc ghế 4 chân kỳ lạ.
Một tay vịn lấy vai Alexandre, chân khều nhẹ nhàng đưa chiếc ghế về lại vị trí cân băng, Asiana ngái ngủ nói:
“Cha Alexandre,
Ngủ đi thôi.
Chiều nay có cuộc hẹn quan trọng, đừng nên mang theo tinh thần uể oải và thân thể mệt mỏi đi gặp người khác.
Như vậy thật bất lịch sự!”
Alexandre định từ chối nhưng rồi chợt nhớ tới hình ảnh chú chuột hồn nhiên gặm bánh nướng tối qua, thế là ông mỉm cười gật đầu.
Đột nhiên ông cảm thấy biết ơn, biết ơn vì ông đã bước lên cuộc hành trình
này với họ, biết ơn vì hôm nay hết phòng nên Lê Phi Yến buộc phải xếp
ông với Asiana vào chung chỗ, biết ơn vì một chú chuột ăn vụng đồ ăn,
biết ơn vì loại bút không cần mực và loại giấy đặc biệt mà nhờ đó ông
chẵng phải tốn thêm thời gian chuẫn bị.
Với một tín đồ thành kính như Alexandre, tất cả những điều đó đều ẩn hiện bàn tay vô hình của Thiên Chúa đang chỉ dẫn.
Lời kinh cầu về lòng biết ơn đã đưa ông vào giấc ngủ yên.
----------
Alexandre là người thức dậy sau cùng.
Ông tỉnh giấc khi có tiếng hát nghêu ngao của Bard và kế theo là tiếng la oai oái của cậu chàng vì bị Asiana bóp cổ răn đe.
Hẵn là vậy, những hình ảnh tương tự vẫn thường xuất hiện trong chuyến hành
trình từ Roma đến đây, trừ khi bị mất trí nếu không thì Alexandre không
thể nào quên được.
Điểm khác biệt duy nhất là ngoài trừ tiếng cười hùa của Nguyễn Bảy thì còn có một giọng nữ đang can ngăn hai cô cậu
kia, hẵn là vị nữ trưởng trại đáng mến.
Lê Phi Yến không chỉ đối
xử với mọi người hiền hòa mà còn chu đáo chuẫn bị sẵn một bữa ăn thịnh
soạn mang theo chút phong cách bắt chước từ Roma, theo những lời tán gẫu lúc dùng bữa thì đó là nhờ nàng sớm dựng cổ Nguyễn Bảy rồi lôi hắn
xuống phòng bếp làm hướng dẫn viên.
Hiển nhiên là bữa ăn ấy không
thể nào đem lại mùi vị quê hương cho tổ 3 người vì lý do khách quan là
sự khuyết thiếu về nguyên liệu cũng như công thức, thế nhưng họ đều đồng ý với nhau rằng đây là bữa ăn ngon lành và thoải mái nhất mà nhóm họ có được trong suốt mấy năm qua.
Sau bữa ăn chan chứa lòng hiếu
khách, Lê Phi Yến tiễn đưa họ đến tận chỗ xe ngựa đợi sẵn và rồi một
chuyến đi ngắn ngủi nhưng đầy màu sắc bắt đầu.
Con đường từ trại
Hoa Cải đến thành Trường Sa không ngắn nhưng được cái là vắng người nên
tốc độ di chuyển của xe ngựa cũng khá thong dong nếu không nói là hơi
nhanh.
Khu vực quanh đây vốn đã là vùng được coi sóc nghiêm ngặt,
thậm chí có phần biệt lập, ra vào đều có giám sát, người không phận sự
đều sẽ gặp phải cảnh viên chặn đường điều tra.
Lại thêm hiện thời
là Tết Trung Thu, mọi người dành thời gian cho gia đình người thân là
chủ yếu, có đi ra ngoài thì cũng là vãng cảnh ven sông nước hữu tình
hoặc trong phố phường nhộn nhịp, ai mà rãnh hơi xâm nhập thám hiểm nơi
hoang vắng làm gì để bị tình nghi?
