Giờ Tuất, đệ tử thay ca tuần tra, bình thường có mười lăm người, hôm nay cắt giảm còn bảy người.
Dung Lạc Vân đứng dưới mái hiên thắp đèn, thắp xong bưng một chén nến, lững
thững đi ra khỏi Vô Danh Cư. Bắt gặp nhóm tuần tra, y chủ động nói: “Cứu tế nên phân chia nhân lực, các ngươi phải chú ý hơn.”
Đệ tử gật đầu bẩm báo: “Bẩm cung chủ, Đỗ Trọng sư huynh đã có sắp xếp khác, xin cung chủ yên tâm.”
Đệ tử đưa ra một tờ thời gian biểu, từ số lượng đội ngũ đến số người mỗi
đội, từ số lần luân phiên trực đến thời điểm giao ca, dường như đều
chỉnh sửa lại hết. Bây giờ đội này giảm còn bảy người, lại không canh
gác chặt chẽ, mà là lấy đội gốc chia làm hai, càng phân tán thì càng
canh gác được toàn diện hơn.
Dung Lạc Vân kiểm tra tỉ mỉ một lần, xem xong trả cho đối phương, hỏi: “Tờ biểu này lập ra khi nào?”
Đệ tử đáp: “Tối qua cần điều người ra ngoài, Đỗ Trọng sư huynh đã thức đêm lập ra.”
Đệ tử trong cung rất nhiều, cần chia người lo việc cứu tế, còn kéo theo cả hoạt động bình thường trong cung, tờ biểu mới toanh này đúng là lập ra
trong đêm rồi. Dung Lạc Vân hỏi thêm một câu: “Đỗ Trọng đâu?”
Đệ tử đáp: “Đỗ Trọng sư huynh vất vả một ngày một đêm, bây giờ đang nghỉ ngơi ở Thiên Cơ Đường.”
Dung Lạc Vân gật đầu, không hỏi gì nữa, xách đèn đi về phía trước.
Y vừa đi vừa nghĩ, ban đầu mời cao thủ thay thế vị trí của Từ Chính, chỉ
xem võ công mà không để ý những chuyện khác. Bây giờ chuyện cứu tế được
lo liệu rất ổn thỏa, xem ra Đỗ Trọng rất có năng lực chỉ huy, không biết khi hành động một mình sẽ thế nào.
Y tán thưởng trong lòng, nhưng ngoài miệng thì “hừ” một tiếng, nhìn phần còn
lại của xon đường chính mà tỏ ra bất mãn. Anh tuấn thì đúng là anh tuấn, mẫn cán thì mẫn cán đấy, chỉ là quá xấc láo, không biết lớn nhỏ, lại
còn vượt phép tắc, quả là tội lỗi chồng chất.
Hơn nữa còn quen thói nịnh hót, được y đánh trống liền phát huy tuyệt
chiêu, lấy y ra đánh cược liền đổi ý, hại y rơi xuống nước liền đi bắt
cá… Từng việc từng việc một, nào giống như một đại đệ tử chứ, ai mà
không biết còn tưởng hắn là hảo bằng hữu của Dung Lạc Vân y.
Bất tri bất giác đã đi ra khỏi cổng lớn, từ từ đến gần địa điểm cứu tế,
người bị nạn đến ngày càng đông, nơi mái tranh thềm đất quạnh quẽ lúc
trước, bây giờ người vào người ra tấp nập.
Dung Lạc Vân đến nơi, đặt ngón trỏ lên môi “suỵt” một tiếng, ngăn lời chào hỏi của các đệ tử.
Dưới chân núi đốt một ngọn lửa lớn, chiếu sáng đêm tối đen như mực, y ngẩng
đầu nhìn lên, bầu trời đêm mây phủ dày đặc che lấp cả sao trăng, phỏng
chừng ngày mai sẽ có mưa.
Chưa thu lại tầm mắt đã nghe thấy động tĩnh lạ, y lập tức liếc về cổng quân doanh.
Các binh lính trong quân doanh đi ra, tay cầm đuốc, xua đuổi các nạn dân
đang nghỉ ngơi bên ngoài đi, không chỉ xô đẩy mà còn tay đấm chân đá,
nhìn cứ tưởng như đang bắt cướp ngăn địch. Dung Lạc Vân bước từng bước
lại gần, trong miệng nhẩm đếm, đến gần cổng thì đếm tới “bốn mươi ba”.
