Ly Uyên
ĐIỆN HẠ, ĐAU LẮM PHẢI KHÔNG. DÙ ĐANG HÔN MÊ CŨNG ĐAU ĐẾN CHẾT ĐI SỐNG LẠI, KHIẾN CHO ÁO MỎNG CHĂN DÀY ĐỀU ƯỚT ĐẪM MỒ HÔI.
____
Đúng như Lô Giải nói, khuya hôm đó, Hoàn vương tỉnh. Lúc đó Lô Giải đã về
lều nghỉ ngơi, Thiệu Dương thấy hắn mở mắt ra thì vừa mừng vừa vội, run
run gọi một tiếng "Điện hạ", những lời còn lại nghẹn hết trong cổ họng. Y nhỏ giọng nói, "Tôi đi gọi Lô y quan tới đây." Đoạn, bèn đứng dậy,
nhưng ánh mắt cứ tinh tế trải dài như ánh trăng đêm nay, rót xuống khuôn mặt người ấy.
Tề Hoàn Duyên cả cười, khẽ hỏi y, "Vì sao còn
không đi nghỉ?" Lời nói lơ đãng mang theo nhẹ nhàng trách móc. Khi Tề
Hoàn Duyên làm Giám quốc, một tay hắn quán xuyến mọi việc trong ngoài,
người ngoài nhìn vào chỉ thấy hắn quyền khuynh triều chính, nhưng không
biết hắn vẫn thường thức trắng cả đêm. Khi đó, Thiệu Dương làm xong hết
mọi bài tập cả văn cả võ, vẫn tìm trăm phương ngàn kế để dây dưa ở lại
đợi đến tang tảng sáng, khi Hoàn vương hồi phủ, để thấy được bóng dáng
hắn rồi mới trở về phòng đi ngủ. Y không biết mình bị Tề Hoàn Duyên nhìn thấy, mỗi khi như vậy hắn đều dùng những lời nhẹ nhàng như thế để mắng
y. Bây giờ hắn chịu thương tích nghiêm trọng, nguy hại đến mạng sống,
nhưng ngữ điệu vẫn khoan thai y hệt như những ngày ở phủ Giám quốc năm
xưa, tựa hồ sáng sớm mai cũng là một buổi lâm triều bình thường vậy.
Mặt Thiệu Dương nóng lên, nom như một đứa bé con làm sai điều gì đó bị bắt
gặp, vội vàng giải thích, "Lúc nãy tôi có ngủ rồi, biết điện hạ tỉnh dậy nên mới.... Tôi, tôi nghe thấy tiếng điện hạ mở mắt." Y ngưng một hồi
rồi nói thêm một câu, "Điện hạ tỉnh lại là tốt rồi."
Tề Hoàn Duyên giãn mặt ra, "Tốt cái gì mà tốt? Ta hiếm khi có dịp được ngủ sâu, ngủ lâu như vậy."
Từ lúc Thiệu Dương nắm ấn soái trong tay đến nay, hắn rất ít khi dùng
giọng nói trêu đùa này với y. Thiệu Dương những muốn nở một nụ cười
không phục với hắn như thuở niên thiếu, nhưng khi vừa cúi mắt nhìn xuống gương mặt bình tĩnh kia thì lại từng giọt, từng giọt nước mắt rơi
xuống. Tề Hoàn Duyên cũng không dễ chịu, nhìn y bằng một đôi mắt chan
chứa ôn hòa, ánh mắt ấy khiến Thiệu Dương không cách gì thoái thác, đến
độ gần như luống cuống chân tay. Đến tận bây giờ y chỉ dám đứng ở một
góc lặng lẽ ngắm nhìn, khi đối đáp với Hoàn vương cũng chỉ cúi đầu mà
nói, chưa từng lớn gan đối diện với ánh mắt của hắn như thế này. Trong
nhất thời, y quên cả tiếng tim đập và nhịp thở của mình, chỉ còn màu của nước mắt lặng lẽ loang khắp đất trời.
Y vội vàng lấy lại tinh
thần, dời mắt ra chỗ khác để che giấu sự luống cuống của chính mình,
nhìn về phía ấm thuốc vẫn đang dùng lửa nhỏ chậm rãi sắc trong lều. "Lô y quan nói, điện hạ nếu tỉnh lại phải uống thuốc ngay. Ông ấy không biết
điện hạ sẽ tỉnh lúc nào, sợ chậm trễ nên vẫn để thuốc sắc như vậy, dược
liệu bên trong cũng đổi mấy lần rồi." Mắt y lóe lên, quay nhìn ra ngoài
lều, nói, "Tôi đi tìm Lô y quan tới đây."