Cũng bởi vậy mà cảnh sắc có
phần hoang vu, hiu hắt, thậm chí có phần lành lạnh, người đánh xe dường
như đã quen thuộc với đoạn đường này, nhiều lần nhắc nhở hành khách của
mình rằng cho dù có sự cố gì cũng phải ở yên trong xe, đội tuần tra rất
nhanh sẽ đến giúp đỡ, nếu như bỏ xe đi lung tung gặp người còn đỡ, loạng quạng gặp trăn rắn cọp beo hoặc độc trùng thì khả năng cao là ngày mai
không thấy mặt trời.
Đối với những nhắc nhở của người đánh xe, chỉ có Asiana và Alexandre là nghiêm túc ghi nhớ, người trước đơn giản là
không muốn phá hủy quy tắc, cũng không muốn làm buồn lòng người phiên
dịch, không ai khác chính là người sau.
Alexandre vừa phiên dịch
vừa cảm thấy khí lạnh chạy dọc sống lưng, ông nhớ lại cách đây 2 tháng
khi họ được đưa đến trại Hoa Cải thì đoàn của họ có chừng trăm người,
bao gồm không ít binh lính hộ vệ trang bị đầy đủ khiên giáp, lại đi vào
ban ngày ban mặt.
Ngược lại với Alexandre, quang cảnh hoang sơ
tươi đẹp của núi rừng dưới ánh chiều tà hiện lên trong mắt Bard như một
bản nhạc du dương và những vần thơ gợi cảm.
Về phần Nguyễn Bảy thì hắn đơn thuần coi thường, mặc dù không sinh ra ở chốn này nhưng thời
gian ở Trường Sa của hắn cũng khá dài, tính đâu ra đấy cũng gần 10 năm.
“Nơi này mà còn cọp beo trăn rắn gì nữa.
Ngày xưa công tử trả giá cao làm phước, cánh thợ săn Sơn Việt sớm đã làm thịt hết ráo thú dữ rồi còn đâu”
Nghĩ vậy nhưng Nguyễn Bảy cũng không nói ra, hắn cho rằng những lời đồn thổi của người đánh xe không phải ngẫu nhiên, hẵn là để hù dọa người thường
và gián điệp phe địch.
Xe ngựa nhìn thấy thành Trường Sa là lúc
sắc trời đã nhá nhem chập tối, từ phía xa bên ngoài thành đèn đóm dâng
lên lóa mắt kéo dài đến tận hào nước dưới chân tường thành, trên đầu
tường thành cũng giăng đèn san sát, sáng rực cả một khoảng trời.
Tại vị trí đỉnh đồi cao xa hướng mắt xuống trông, tựa như hàng đàn tinh tú đang xoay vần chung quanh trăng sáng.
Người đánh xe lên tiếng nhắc nhở mọi người về một số quy tắc giao thông trong thành rồi ghì ngựa giảm xuống tốc độ.
Bánh xe lửng thửng trườn tới gần chốn đông vui, ở đó có những hàng quán bán
đủ thứ từ đồ ăn thức uống đến sản phẩm thủ công mỹ nghệ, ở đó có già trẻ gái trai tay trong tay nô nức dạo quanh, ở đó còn có những lều sạp tổ
chức vui chơi đang chuẫn bị mở cửa đón khách, ở đó bầu không khí vừa
tưng bừng đông vui mà cũng ngay ngắn trật tự.
Nó tạo cho Alexandre một cảm giác khó tả bởi vì ngoại trừ lễ diễu hành trong đấu trường
Colosseum, mồ chôn của các anh chị em tín hữu, thì ông chưa từng gặp qua một cảnh tượng giàu sức sống như hiện giờ.
Với chàng du ca Bard,
người từng trãi nghiệm không khí hoa lệ ở các thành phố Roma vào mùa lễ
hội, thì đó là sự kết hợp hoàn mỹ giữa buổi lễ đăng quang hào nhoáng của bạo quân tự kỷ Commodus và ngày lễ tôn vình chí cao thần phụ,
Saturnalia, thời điểm mà nô lệ có thể được chủ nô đối xử bình đẳng như
một công dân tự do.
Asiana không có loại cảm nhận quái đản đối
nghịch nhau như 2 ông kia bởi nàng đã sớm quăng đi lớp vỏ ngoài vạn năm
nghiêm túc để hết thò cổ ra khỏi cửa sổ trái lại chui đầu ra ngoài cửa
sổ phải, hớn hở ngó nghiêng khắp chốn mọi phường.