“Các ngươi tổng cộng đã đánh bốn mươi ba người.” Y hỏi sâu xa, “Chuyện gì đây?”
Đô úy nói: “Trọng địa quân doanh há lại để cho đám lưu dân cản đường, muốn chờ chết thì cũng cút ra chỗ khác mà chờ!”
Dung Lạc Vân bật cười: “Trời chưa sáng đã đông đúc thế này rồi, mà trời tối
các ngươi mới ra quét dọn cổng, có thể nhẫn nhịn như thế, các ngươi
chẳng phải là một đám ô quy vương bát đản hay sao?”
Đệ tử của Bất Phàm Cung cực khổ cả một ngày, lúc này đã mệt mỏi nên quân
đội mới dám mò ra gây sự. Đô úy bị sỉ nhục, rút đao ra, các nạn dân nhất thời khiếp sợ.
Dung Lạc Vân chợt thu lại nụ cười: “Đệ tử trong cung của ta hôm nay đã vất vả nhiều, không so
chiêu với các ngươi, nhưng còn ta thì lại muốn hoạt động gân cốt một
chút.”
Thường ngày nước sông không phạm
nước giếng, binh thì khó chèn ép phỉ, phỉ thì không để ý tới binh, lúc
này đối đầu khiêu khích nhau đúng thật là ngoài ý muốn. Đô úy cầm đao
lên, tất cả binh lính đối phó với một mình Dung Lạc Vân, huống hồ Dung
Lạc Vân còn chưa cầm binh khí, cho dù có tuyệt chiêu đi nữa cũng chưa
xuất ra được.
Hai bên còn đang giằng co,
Dung Lạc Vân đã mất nhẫn nại trước: “Bớt lằng nhằng đi!” Cầm đèn nhảy
phốc lên, lập tức bị các tên lính bao vây, y đứng ở giữa, trong miệng
nhẩm đọc chiêu thức, sau mười chiêu đã đánh bại được hai lớp vòng vây.
Ngọn lửa nhảy múa, rơi xuống đất cháy thành những đốm lửa, thân thể Dung Lạc Vân nhẹ như chim yến, tay áo lướt qua những bộ khôi giáp, lấy nhu thắng cương đả thương gần một nửa số binh lính. Chao đèn lắc lư, nến bên
trong đổ ra, ngọn đèn bỗng chốc biến thành một quả cầu lửa.
Y lấy nó làm binh khí, ra sức vung mạnh lên: “Cho các ngươi thưởng thức Phách Vân kiếm pháp!”
Tổng cộng bốn mươi ba chiêu, thắng bại đã rõ.
Đám quân biến sắc, tháo chạy vào trong doanh, Dung Lạc Vân nhanh nhẹn quay
người lại, ánh lửa đỏ rực tô đậm nụ cười y, vừa giảo hoạt vừa khinh rẻ,
nói: “Có vậy cũng bị dọa, một đám ăn hại.”
Y bắt tên đô úy lại, kéo đến bên đống lửa, định đẩy gã vào trong đó.
Ở cách đó không xa, Hoắc Lâm Phong vừa tỉnh giấc, khoanh tay đứng trong
bóng đêm, quan sát Dung Lạc Vân dọa tên đô úy khóc thét. Sau một hồi cầu xin, Dung Lạc Vân dường như đã hài lòng, ném gã thật mạnh, rồi đạp một
chân lên.
Hoắc Lâm Phong không kìm được mà xoa xoa lồng ngực, giày bạch lĩnh, chân còn gầy, đạp người như vậy quả thật vô cùng đau đớn.
Dung Lạc Vân phun nước bọt, nói: “Không biết trời cao đất dày, tưởng rằng
Hoắc Lâm Phong tới Tây Càn Lĩnh là các ngươi có thể so với cường binh
của Tái Bắc hay sao?” Y cụp mắt nhìn xuống, thần thái lên đến thượng
thiên tiên cung, “Đừng nói là Hoắc Lâm Phong chưa tới, cho dù hắn có
tới, hứ!”
