Nhận lệnh từ Lưu Hoành, 8 doanh Tây Viên chia làm 2 nửa.
Tào
Tháo- Viên Thiệu- Viên Thuật- Thuần Vu Quỳnh đi theo quân đội của Hoàng
Phủ Tung bắt đầu tiến hành vừa đánh vừa đẩy, xua đuổi tàn quân Khăn Vàng Duyện Dự đến Từ Châu.
Triệu Dung- Phùng Phương- Trương Mạc- Tang Hồng thì chỉnh đốn ổn định hàng quân Khăn Vàng tại Trường Xã, chờ đợi
vị Trung Doanh Giáo Úy mới là Hoàng Hùng đến chỉ huy.
Lưu Hoành hiển nhiên không bố trí bừa:
Tào Tháo và Thuần Vu Quỳnh là để giám thị và kiềm chế Hoàng Phủ Tung, 1
người là Thiên Cương của Huyền Kính Ty, 1 người thì có hiềm khích với
Hoàng Phủ Tung.
Anh em họ Viên thì là để bị Hoàng Phủ Tung kiềm
chế vì giữ họ lại Trường Xã thì Lưu Hoành sợ Hoàng Hùng tay non, quản
không được, mà thả bổng ra thì lại sợ 2 tên ấy phá rối.
Triệu
Dung, Phùng Phương khỏi phải nói, con cháu Thập Thường Thị, chính là tay trái, tay phải mà Lưu Hoành chuẫn bị sẵn cho Hoàng Hùng, vừa để hỗ trợ
cũng đồng thời để giám sát.
Trương Mạc có tiếng trượng nghĩa,
Tang Hồng là môn sinh của Trần Cầu, đều không thích hợp đi theo Hoàng
Phủ Tung nhằm vào Từ Châu Trần thị, thả bổng ra ngoài lại sợ họ tự ý xen vào việc của người khác, cứu giúp đám thế gia Duyện-Dự, làm giảm thiểu
thiệt hại của kẻ địch.
Mưu tính ngon lành cành đào là vậy nhưng
đời không như mơ, hoặc có lẽ do khí vận của Lưu Hoành-Lưu thị-Hán triều
cũng không to lớn như hồi Lưu Tú nắm quyền, dẫn đến việc ngoài ý muốn
liên tiếp nảy sinh.
Trương Lương thua chạy về Nhữ Nam, lần nữa vẫy cờ Nhân Đạo Tướng Quân, tụ tập được 7-8 vạn Khăn Vàng.
Trong đó chủ yếu là lực lượng từ Nam Dương cừ soái Hà Nghi và em trai Tân Dã
đại vương Hà Mạn, Kinh Sở cừ soái Liêu Hóa, Lư Giang cừ soái Cung Đô và
Bành Thành cừ soái Lưu Tích.
Bởi vì đời sống ở Kinh Châu và Dương Châu tốt đẹp, hầu như không có bình dân đi theo Khăn Vàng, cho nên
ngoài Lưu Tích thì đám thủ lĩnh Khăn Vàng còn lại mang đến toàn là giặc
cướp và lưu manh.
Hiển nhiên đám này cũng không chống nổi quân
binh tinh nhuệ của Hoàng Phủ Tung, thế nhưng giặc cướp giỏi nhất chính
là đánh du kích, đánh không lại thì chạy vào núi rừng đầm bãi trốn
tránh, thỉnh thoảng ngoi đầu ra cắn một phát lại chạy, chờ tướng lĩnh
triều đình lơ là thì đặt bẫy mai phục lấy quân số đè người.
Quân
của Hoàng Phủ Tung tưởng rằng có thể tiến quân như chẻ tre, ai ngờ mới
đi được nửa đường đã sa lầy, mặc cho lão tướng dày dặn kinh nghiệm loay
hoay xoay sở cũng không tài nào bứt ra khỏi chiến trường Dự Châu, cuối
cùng vậy mà nghe theo anh em họ Viên, lựa chọn đóng quân tại di chỉ củ
của thành bảo Viên thị tại Nhữ Nam.