Nếu không phải
người đánh xe sớm nhắc nhở trước và đến giờ vẫn còn liên tục lải nhải
thì có lẽ cô nàng đang hồi xuân này đã sớm nhảy xuống xe để xin một vé
về thời bé con, ngày mà người Amazon vẫn còn được Rome cho phép đến
Olympus tham dự thần vận hội.
Cảnh tượng nô nức đông vui là thế
nhưng khi đến sát lại thì những hành khách trên xe ngựa phát hiện một
điều lạ kỳ là người ta chỉ ra vào thành qua cửa nhỏ và đường thuyền từ
bến cảng, còn con đường bộ chính dẫn vào thành lại cực kỳ trống trãi,
tuyệt nhiên không có ai chen ngang vào.
Điều này khiến cho chiếc
xe ngựa của họ trở nên có phần đặc lập độc hành chẵng giống ai khi nó
tiến thẳng vào con đường trống trãi ấy, Asiana cũng nhanh chóng rụt cổ
vào lại trong xe khi phát hiện xung quanh có vài đứa bé chỉ về này bàn
tán.
Binh lính ở trạm gác dường như đã được thông báo trước, cử ra một đội binh lính 6 người hộ tống xe ngựa vào thành.
Qua lớp rèm he hé, Asiana thấy dọc theo hai bên đường dựng lên hai hàng trụ đèn thẳng đều nối từ trạm gác đến tận cổng thành, ngay cả trên cầu treo bắc qua hào bảo vệ cũng giăng đèn sáng loáng, mỗi trụ đèn đều có binh
lính đứng gác giữ gìn trị an, thi thoảng họ tụ thành tốp 5 tốp 3 bên một bàn ghế chất đầy đồ đạc linh tinh.
Asiana bất chợt nhìn thấy một
đôi nam nữ trung niên dắt theo một bé gái đang khóc lại chỗ bàn binh
lính tụ tập, họ nói chuyện gì đó rồi rời đi để lại bé gái.
Lúc này tiếng Alexandre vang lên, ông vừa mới hỏi thăm gì đó từ người lái xe:
“Đây là quy định mới ban ra hồi năm ngoái để đề phòng giặc cướp nhân dịp lễ hội tiến đến phá rối.
Dường như năm ngoái phía bắc có chiến loạn rất lớn, đôi lúc có kẻ xấu trà trộn đến nơi này.
Họ chừa trống con đường này chủ yếu là để thuận tiện điều động quân lính và sơ tán bình dân ra vào thành”
Gặp không khí trong xe giống như chùng xuống, tiếng nói của người lái xe lại vang lên:
“Mọi người cứ an tâm, Liêu Hóa sớm đã bị đánh chạy, có người nói bị Trương
Tướng Quân bắt giết, có kẻ bảo chạy đến Thanh Châu, nói chung là Kinh
Tương bây giờ an bình lắm”
Toàn tên riêng, Alexandre cũng chịu, Nguyễn Bảy phiên dịch hộ:
“Ổng nói bọn cướp đã sớm thua chạy rất xa, thủ lĩnh của chúng nghe nói đã chết hoặc trốn đến Thanh Châu.
Thanh Châu ở đông bắc, cách nơi đây gần ngàn mille”
(P/s: Roman mille = dặm La Mã = 1 479 m International mile = dặm SI = 1609.344 m.
May mà giáo dục phổ thông dùng hệ SI cơ bản.
Chỉ riêng wiki đã liệt kê ra khoảng 20 đơn vị mile khác nhau, học sinh mấy nước đó đi thi olympic toán lý chắc hơi khổ)
Bởi vì đường trống, cổ xe ngựa không mất nhiều thời gian để vào đến trong
thành, cũng là nơi mà hiện ra trước mắt họ mới thật sự là một bức tranh
hoa lệ, bài ca hoành tráng, hoặc giả, là không có lời nào mô tả hết được sự bất ngờ đến có phần choáng ngợp của những vị khách đường xa.
Bắt đầu với thân phận sơn tặc, sau đó trà trộn vào đoàn người di dân, rồi
chuyển sang thành phần bất ổn cần đi cải tạo, tổ 3 người chưa từng được
chứng kiến những đường nét tuyệt mỹ xa lạ trong thành thị phương đông.
