Y trải qua thời thiếu niên của mình ở vùng man
hoang đầy chướng khí bệnh tật. Tiếng cười chế nhạo, ánh mắt lạnh lùng,
cả những vết thương khắp người, cơ hồ khiến trái tim y trở nên cứng danh lại. Y có thể sống sót, chỉ có một nguyên nhân duy nhất: y là con trai
duy nhất của Binh bộ thượng thư Dương Kế Nghiệp, quyết không thể nào
chết ở nơi không người hay biết này được.
Năm hai mươi mốt tuổi, cuối cùng y cũng thoát ra khỏi Mạn Đà La trận
đầy chướng khí độc địa. Cơ hồ như vừa đặt chân ra giang hồ, y dã ù ù cạc cạc ngồi lên vị trí tối cao mà cả vạn người trong võ lâm đều thèm muốn, sau đó để mình rơi vào mạng lưới quan hệ dày dặc phức tạp nhất, cuối
cùng không thoát thân nổi.
Trên thực tế, y tuyệt đối không phải một kẻ có đầu óc đơn giản, y
biết rõ mình ngồi lên ngôi võ lâm minh chủ này chẳng qua chỉ là một âm
mưu, phía sau còn liên quan đến các môn phái trong võ lâm và quan hệ lợi ích cực kỳ phức tạp của bọn họ, không phải là y không nhìn ra, mà là y
không muốn để ý đến.
Bởi vì, y biết mình còn có chuyện quan trọng hơn phải làm, mà muốn
hoàn thành được việc này, bản thân y cần phải có thực lực nhất định. Vì
vậy bất luận ý nguyện ban đầu của nguyên lão các môn phải là thế nào,
người thanh niên này cũng dần dần từng bước một thâu tóm mọi chuyện vào
lòng bàn tay mình.
Có lẽ thanh thế của y còn lâu mới cao vời vợi như Hoa Âm các chủ Trác Vương Tôn, nhưng tích tụ dần dần, cũng đủ để bịt miệng đám nguyên lão
kia lại.
Chỉ riêng vậy thôi, trong khoảng mấy chục năm nay, y cũng có thể xem như là nhân vật truyền thuyết trên giang hồ rồi.
Bạch y như tuyết, phong thái danh sĩ, đây là lời nhận xét của người
trong giang hồ về y. Võ lâm minh chủ, thiếu niên đắc chí, đối địch chỉ
xuất một chiêu, chưa bao giờ thất bại, thành tích này lại càng khiến đám thiếu niên trong võ lâm ngưỡng mộ vô cùng.
Ai có thể ngờ rằng nhân vật trong truyền thuyết này, giờ lại bị giam
trong thạch thất chỉ rộng có một trượng vuông, mở mắt trân trân đợi chờ
cái chết đến với mình?
Sớm biết như vậy, chi bằng từ lúc ở trên Đại Uy Thiên Triêu hiệu, đã
quyết đấu trước luôn với Trác Vương Tôn cho rồi. Để máu nóng nhuộm hồng
sóng biếc, còn tốt hơn là để từ từ cháy đen khô kiệt như lúc này.
Đến ngày thứ hai, cảm giác ảo não và chán nản này cơ hồ như hóa thành phẫn nộ. Trong bóng tối không chút hi vọng này, lặng lẽ đếm mạch đập
của bản thân để tính giờ khằc cái chết xuất hiện, chẳng phải là một
chuyện vô cùng nhục nhã hay sao?
Dương Dật Chi mấy lần không kìm được định nhảy lên liều mạng với
thạch thất này, quyết ngọc đá cùng tan, hoặc dứt khoát một kiếm đâm
xuyên tim mình tự kết liễu, nhưng rồi thủy chung y vẫn không hề cử động.
Y biết rõ, giờ đây nhẫn nại đã trở thành vũ khí duy nhất của mình rồi.
Ngày thứ tư, Dương Dật Chi cảm thấy mình đã không sao gắng gượng được nữa, toàn thân như bị hư thoát, mỗi cho mỗi nơi đều nhanh chóng suy
kiệt.