Không thể không nói, ánh mắt
của các đời tổ tiên Viên thị không kém, vị trí địa lý nơi này thoáng
đãng rộng lớn, rất phù hợp làm kinh đô cho triều đại mới, quân Khăn Vàng không có khả năng chơi chiến thuật cắn lén ở đây, chỉ có thể cường
công, mà nếu Trương Lương dám làm vậy thì quá hợp ý Hoàng Phủ Tung lúc
này.
Nhưng Hoàng Phủ Tung chưa vui được lâu thì Trương Bảo đã hội hợp với Quản Hợi ở Thanh Châu, mượn được một đám người hung dữ từ bầy
tặc Thái Sơn, lần nữa quay lại Duyện Châu tác quái, một đường đánh tới,
hướng thẳng về Trường Xã, rõ ràng có ý muốn phối hợp với Trương Lương để bọc đầu Hoàng Phủ Tung.
Dưới áp lực tình thế, Hoàng Phủ Tung
dùng cờ Tiết Chế, cưỡng ép đi ngược lại với sách lược của Lưu Hoành,
trao quyền điều binh độc lập cho Tào Tháo, Viên Thiệu, Viên Thuật, Thuần Vu Quỳnh, Chu Tuấn và Tôn Kiên, mệnh lệnh họ quay lại Duyện Châu chống
đỡ.
Bởi vì đám người Tào Tháo mượn cớ Tây Viên trước đây bị tổn
thất khá lớn, mà Chu Tuấn và Tôn Kiên thậm chí chỉ còn vài ngàn người,
thế là Hoàng Phủ Tung đồng ý bọn họ tự mình bổ sung binh lực, bất kể là
chiêu mộ trong dân hay chiêu hàng phản tặc, hiển nhiên là khí giới phải
tự lo, lương thảo thì đi hỏi Hoàng Hùng đi.
Lưu Hoành rất có ý
kiến đối với việc này, nhưng hắn thật đúng là sợ Hoàng Phủ Tung bị Khăn
Vàng làm thịt hoặc nhốt lại, đến lúc đó thế gia chưa diệt thì Hổ Lao đã
bị công hãm, Lạc Dương nguy ngập, cơ đồ tổ tiên chỉ sợ phải sập trong
tay hắn.
Cuối cùng Lưu Hoành chỉ có thể phát ra mấy điều lệnh
không đau không ngứa khiển trách xuông Hoàng Phủ Tung, đồng thời kêu gọi Trương Ôn gấp rút chỉnh đốn binh lực, đông tiến hộ giá.
Chiếu
lệnh đến Uyển Thành kỳ thực cũng vô dụng không kém mấy điều lệnh tới Nhữ Nam, bởi vì tinh binh Quan Trung dưới tay Trương Ôn đều đã bị điều động đi Hà Bắc giúp Lư Thực, dưới trướng của hắn thuần một màu xanh non của
lính mới, mỗi việc phòng thủ Kinh Châu cũng phải nhờ sự hỗ trợ từ thế
lực bản địa như Giang Nam 3 minh hội và Nhân Dân Tự Vệ Quân, nào có dư
thừa sức lực đi trợ giúp chiến trường phía đông.
Bí nước, Lưu Hoành cuối cùng cũng hạ quyết tâm, mệnh lệnh Lư Thực lập tức tiêu diệt Trương Giác.
Tuy nhiên, mục đích chèn ép thế gia của Lưu Hoành có lẽ đã cơ bản đạt thành nhưng mục đích chờ đợi Khăn Vàng bước vào kỳ suy yếu của Lư Thực vẫn
chưa đạt thành.