Thậm chí không chỉ họ mà ngay cả Nguyễn Bảy cũng phải giật mình bởi Trường
Sa không thể nói là khoác lên quần áo mới mà phải nói là thay xương đổi
thịt.
Nó trở nên sầm uất, trù phú, hoa lệ và đặc biệt là quyến rũ
hơn bất kỳ một tòa thành nào dọc khắp hành trình đông tây rồi lại tây
đông của hắn.
Nguyễn Bảy không biết rõ quy mô dân số và diện tích
của Trường Sa hiện tại thế nào nhưng hắn tin chắc rằng chỉ cần đủ người
vào ở thì nó tuyệt đối sẽ vượt qua Lạc Dương, Rome hay Dhanyakataka
trong trí nhớ hắn.
Cổ xe ngựa lăn bánh qua những kiến trúc mới lạ
trộn lẫn Việt, Hán, Thái, Miêu, và nhiều nhiều nữa đến nổi người bản địa như Nguyễn Bảy đều nói không rõ.
Đường phố thì sạch sẽ tươm tất
cứ như thể đâu đâu cũng là cửa nhà quan, dòng người ngược xuôi trên
đường tuy xô bồ nhộn nhịp nhưng rất ít gặp phải cảnh xô đẩy lấn lướt
nhau.
Khắp phố phường giăng đèn kết hoa với đủ các phong cách sắc
thái khác nhau, có hình thù đơn giản trừu tượng vừa nghiêm trang vừa vị
cổ kính, có uốn lượn thanh thoát tao nhã tạo màu sắc tự nhiên, cũng có
những đèn hoa mô phỏng theo động vật nhỏ và các nhân vật kỳ lạ tăng thêm phần sinh khí cho lễ hội.
Đi kèm với những sắc hình bắt mắt là
tiếng cười nói hân hoan phủ khắp thị thành, trong nhà ra ngoài ngõ, hẻm
nhỏ vào đường lớn, trên những thuyền lâu và trên những lầu cao.
Có thể nghe ra tiếng trẻ con nô đùa, xen lẫn giọng trách yêu ồm ồm mà trầm ấm của các cụ già, đám thanh niên nam nữ cũng cởi mở reo ca tựa như
chim oanh chim yến gọi bầy.
Lụa là gấm vóc tuy không phải chủ lưu
nhưng tuyệt nhiên chẵng nhìn thấy cảnh nhếch nhác lem luốc, ngoại trừ
một vài quầy chưng màu nước vẽ tượng, nơi một vài kẻ tinh nghịch vừa mới quết hoa văn lên mặt bạn mình.
Ngay cả những hàng quán đồ ăn nổi
lửa khử dầu thơm phức ven đê sông cũng xa xỉ tặng kèm cho khách giấy bao và giấy ăn để họ không bị dầu mỡ lấm lem vào người.
Điều này gây
chấn động nhất với Alexandre, người biết giấy quý đến mức nào, đặc biệt
là sau khi mới cảm nhận giấy Giang Nam vào buổi sáng nay.
Hành
khách trên xe, bao gồm cả Nguyễn Bảy, đều không tin nơi này chẵng có ai
nghèo khó, nhưng quả thật là dù họ có căng mắt ra nhìn cũng chẵng thể
khẳng định chắc chắn đâu là kẻ bần cùng trong đám đông nhộn nhịp.
Phú quý có lẽ chẵng thể bao trùm tòa thành này nhưng sức sống thì có.
Nó như một thứ nước hoa êm dịu mà cũng nổi trội, lan tỏa theo gió mát, ánh sáng và tiếng nói cười đi khắp cả Trường Sa, trang bị tòa thành và con
người nơi đây bộ khí giới hùng mạnh của văn minh.
Ma nghèo quỷ đói hẵn là vì thế mà đã bị đuổi chạy xa.
Dường như những khoảnh khắc đẹp thì đều trôi qua nhanh.
Khi mắt còn chưa nhìn đã, tai chưa nghe đã, mũi chưa ngửi đã, các giác quan đều chưa thỏa mãn, thì xe ngựa đã dừng lại ở điểm đến cuối cùng,