Nỗi sợ cái chết hóa thành thực thể, đè nặng lên giữa hai chân mày y.
Thậm chí y còn hoài nghi không biết có phải mình đã chết đi từ trước rồi hay không, mạch dập yếu ớt kia chẳng qua chỉ là ảo giác hoặc là tiếng
vọng của kiếp trước, nhưng rốt cuộc y vẫn không cử động.
Bởi vì khi tất cả chỗ dựa dẫm đều dã mất đi, điều y cần làm nhất,
chính là triệt để vứt bỏ cái bản thân đang dựa dẫm vào chính y kia đi.
Ngày thứ năm, đau dớn không ngờ lại dần lui đi, một niềm vui hư ảo ngược lại trào dâng lên trong tâm não.
Y bắt đầu ảo tưởng ra khoảnh khắc đối thủ mở cửa đá. Y đã nghĩ đến
hơn bảy trăm khả năng, hơn ba ngàn biến hóa, cùng với cách y làm sao một đòn tất trúng trong mọi biến hóa đó, rồi xông ra khỏi mật thất này ra
sao.
Trong cả quá trình đó, y dường như còn nghe thấy trái tim đã khô kiệt của mình trở nên hưng phấn dị thường, thậm chí còn muốn nhảy ra khỏi
lồng ngực. Y không thể không cố ép mình bình tĩnh trở lại.
Bởi vì kết quả của sự kích động ấy chính là, có thể y sẽ không cầm cự được tới ngày thứ bảy. Mà giờ dây, mỗi một khắc thời gian dối với y đều vô cùng quý giá.
Ngày thứ sáu thân thể y chợt nảy sinh một biến hóa vi diệu, cũng có
nghĩa là, y có thể nhìn thấy, hoặc có thể nói là cảm giác được một số
thứ trong bóng tối tuyệt đối này.
Mới đầu tuy còn cực kỳ mơ hồ, nhưng về sau đã dần dần rõ nét. Độ cao, độ rộng của thạch thất, màu sắc, hoa văn trên cửa đá, thậm chí cả tư
thế ngồi, thần thái của chính mình lúc này y cũng đều có thể cảm nhận
biến hóa, hết sức rõ ràng.
Mới đầu y còn kinh ngạc và mừng rỡ trước chuyện này, nhưng rồi sau đó từ từ khôi phục lại tâm thái bình thường, coi đây là khả năng bản thân y vốn đã sở hữu từ lâu, chỉ là trước đây đã quên đi mất mà thôi.
Vì y mà mất đi nay lại vì y mà có lại, có gì đâu mà phải mừng?
Ngày thứ bảy, y không còn nghĩ ngợi gì nữa. Tất cả cảm giác của mắt
mũi tai miệng tâm, hỉ nộ ai lạc trong lòng lều rút đi tựa như nước
triều, đến đã vô thường đi cũng không biết, chỉ để lại một ánh trăng kỳ
ảo khôn lường.
Tất cả rút sâu vào trong, trở về với hư không. Đồng thời y cũng hiểu rõ, sinh mạng mình đã đi đến tận cùng.
Đúng vào lúc đó, cánh cửa cuối cùng cũng mở ra. Dương Dật Chi có thể
cảm nhận được Tỳ Sa Môn chầm chậm đẩy cửa, bước vào, nhấc chân, sau đó
một chân đột nhiên dừng lại ở chỗ cách mặt đất chừng ba lóng tay, cả lớp bụi đất màu xanh dưới gót chân y, cũng hiện lên hết sức rõ ràng trong
tâm thức.
Dương Dật Chi thậm chí còn cảm giác được trong đầu Tỳ Sa Môn dang
xoay chuyển vô số ý niệm, phát hiện đối thủ vẫn còn sống. Kinh ngạc,
hoảng hốt, rối lập tức lấy lại bình tĩnh, nghĩ ra cách chỉ cần một chiêu là lấy mạng dối thủ với tốc độ nhanh nhất.