Khăn Vàng mặc dù không lao động sản xuất, cũng
không cướp đoạt được bao nhiêu từ những thế gia lão đại, nhưng nguồn dự
trữ lương thực của Khăn Vàng kỳ thực hãy còn rất nhiều.
Một phần là bởi hoạt động trao đổi ở Tế Nam năm ngoái có chút quá tay do sự trợ giúp của ai đó.
Một phần là bởi chính Trương Giác cũng đã tích xúc từ lâu lắm rồi, lâu đến
độ một bộ phận lương thực đã hóa nâu đen, trâu bò lợn chó dù chê nhưng
những người cuồng tín sắp chết vẫn miễn cưỡng nhai nuốt được.
Lực Sĩ Khăn Vàng chính là ăn những bữa cơm cuối cùng từ loại lương thực ấy để tiết kiệm quân lương.
Hiển nhiên, Trương Giác không nói thật mà đem thứ ấy nói láo là gạo tiên,
lời nói của Đại Hiền Lương Sư được đám giáo chúng tầng dưới tin sái cổ,
thậm chí có kẻ tranh nhau vỡ đầu để được hưởng thụ.
Đó là bởi
lương thực của đám bình dân xưa nay đều bị thế gia, ác bá và triều đình
đoạt cả, ăn còn không đủ no thì làm sao biết được lương gạo mốc mục nó
như thế nào; cho dù thi thoảng có ác thương và thế gia xấu đem gạo cũ ra bán nhưng tối đa cũng chỉ cũ từ 6 tháng đến hơn 1 năm mà thôi; nào
giống như Trương Giác, giấu lương 5-10 năm còn chưa bị bọn chuột mọt gặm sạch, đúng là thần kỳ.
Kẻ nghèo đói khốn cùng coi bát cơm to hơn như bầu trời!
Câu này có lẽ không hoàn toàn đúng nhưng áp dụng lên những kẻ đội Khăn Vàng trên đầu thì gần như không có ngoại lệ bởi họ được Trương Giác nuôi úm
quá kỹ cả về dã dày lẫn đầu não, thành ra mặc kệ tin chiến bại ở Trường
Xã truyền lan thì họ vẫn vô cùng hùng hổ, khí thế chẵng suy giảm bao
nhiêu.
Mà ngược lại, áp lực đặt lên Lư Thực ngày một lớn hơn,
thậm chí nếu không phải lão này xuất thân Nho môn chính tông, tự bảo
dưỡng phong độ, thì đã chữi má Lưu Hoành.
Tất cả là bởi vì chiếu
lệnh bố cáo thiên hạ chiêu gọi nghĩa sĩ chống Khăn Vàng mà Lưu Hoành ban cho lúc trước đã được thế gia Hà Bắc vận dụng nhuần nhuyễn, và bắt đầu
phát huy tác dụng.
Nếu như lệnh này giao cho riêng Tiết Chế Lư
Thực thì cũng thôi đi, nhưng lại công khai ban phát tràn lan vào tay đám thế gia ích kỷ chỉ vì để đạt được một chút lợi ích chính trị nơi trung
ương.
Thế là ổ bảo và hương trấn có cường hào địa phương và nhân
sĩ võ lâm tham gia phòng thủ, một số nơi thậm chí biến thành mồ chôn
Khăn Vàng, ngay cả Trình Viễn Chí cũng xuýt nữa chúi đầu trong tay một
tên bán đậu, từ đó khiến cho Trương Giác không thể không đem binh lực
quy tụ cả về chiến trường chính, tạm thời từ bỏ sách lược xé lẻ cướp
lương từ thế gia cường hào.
Thế nhưng hầu hết cường hào và võ lâm nhân sĩ chỉ hưởng ứng lệnh bố cáo vì có thế gia trả tiền thuê, hay nói
cho đúng là lệnh bố cáo của Lưu Hoành chỉ có tác dụng như tờ rơi quảng
cáo kiêm giấy chứng nhận đâm chém hợp pháp, chứ không phải công văn
chiêu mộ, hay lệnh mời gọi tòng quân.