Hoắc Lâm Phong thầm nghĩ, “hứ” là ý gì?
Bầy chim bay đi tan tác, đèn của Dung Lạc Vân cháy sạch không còn khung
xương, đành phải ném nó vào trong đống lửa. Vừa ngước mắt lên, y nhìn
thấy Hoắc Lâm Phong đứng trong bóng tối, mờ mờ ảo ảo, khó mà chắc chắn.
Y muốn gọi lại thôi, tự dưng cảm thấy lúng túng, trong đầu chỉ còn lại bó hoa sen ấy.
Hoắc Lâm Phong sải bước về phía Dung Lạc Vân, ngủ một giấc tỉnh dậy đã không còn thấy ngượng ngùng nữa, chỉ còn lại sự thản nhiên. Chỉ còn cách một
bước chân, đứng đối diện nhau bên cạnh đống lửa, có thể nhìn kĩ được
thần sắc của đối phương.
Bọn họ cùng lúc nhếch tai, nghe thấy một câu “ân nhân” rụt rè.
Cậu thiếu niên ôm cô bé, ông lão chống gậy, các nạn dân trong con ngõ hôm
đó đều tụ tập về đây. Ban ngày đã tìm Dung Lạc Vân để cảm tạ, đến tận
lúc kết thúc vẫn chưa thấy, bây giờ gặp được rồi, lại còn được nhìn thấy “ân nhân” lòng như Bồ Tát lấy một chọi trăm, nhất thời hoảng sợ không
dám tiến lên.
Dung Lạc Vân xoay nửa người lại, nhìn tường tận đám người đầy đủ già trẻ gái trai, suy nghĩ một lúc rồi nói: “Chút cháo này chỉ giúp đỡ được phần nào, các người vẫn nên
mau chóng tìm một nơi để an cư thì tốt hơn.”
Mọi người đều hiểu, cô bé kia lại ôm chặt cổ chàng thiếu niên, nhỏ giọng nức nở: “Không muốn về đâu, về sẽ không sống được…”
Dung Lạc Vân hỏi: “Tình hình ở Hạn Châu thế nào rồi?”
Cậu thiếu niên đáp: “Ngày nào cũng có người chết vì đói, bách tính vì để giữ lại mạng sống mà bỏ nhà đi.”
Dung Lạc Vân sinh nghi: “Hạn Châu sung túc, huống hồ có thiên tai thì sẽ có
đền bù, tốt xấu gì cũng có thể chống chịu một phần chứ.”
Cậu thiếu niên lắc đầu: “Không giấu gì ân nhân, trong thành Hạn Châu đến cả một nơi bố thí cũng không có, gạo hay nước cũng chẳng thấy đâu.” Sau
một cơn nghẹn ngào, cậu nói tiếp, “Lương thực tiền bạc tham ô qua từng
giai cấp, đã bị nuốt sạch từ lâu, quan phủ còn cấu kết với các thương
nhân giàu có tích trữ lương thực độn cao giá bán, bao nhiêu người chỉ vì một bát gạo mà táng gia bại sản.”
Dung Lạc Vân khẽ “Ồ” một tiếng, hỏi: “Tri châu là ai?”
Cậu thiếu niên đáp: “Giả Viêm Tức, hắn là biểu điệt của Thừa tướng đương
triều.” Là một nhân vật đức cao vọng trọng, cậu thiếu niên nói nhỏ giọng còn mọi người thì nín thinh, xung quanh chợt rơi vào yên lặng.
Dung Lạc Vân chép miệng, nói: “Thừa tướng đương triều… Trần Nhược Ngâm.”
Giọng nói khẽ khàng, tâm tư bịn rịn, giống như đang nhắc lại một vị cố
nhân. Y xoay người định đi, lúc đi ngang Hoắc Lâm Phong thì dừng lại,
thò một tay ra túm lấy thắt lưng người ta kéo đi mấy bước.
Hoắc Lâm Phong sợ thắt lưng lỏng ra, đi đến nơi không có người liền bắt lấy
cổ tay Dung Lạc Vân. Dung Lạc Vân xoay mặt nhìn hắn, rút tay ra, nắm lấy cổ tay Hoắc Lâm Phong: “Đỗ Trọng, chuyện cứu tế làm rất tốt.”