Tuy tất cả chỉ diễn ra trong chớp mắt, nhưng Dương Dật Chi lại có thể phân tích ra thành từng giai đoạn ngừng ngắt cụ thể. Đầu óc Dương Dật
Chi cũng xoay chuyển với tốc độ chóng mặt, những phương án thoát thân
sớm đã suy tính cả trăm ngàn lần kia chợt cùng lúc dâng trào lên trong
óc.
Nhưng y từ đầu chí cuối vẫn không hề cử động. Đúng vào khoảnh khắc
đó, tay phải Tỳ Sa Môn khẽ rung lên, trên tay đã nở bung ra một bóng đen to tướng, tiếng rít gió vù vù, kình phong khiếp người làm không khí
xung quanh cuộn lại thành một vòng xoáy.
Do là một cây Giáng ma tản (cây ô) rèn bằng vàng đen.
Cây dù đó hễ mở ra, sẽ được nội lực của chủ nhân làm xoay tròn với
tốc độ cực nhanh, mép ô còn sắc hơn cả đao kiếm, tương truyền rằng cả
sừng trên đỉnh đầu ma vương cũng có thể cắt bay.
Nhưng đây không phải là điều đáng sợ nhất. Đáng sợ hơn là khi cây dù
đạt đến tốc độ cao nhất, huyết ảnh thần châm giấu trong thân nó sẽ bất
ngờ bắn tỏa ra.
Nghe nói mỗi một cây châm đều như thiên nữ tán hoa, có thể hóa thành ngàn vạn mũi, đâu đâu cũng thấy.
Không ai biết chắc, nó có thể xem là ám khí mạnh nhất thiên hạ hay
không, nhưng lại có một truyền thuyết hết sức ly kỳ, khi ám khi đó phát
ra, phía trước sẽ nổ bùng lên một quầng sáng lóa mắt nhưng thập phần mỹ
lệ.
Chỉ riêng ánh sáng đó thôi, cũng đủ khiến bất cứ người nào buông bỏ
phản kháng cam tâm tình nguyện chết trong vòng bao bọc của quầng sáng
rực rỡ ấy.
Thế nhưng thời gian dã qua khá lâu, bóng tối vẫn hoàn bóng tối, không có ánh sáng, cũng không có âm thanh.
Tay Tỳ Sa Môn văn nắm chặt cán dù, khớp xương ngón tay trắng nhợt.
Cây Giáng ma tản đã ngừng xoay chuyển, mở to giữa không trung. Bá khí mạnh mẽ, và cả ánh sáng thần kỳ trong truyền thuyết kia, dường như cũng cùng lúc bị đông cứng lại trong khoảnh khắc ấy.
Tay Dương Dật Chi đã nhẹ đặt trên yết hầu Tỷ Sa Môn. Cơ hồ như đến
giờ Tỳ Sa Môn vẫn chưa chịu tin đây là sự thật, Dương Dật Chi không ngờ
vẫn xuất thủ nhanh như thế, chuẩn như thế.
Hoặc cũng không hẳn là quá nhanh, y đã nhìn thấy Dương Dật Chi xuất thủ, nhưng vẫn không sao tránh nổi.
Tỳ Sa Môn kinh hoàng nhìn gương mặt đã không còn sắc máu của Dương Dật Chi, nói từng chữ một: “Không thể nào.”
Dương Dật Chi điềm đạm nói: “Bảy ngày trước đích thực là không thể.”
Tỳ Sa Môn lẩm nhẩm: “Lẽ nào bảy ngày nay…”
Dương Dật Chỉ thở dài: “Nếu ngươi cũng có thể giống như ta, bảy ngày
ngồi yên không ăn không uống không có gì cả, tất cả hồi ức, cảm xúc đều
hiện lên trong tâm thức, nhất định cũng có thể nghĩ thông rất nhiều vấn
đề.”
Tỳ Sa Môn trầm mặc giây lát, lại hỏi: “Nếu ta đợi thêm ba ngày nữa thì sao?”
Dương Dật Chi lắc đầu: “Không cần, thêm một ngày nữa là ta chết rồi.”