Thành ra Lư Thực đến giờ vẫn chả sơ muối được tý gì, binh lực không tăng bao nhiêu.
Kết quả là tuy tình hình chiến sự suy giảm, phạm vi lửa cháy ở Hà Bắc co
lại, nhưng chênh lệch lực lượng giữa Trương Giác và Lư Thực lại kéo
căng, cho dù có viện binh từ Quan Trung tới cũng không bù đắp nổi.
Vì thế, lão tướng Lư Thực nhận được mệnh lệnh tiến binh của Lưu Hoành thì
không cho là đúng, mượn quyền Tiết Chế, cưỡng ép đè xuống.
Lưu Hoành phát hoàng lệnh không được, lại đưa mật tín.
1 lệnh, 2 lệnh rồi 3 lệnh, 1 tin, 2 tin rồi 3 tin, mà quân triều đình vẫn cứ án binh bất động.
Về phần Trương Giác thì bởi vì chờ đợi Hoàng Hùng, sợ rằng nếu giao chiến
thì có thể xuất hiện tình thế biến hóa, không thể khống chế, vậy nên
cũng án binh bất động nốt.
Chiến thắng Trường Xã của Hoàng Phủ
Tung dù không tác động bao nhiêu tới đám giáo chúng nhưng bản thân tay
giáo chủ lại bị ảnh hưởng nặng, sinh ra một nổi lo sợ rằng mình không
phải đối thủ của Lư Thực.
Thế là Khăn Vàng không chỉ không tiến
binh giao chiến mà còn không ngừng cũng cố doanh địa phòng thủ, Trương
Ninh Nhi thì mỗi ngày đều giả làm Trương Giác lên đài quan sát để thăm
dò trại địch, đồng thời cổ vũ sĩ khí quân tốt.
Lư Thực thấy Trương Giác thay đổi sách lược cũng sợ có điều lừa dối, thế là cũng ngày ngày lên đài quan sát nhìn sang.
Tình hình này khiến cho không chỉ mỗi Lưu Hoành mà cả đám thế gia cũng đều phải lau mắt nhìn, không rõ vì sao.
Phải biết Hoàng Phủ Tung vừa mới đại phá Khăn Vàng Trường Xã, bây giờ lại 1 mình độc chiến 2 Trương, đánh nhau túi bụi.
Vậy mà người được kỳ vọng hơn cả Hoàng Phủ Tung là Lư Thực không chỉ không
thể sớm kết thúc chiến tranh lại còn ‘mắt đưa mày lại’ với Trương Giác,
mỗi ngày nhìn nhau từ hai bên doanh trại tựa như Ngưu Lang-Chức Nữ hai
bên bờ sông Ngân.
Lực lượng Huyền Kính Ty ở Hà Bắc vốn đã suy
giảm nghiêm trọng, lại bởi chiến hỏa lúc đầu diễn ra liên miên khiến họ
co cụm về phần đất nằm trong quyền kiểm soát của Lư Thực, thành ra không thể giúp Lưu Hoành nắm rõ tình hình thực tế.
Lưu Hoành căn bản
không biết thế cục này có một phần lỗi do hắn và thế gia, thế là bắt đầu sinh ra nghi ngờ đối với lòng trung thành của Lư Thực, thậm chí cho
rằng Lư Thực muốn nuôi giặc để tự lập, chưởng khống binh quyền, ý đồ
soán ngôi hắn.
Việc này nói cho cùng cũng không thể trách Lưu
Hoành hoàn toàn, từ xưa đa nghi đã là bệnh của kẻ nắm quyền, nhất là
trong thời cổ đại phong kiến này, truyền thống lịch sử tranh đấu ở Trung Nguyên từ thuở Công Tôn Hiên Viên đến nay đều gắn liền với lừa gạt tráo trở, cho nên tội của Lưu Hoành có 1 nửa là tội nghiệp, 1 nửa còn lại
mới là tội nghiệt.