Tề Hoàn Duyên cái gì
cũng chưa nói đã thấy bóng người áo xanh nhuốm hơi lạnh kia nhanh nhẹn
bước đi, nghe thấy y vén cửa lều ra ngoài. Không lâu sau bước chân từ từ trở về gần, nhưng vẫn là một người.
"Họ nói, Lô y quan điều chế
thuốc xong thì vừa mới ngủ, dặn dò không cho ai tới làm phiền... Mấy hôm nay ông ấy cũng mệt mỏi rồi." Thiệu Dương vẫn cẩn thận quỳ xuống, lại
bỏ nhỏ thêm một câu như đang biện hộ cho Lô Giải. Lúc Lô Giải quay về
nghỉ ngơi thực sự là có cẩn thận dặn dò Thiệu Dương trong trường hợp
khẩn cấp phải phản ứng như thế nào rồi mới an lòng đi ngủ. Thiệu Dương
cũng đồng ý với ông rằng nếu không phải là tình thế vạn nhất thì sẽ
không đi vào quấy nhiễu ông. Hoàn vương nay đã tỉnh, nhưng y thì rối
tung rối mù, thầm nghĩ muốn tìm Lô Giải đến để xử lý, nhưng khi đến
trước lều của quân y mới nhớ ra lời dặn của ông. Y ngước lên nhìn Thiệu
Dương nhưng không đủ dũng khí để mở miệng, chực như muốn đi tìm Lô Giải
thêm lần nữa.
Tề Hoàn Duyên hiểu y muốn nói gì, hắn vẫn nhẹ nhàng dặn dò: "Đã vậy thì đừng làm phiền y quan nghỉ ngơi. Ngươi đỡ ta ngồi dậy."
Thiệu Dương gật đầu đáp, "Vâng", quay đi rót chén thuốc nóng hôi hổi ra cho
nguội bớt, sau đó định dìu Hoàn vương ngồi dậy. Y rất sợ làm Tề Hoàn
Duyên đau, những ngón tay đỡ trên vai hắn dù cố gắng dùng sức thật nhẹ
nhưng vì khẩn trương mà bị phủ lên một màu tái xanh như nước chảy. Tề
Hoàn Duyên tập cung tên từ nhỏ, dù không yếu ớt như thư sinh nhưng dù
sao thân thể của hắn vẫn rất gầy so với một người học võ. Thiệu Dương
không cần dùng quá nhiều sức đã đỡ hắn ngồi dậy. Những sợi tóc của hắn
lặng lẽ xuông xuống, phất qua bàn tay của Thiệu Dương, mang theo hơi
lạnh dịu dàng đặc trưng của khí trời mùa đông nước Ngụy, rồi chúng ấm
lên nhanh chóng trong lòng bàn tay của Thiệu Dương. Thiệu Dương bị cảm
giác khác lạ này làm cho sợ hãi, phản xạ muốn buông tay tránh đi. Có
điều, một chốc lát ấy đối với Thiệu Dương còn dài hơn cả một cuộc chiến
tranh. Y chần chừ hồi lâu mới quyết tâm dùng toàn bộ cánh tay để đỡ cơ
thể của hắn, hốt nhiên phát giác ra tấm lưng của hắn ướt lạnh dầm dề,
lúc đó mới hay rằng áo lót của hắn đã thấm đẫm mồ hôi lạnh từ lâu.
Y ngước lên nhìn Tề Hoàn Duyên lần nữa, áy náy cười với hắn, trong mắt
không đọc ra cảm xúc nào khác. Ánh trăng sáng tỏ soi vào trong lều,
khiến cho thần sắc của hắn càng bình tĩnh đến xa cách. Trong mắt Thiệu
Dương, ánh trăng mềm mại dần dần bị chia cắt, ngưng tụ thành vô số những lát mỏng manh, cứng rắn và lạnh lẽo, như lưỡi đao buốt lạnh vút xuống.
Điện hạ, đau lắm phải không. Dù đang hôn mê cũng đau đến chết đi sống lại, khiến cho áo mỏng chăn dày đều ướt đẫm mồ hôi.
Nhưng hắn vẫn ung dung điềm tĩnh nói cưới với y, dùng ánh mắt ôn tồn nội liễm vỗ về sự bất an khủng khiếp của y. Cứ như thật lâu về trước vào những
ngày xa xưa ấy, ngay trước mắt Thiệu Dương, những đớn đau mà người nam
tử này phải gánh vác - chao ơi những đớn đau vô biên vô hạn, dưới ánh
mắt cũng trong trẻo đến vô cùng thế này đây, bị chôn vùi bên dưới hồng
trần của thành Dao Kinh phù hoa ưu nhã, vĩnh viễn như thế chôn thật sâu, thật sâu.