Hắn gật đầu: “Cung chủ hài lòng là được.”
Dung Lạc Vân nói: “Nhưng ta vẫn có chỗ chưa hài lòng lắm.”
Hoắc Lâm Phong nhìn y chằm chặp: “Nói đi.”
Dung Lạc Vân rút tay ra, vừa nãy còn ngoan ngoãn dễ bảo, bây giờ mặt mày sắc lạnh đến nỗi có thể kết thành sương. “Ta muốn giao cho ngươi một việc
nữa.” Giọng nói như đao nhọn, “Xuất phát trong đêm, đến Hạn Châu điều
tra.”
Hoắc Lâm Phong nhận mệnh lệnh, lập
tức về Bất Phàm Cung chuẩn bị. Đi được bảy tám bước, Dung Lạc Vân ở phía sau gọi hắn: “Đỗ Trọng, đi nhanh rồi về.”
Hắn nói: “Nếu vừa đi vừa về không nghỉ không ngủ, thì giờ Hợi đêm mai sẽ về.”
Một con ngựa khỏe, một chiếc túi nước, Hoắc Lâm Phong cứ như thế mà lên
đường. Đêm khuya khó băng rừng, hắn đành đi đường bằng phẳng tiến về
hướng Bắc, trăng và sao cùng rong ruổi theo hắn, bị gió xuân se lạnh
thổi hiu hiu cả một đêm.
Càng tới gần Hạn Châu, tình hình càng ác liệt, lúc còn cách mấy mươi dặm thì gặp được
một đám nạn dân. Trời tờ mờ sáng, hắn dừng ngựa trước thành Hạn Châu,
cổng thành rộng mở, dân chúng thì như cái xác chết biết đi, còn hai ba
quan sai canh cổng thì tinh thần phấn chấn.
Hoắc Lâm Phong dắt ngựa vào trong thành, con đường phồn hoa ngày nào nay đã
tiêu điều xơ xác, nhà nhà đóng cửa im ỉm, trong không khí sặc mùi hôi
của người chết. Hắn tìm đến quan phủ, chợt tưởng tượng mình đang ở trên
chiến trường, khắp nơi đều có thể nhìn thấy xác chết phơi thây, máu chảy thành vũng đã cạn khô.
Mỗi một thi thể
đều có dấu vết bị dao rạch ngực, xem dấu vết có vẻ như đều từ tay của
một người, người này chắc chắn là cao thủ. Hắn không ở lại lâu, đến
thành Đông tìm phủ đệ của Giả Viêm Tức, một căn mái đỏ ngói xanh, canh
phòng nghiêm ngặt, các thị vệ đều giắt đao đi tuần.
Hoắc Lâm Phong đứng từ xa nhìn một lúc, rồi dùng Thần Long Vô Hình phi người vào trong phủ.
Vừa xông vào một đình viện, chợt nhìn thấy bên hồ có hai người, hắn hoảng hốt nín thở, không dám buông lỏng cảnh giác nữa.
Ở phía nam cách đó ba trăm dặm, mây đen cuồn cuộn bao phủ Tây Càn Lĩnh,
lúc này còn kéo theo hai tiếng sấm rền. Dung Lạc Vân nhốt mình trong thư phòng, bút lông thỏ không rời tay, một nét chữ nhỏ in đậm xuống giấy.
Sắp mưa rồi, bước chân người đệ tử đem bữa trưa tới càng vội vàng hơn.
Đợi đến khi trời đổ cơn mưa, gió lạnh thổi vù vù qua cửa sổ nhỏ khép hờ,
đầu bút Dung Lạc Vân dừng lại, vừa lạnh vừa lo lắng nghĩ, Đỗ Trọng có
mang theo áo tơi không? Tiếp tục viết xong một câu, lại chợt nghĩ, trời
mưa đường khó đi, có thể trở về đúng giờ Hợi không?
Y tốn mất một khoảng thời gian nửa nén hương mới viết xong, đặt bút
xuống, rửa tay xong rồi đi ra dưới mái hiên dùng cơm. Hai đĩa thức ăn,
một bát canh, chỉ lo ngắm mưa, mãi một hồi sau mới gắp được một miếng.