Mà ở phía Lư Thực thì cũng quá mức bộc trực
thẳng tính, trước đây từng không ít lần khuyên Lưu Hoành giao binh quyền vào tay những võ tướng bảo hoàng dày dặn kinh nghiệm như hắn để dùng vũ lực kèm cặp, trấn áp thế gia.
Bất kể thiện ác đúng sai thế nào, dòng chảy thời gian vẫn tiến về phía trước không bao giờ dừng lại.
Sau khi hoàn tất chỉnh đốn binh lực tại Trường Xã, Hoàng Hùng dẫn quân vào
Nam Dương hỗ trợ Trương Ôn bình dẹp Khăn Vàng ở đây nhằm làm sạch sẽ
thông thoáng còn đường vận chuyển hàng quân.
Ngày mà Hà Mạn bêu
đầu, Tân Dã rơi vào tay Hoàng Hùng, Nam Dương chính thức sạch sẽ, cũng
là lúc Trung Thường Thị Tả Phong hộ tống xe tù chở Lư Thực về Lạc Dương
chịu tội.
Hoàng Hùng nghe cấp dưới báo lại, khi Lư Thực bị giải
đi thì trong đám nghĩa sĩ võ lâm hiếm hoi tụ tập dưới cờ triều đình xuất hiện một người tự xưng là học trò của Lư Thực, mang theo hai kẻ võ dũng lạ thường ý đồ chặn xe cướp tù, Tả Phong bị đập xưng mặt xưng mũi.
Sau được Lư Thực khuyên lui thì người ấy quỳ xuống khóc lóc sướt mướt như
Mạnh Khương khóc Trường Thành, một mực hộ tống xe tù của Lư Thực đến tận cửa thành Lạc Dương mới nghe lời Lư Thực mà quay lại Hà Bắc tham chiến.
Không biết vì lí do gì mà Lưu Bị đến giờ vẫn chưa có chữ, Lư Thực cảm động
lòng hiếu của học trò nên lấy danh nghĩa đại nho, ban tặng hai chữ Huyền Đức ngay tại trước cửa thành Lạc Dương.
Việc này đã truyền khắp
Lạc Dương và bắt đầu lan sang những vùng khác, nhận được rất nhiều tán
thưởng và ca tụng từ đám lão Nho và phái quân võ, bao quát 2 người quen
của Hoàng Hùng là gia chủ của Khổng gia, Khổng Dung, và mới đây là phó
tướng của Trương Ôn là Đào Khiêm.
Hoàng Hùng nghe vậy chợt có cảm giác tình cảnh này có chút hiềm nghi ‘mua danh chuộc tiếng’ giống như
mình hồi Văn hội Trung Thu mấy năm trước đây.
Nhưng khi hắn đào
sâu hỏi thêm lại chẵng biết được bao nhiêu về kẻ tên Lưu Bị này bởi tên
ấy trước kia không có danh tiếng gì, Hà Bắc lại vừa trãi loạn lạc, hiện
giờ tuy tạm ổn nhưng cũng đang lửa nóng, khó mà truy tra được mấy.
Tuy vậy, khác với Lưu Hoành, khí vận của Hoàng Hùng ngập trời, mỗi hành
động đều có ý chí của thế giới nhòm ngó, thế là chẵng bao lâu sau thì
hắn gặp được sử giả do Trương Giác cử đến, lúc này mới biết kẻ vô danh
kia đúng là không phải người tầm thường.
Vị sứ giả nọ đến từ Trung Sơn, cùng quê với Lưu Bị.
Theo lời hắn thì Lưu Bị xuất thân bình thường không có gì lạ, tổ tiên kinh
thương nhỏ, đến đời ông nội từng mượn danh nghĩa Hoàng thất để được cử
Hiếu Liêm, rồi táng cả gia sản cầu một chức Huyện lại nho nhỏ, không
tính tàn ác nhưng cũng tài năng bình thường, cuối đời vừa leo lên tới
Huyện Lệnh thì mất.