Nhưng cứ như thế mà thật đau, thật đau.
Điện hạ của y.
Điện hạ, của y.
"Điện hạ," Thiệu Dương hầu hạ hắn uống xong thuốc, nhẹ giọng nói, "Tôi đi tìm người thay y phục cho điện hạ --- áo đều ướt hết rồi, không thể giữ ấm
cơ thể được."
Ánh mắt y sâu nặng, mềm như một dòng nước, đem nụ cười yếu ớt của hắn khi nghe y nói nói dịu dàng ấn sâu vào đáy lòng.
-
Chuyện Hoàn vương tỉnh dậy tuy không thể quét sạch hoàn toàn bóng ma bao phủ
bầu trời của quân đội nước Tề, nhưng chí ít cũng mang đến điều mà quân
Tề thấp thỏm lo âu đang mong muốn. Tuyên Minh đế vài lần gửi thư thúc
giục chủ soái đưa Hoàn vương về Dao Kinh dưỡng thương, đều bị Thiệu
Dương đưa lý do của y quan ra để cự tuyệt một cách khéo léo nhưng kiên
định. Lô Giải từng phụng sự tiên đế, đức cao vọng trọng, triều đình nhà
Tề không dám có ý kiến khác, nhưng vẫn năm lần bảy lượt ám chỉ cho Thiệu Dương rằng Hoàn vương là chú ruột của đương kim Thiên tử, là thống suất của quân Niễn Trần, là người mà dân chúng nước Tề kính ngưỡng bậc nhất, trăm triệu lần không thể có sơ suất. Thiệu Dương viết tấu chương hồi
báo về kinh, xin Tuyên Minh đế an lòng, nhưng vẫn dựa theo ý tứ của Lô
Giải để giữ Hoàn vương ở lại trong quân tĩnh dưỡng.
Một khi Hoàn
vương đã tỉnh, Vu Xà cùng các tướng Niễn Trần liền ngẫu nhiên đến hỏi
việc quân. Hoàn vương không có ý kiến, càng không có tâm sức đâu để can
thiệp sâu hơn, chỉ dặn dò Vu Xà hợp tác cùng Thiệu Dương để quản lý. Vu
Xà rất có uy tín trong quân Niễn Trần, vừa là cánh tay nối dài của Hoàn
vương, Thiệu Dương vẫn luôn tôn kính gã, mọi việc đều thương thảo cùng
gã mới quyết định, tuy nhiên trong lòng chỉ mong sao gã bớt đến làm
phiền Hoàn vương điện hạ một chút.
Sau khi Tề Hoàn Duyên bị
thương, các tướng lĩnh Niễn Trần từ Vu Xà trở xuống ai ai cũng thôi thúc Thiệu Dương đánh nước Ngụy, bắt giết Viên Duẫn Đàn để rửa nhục. Dù
Thiệu Dương cũng có ý định này, y lấy lý do sự ngờ vực trong liên quân
còn chưa được bài trừ, lòng quân chưa ổn định mà chậm chạp không thể
hành động. Báo thù cho Hoàn vương điện hạ là suy nghĩ của toàn bộ quân
Tề, nhưng họ không có một lý do đường hoàng để cùng quân Trịnh liên hợp
xuất chiến. Bên này là những động tĩnh của quân Ngụy, bên kia là quân
Trịnh ôm tâm tư khác nghi ngờ Tĩnh Hoài đế, đại bộ phận quân Tề bàng
hoàng khiếp vía không chịu nổi, sự chấn động từ thành Dao Kinh và sự tức giận không thể kềm chế nổi của Tuyên Minh hoàng đế, cùng với quân Niễn
Trần ngày ngày đều đến ép hỏi thỉnh chiến --- tất cả khiến cho Thiệu
Dương, Hộ Quốc tướng quân còn chưa đến tuổi hai mươi của nước Tề, lúc
này đây chính thức đối diện với sự khiêu chiến trí mạng nhất trong suốt
lịch sử nước Tề.
Hôm đó trước mặt Tề Hoàn Duyên, Vu Xà ngẫu nhiên nhắc tới ý muốn của các tướng lĩnh muốn sớm ngày xuất chiến tru sát
Viên Duẫn Đàn. Tề Hoàn Duyên không biểu lộ bất cứ điều gì, thản nhiên
bảo vạn sự tuân theo sự an bài của chủ tướng, không được tự tiện làm
chủ.