Dung Lạc Vân lười vào phòng, ăn xong liền dựa vào cột nhà chợp mắt.
Mưa càng lúc càng lớn, rơi đầm đìa cả một canh giờ vẫn chưa dứt, mây đen
thậm chí đã che khuất ánh ráng chiều, băng qua hoàng hôn tiến vào màn
đêm. Đợi đến khi Dung Lạc Vân tỉnh giấc, hộp cơm trưa đã biến thành cơm
tối, đã qua giờ Dậu rồi.
Y đứng dậy đi về phòng, khoác lên một tấm áo choàng chống lạnh, xách một ngọn đèn lại đi ra hiên ngồi. Một canh giờ nữa qua đi, y cầm dù đi trên khoảng sân rải
đá vụn, bước chậm ra tới cổng Vô Danh Cư.
Hết giờ Tuất, đến giờ Hợi, y bước qua ngưỡng cửa đi thẳng ra ngoài.
Đến Mạc Thương Đài, nơi đây trống trải, bỗng cảm thấy mưa gió tung hoành. Y đi đến trước Càn Khôn Cục ở góc tây bắc, dưới màn mưa như thác đổ, y
lặng lẽ thiết trận xem cục, tiêu tốn hết một canh giờ.
Quả thật rất lạnh, Dung Lạc Vân tiếp tục đi, dần dần đã ra đến Trường Nhai. Đã đến giờ Hợi rồi, Đỗ Trọng cũng nên quay về rồi chứ? Y cứ ôm suy nghĩ đó mà bước đến chỗ cánh cửa phụ thứ ba, ở đây khuất gió, nên yên tĩnh
và ấm áp hơn một chút.
Những hạt mưa bụi trước ánh đèn trở nên tinh mịn, y nhìn chằm chặp, đứng thẫn thờ, đợi chờ ai.
Đã hết giờ Hợi rồi, vào giờ Tý, mưa lúc to lúc nhỏ rơi lộp độp xuống đất,
làm chiếc ô giấy dầu run rẩy. Tích tắc, tích tắc, những chú cá trốn vào
dưới gốc sen, còn người thì trú dưới mái hiên, chỉ có mình y đứng lặng
thầm sau cánh cửa.
Lúc này có một cơn gió mạnh táp vào màn mưa, truyền đến tiếng vó ngựa từ phía đằng xa.
Hoắc Lâm Phong về đến dưới chân núi Lãnh Tang, cưỡi ngựa ba trăm dặm không
ngừng nghỉ, quanh người rét như băng. “Mở cổng!” Đến trước cổng cung hét lớn một tiếng, cổng mở ra, dắt cương chạy vào, đạp vỡ một khoảng trời
rét lạnh tối đen.
Cánh cửa đầu tiên mở ra, cánh cửa thứ hai, đến cánh cửa thứ ba ở đằng xa mở ra, một ánh nến vàng ấm áp lóe sáng trong góc tối.
“Hí!” Hắn vững vàng xuống ngựa, y sam ướt đẫm tóe nước, nước mưa thuận theo
thái dương không ngừng chảy xuống. Sải bước tới gần, hắn dừng phắt lại,
nhìn rõ người đứng trong góc là Dung Lạc Vân.
Dung Lạc Vân cầm đèn, che ô, gương mặt yên tĩnh nhìn về phía hắn.
“Cung chủ.” Hắn to gan tiến lên, chui vào trong ô, “Gió to mưa dầm, cẩn thận cảm lạnh.”
Dung Lạc Vân thấp giọng nói: “Vậy ngươi còn không biết quay về sớm hơn sao.”
Hai người đi vào sâu bên trong Bất Phàm Cung, đường thì dài, trời thì tối
đen như mực, tiếng mưa rơi át đi tiếng hít thở. Hoắc Lâm Phong cầm dù,
Dung Lạc Vân xách đèn, con ngựa bôn ba suốt một quãng đường ngoan ngoãn
theo phía sau.
Một cơn gió thổi tới, đuôi ngựa lắc lư không ngừng.
Những sợi tóc của Dung Lạc Vân phe phẩy qua bộ y phục ẩm ướt của Hoắc Lâm Phong.