Cha Lưu Bị số yểu, vừa sinh ra hắn thì mất, Lưu Bị sống được vài năm sung sướng dưới sự bảo bọc của ông hắn rồi gia cảnh sa sút.
Người đời có câu [ Nghèo thì học văn, giàu thì học võ], Lưu Bị từ giàu rớt
xuống nghèo thì đâm ra có chút khác người, hắn … bất học vô thuật, suốt
ngày lêu lổng!
Lưu Bị nửa chữ khó nuốt, cầm sách là ngủ, trời sinh tráng kiện lại cũng không siêng rèn luyện.
Thế nhưng hắn cực giỏi giao du kết bạn, cực giỏi mua chuộc nhân tâm.
Lưu Bị lúc nhỏ thường kết phường với đám trẻ quậy, làm tiểu đại vương, lớn
lên thì ưa kết giao từ giang hồ võ lâm đến phú thương sĩ tử, bất kể xuất thân, không luận ngành nghề.
Kiến thức của Lưu Bị cũng phần
nhiều đến từ những mối quan hệ này, nghe nói từng được một tay đạo sĩ
giang hồ chỉ dạy môn song kiếm, không tính ghê gớm gì nhưng cũng đủ
phòng thân trong thời loạn.
Năm lên 17, tới tuổi xin chữ, Lưu Bị
kết bạn với Liêu Đông Bạch Mã Công Tôn Toản lúc ấy còn là anh Hàn Môn
nghèo, cùng đến cầu học ở chỗ Lư Thực.
Nhưng Lư Thực là đại nho
đương thời, trong bầy học trò không quyền thì thế, không sang thì quý,
phần đông đều nhiễm nặng tư tưởng hủ Nho, đều không quá ưa thích Lưu Bị
và Công Tôn Toản.
Lưu Bị thường tự xưng đời sau của Trung Sơn
Tĩnh Vương, nhưng bởi vì tài năng bình thường, lại nghèo mạt rệp nên
không được đồng môn chào đón, Công Tôn Toản cũng bởi vì háo thắng nóng
nảy, có tật vũ phu mà bị xa lánh.
Thế là 2 người vì cùng cảnh ngộ mà từ thân sơ biến thành huynh đệ, nhân lúc Lư Thực bận bịu việc công,
liền mượn cớ trong nhà có mẹ già, con nhỏ, đồng thời rời đi.
Lưu
Bị lấy nghiệp đan cỏ bán dép, nhập vai làm nhân sĩ võ lâm, ngồi lê khắp
miền Ký-U, đến đâu cũng có thể bằng vào tài ăn nói để kết giao bằng hữu, kiếm miếng cơm ăn, mẹ già ở nhà thì gửi người phú hào đồng hương là Lưu Nguyên Khởi chăm sóc.
Không biết do Lưu Bị nhân nghĩa trùm trời
hay do hắn có tài mê hoặc nhân tâm, Lưu Nguyên Khởi không chỉ chu cấp
tiền bạc mà còn để đứa con trai duy nhất của mình là Lưu Đức Nhiên nhận
mẹ của Lưu Bị là mẹ, hứa chăm sóc phụng dưỡng khi Lưu Bị đi xa.
Sứ giả thở dài xúc động, nói tiếp:
“Bẵng đi một thời gian, đến năm ngoái, Đại Hiền Lương Sư có cơ duyện gặp được Lưu Bị.
Nghe Lương Sư nói hắn rất thưởng thức Lưu Bị, nguyện dùng chức vị cừ soái để mời gia nhập nhưng Lưu Bị không đồng ý, lại lấy cớ mẹ già không phụng
dưỡng mà rời đi.
Sau khi Lưu Bị rời đi, Lương Sư từng nhiều lần than tiếc!
Gần đây Lưu Hoành ban bố chiêu nghĩa lệnh, Lưu Bị cũng hưởng ứng, dùng danh tiếng của Lưu Nguyên Khởi, kêu gọi đồng hương được hơn 500 người lại có giang hồ bằng hữu là Trương Thế Bình và Tô Song quyên cả gia tài sung
làm lương thảo, chỉ thiếu khí giới.
Chiến sự ở tiền phương không
thông, Lương Sư mệnh Trình Cừ Soái mang theo 3 vạn người lui về hậu
phương, cướp đoạt kho lương của triều đình.
Lưu Đức Nhiên lúc này đã là Huyện Thừa, nhân lúc Huyện Lệnh và Huyện Úy bị Trình cừ soái đánh giết thì mở kho binh khí tặng hết cho Lưu Bị.
Lưu Bị không biết
từ đâu tìm được 2 kẻ võ phu dũng mãnh gọi là Quan Vũ và Trương Phi, nghe nói từng uống máu ăn thề, kết làm huynh đệ.
Cừ soái Trình Viễn Chí vừa mới thắng trận, chưa kịp chỉnh đốn, lại có chút lơ là, thế rồi bị Lưu-Quan-Trương tập kích đánh lén.
Cũng may Trình cừ soái không hổ là giáo ta Ngũ Hổ thiên tướng, là cánh tay
đắc lực mà Hoàng Thiên ban cho Lương Sư, lấy một đánh 3 mà không bại,
lấy sơ ý chống đỡ âm hiểm mà vẫn an toàn rút lui.
Nhưng Lưu Bị cũng nhờ đó mà vang danh, nhân sĩ võ lâm và cường hào tụ tập về dưới trướng không ít.
Lưu Bị cũng là kẻ có dã vọng, biết làm chó cho thế gia không phải kế hay,
thế là đầu quân cho thầy củ Lư Thực, vì việc này mà không tiếc từ bỏ số
lớn nhân sĩ giang hồ không hợp với quy củ của quân doanh.
Lư Thực ban đầu cũng không coi trọng tên học trò này, chỉ đến khi Tả Phong đem Lư Thực bắt lại.
Một phen thao tác tiếp theo của Lưu Bị thì Hoàng công tử cũng biết rồi đấy.
Lạc Dương cửa thành ban tự Huyền Đức!
Buồn cười cho đám người Khổng Dung, vậy mà không hiểu ý của Lư Thực.
Huyền chi hựu huyền, vốn là gốc của hư ngụy!
Huyền Đức chính là cái đức hư ngụy nha!
Lư Thực gợi ý rành rành ra đó mà còn không hiểu, uổng một đời đọc sách, uổng tự xưng bạn bè đồng chí!
Mặc dù trận doanh khác nhau, lập trường tương phản nhưng Lương Sư cũng tán
dương Lư Thực không thôi, đặc biệt là một tấm lòng trung và một đôi mắt
sáng.
Lưu Hoành lại ngu ngốc đến đâu đi nữa, chỉ cần Lư Thực an
phận chịu trói là tất sẽ ổn, vào tù an dưỡng vài tháng, nửa năm rồi ra
thôi.
Chuyện này Lưu Hoành làm nhiều rồi, ngày xưa Bá Dương công cũng thế, đâu hiếm lạ gì nữa.
Cần chi đến một kẻ vớ va vớ vẫn nhảy ra than khóc, kêu gào ứng cứu?
Có đầu óc đều biết Lưu Hoành bắt giam Lư Thực chính là muốn đoạt lại binh
quyền, sợ uy vọng của Lư Thực quá lớn, công cao chấn chủ.
Càng
than khóc, càng kêu gào chỉ sẽ càng làm cho Lưu Hoành nghi ngờ về điểm
cuối của quân tâm, càng trút nhiều phẫn nộ lên đầu Lư Thực”