Vu Xà không nói gì, nhưng gã thôi nhắc đến việc này nữa theo cách rất không cam lòng. Tề Hoàn Duyên tuy đã tỉnh lại, nhưng vết
thương chỗ bị trúng tên không khởi sắc hơn bao nhiêu, đa phần thời gian
hằng ngày vẫn cứ mê man. Hơn nữa, lúc hắn ngã xuống cũng khiến gân cốt
chân phải bị dập nát, chỉ là ngồi dậy thôi cũng đã đau đớn khôn cùng.
Hắn vẫn chưa nói chuyện tên gãy với bất kỳ ai, Vu Xà cũng chỉ nói do tài nghệ bắn cung của Viên Duẫn Đàn quá giỏi. Gã áy náy không bảo vệ được
Vương gia nên cũng khó tránh khỏi trách cứ lúc đó Thiệu Dương đến tiếp
ứng trễ. Từ lâu gã đã cho rằng dù Thiệu Dương anh tài có ngút trời ra
sao, y vẫn chỉ là một thằng nhãi ranh. Vương gia không chỉ dạy cho y
tuyệt kỹ Cầm Tiễn lưu truyền bí mật trong vương thất mà còn muốn giao
phó toàn bộ quân Niễn Trần, rõ ràng là thiên vị quá mức. Với vấn đề này, Vu Xà vẫn chưa nói rõ ra miệng, chỉ cúi đầu thưa, "Viên Duẫn Đàn đâm
sau lưng khiến Vương gia bị thương, cục nghẹn này ai ai cũng nuốt không
trôi, đều ngóng trông sớm này quyến chiến."
"Thời cơ quyết chiến còn chưa chín muồi. Sự bất bình kia, phiền ngươi đi trấn an họ."
"Thuộc hạ --- thuộc hạ cũng không nuốt trôi cục ngẹn này!"
"Vu Xà", Tề Hoàn Duyên nghiêm nghị gọi gã, ánh mắt ngưng lại, đôi mắt
phượng thong thả vừa rồi bỗng chuyển thành sắc bén. Hắn hạ giọng, "Lúc
đó ngươi ở ngay bên cạnh, vì sao chưa từng chú ý - kẻ bắn bản phiên bị
thương không phải là Viên Duẫn Đàn."
Lời nói vừa buông ra, sắc mặt Vu Xà lập tức biến đổi, gã thốt lên, "Vậy lúc đó Vương gia tạ ơn Viên Duẫn Đàn tặng tên..."
"Chẳng qua là kế tạm thích ứng để trấn an lòng quân, tránh sinh biến cố khác."
Nghe Tề Hoàn Duyên nói vậy, Vu Xà lập tức nghĩ tới trước đó Tuyên Minh đế
thay đổi người chuẩn bị cung tên trong quân, run run nói, "Chẳng phải
là, chẳng phải là bệ hạ..."
Tề Hoàn Duyên không nói tiếp, Vu Xà
nghĩ gã đoán trúng rồi. Trong cơn khiếp sợ, gã giương mắt nhìn Tề Hoàn
Duyên lắp bắp, "Vậy, là người phương nào, kẻ thích hợp nhất dĩ nhiên, dĩ nhiên là..."
"Là ngươi."
Vu Xà giật mình, cứng họng lại.
Gã cảm thấy sự ánh mắt xuyên thấu của Tề Hoàn Duyên - dù khó nắm bắt
nhưng có thể cảm thụ rất rõ ràng ban nãy - nay đã chậm rãi rút đi như
nước triều xuống, thay vào đó là một ánh mắt bình tĩnh trong veo. Sự sắc bén như bị mài mòn đi, ánh mắt như ngọc thạch chìm trong đáy nước, phát ra thứ ánh sáng mềm mại nhưng đọc không ra được cảm xúc, ngược lại
khiến cho gã không cách nào giấu diếm.
Vu Xà mơ hồ thốt lên một
tiếng chấp nhận, sự lo lắng kinh ngạc trên khuôn mặt dần dần giãn ra, gã im lặng quỳ xuống. Nhưng gã không cúi đầu, ánh mắt vẫn duy trì sự
chuyên chú lúc nãy.
Cho đến cùng, gã không thể gạt được hắn.
Vu Xà thấy thoải mái trong lòng, hơn nữa cảm thấy có một tia mừng rỡ hưng
phấn. Gã biết bản thân mình vẫn luôn đợi chờ khoảnh khắc này. Người nam
tử sắc mặt tái xanh im lặng tựa người vào tháp, người nam tử ăn nói nhỏ
nhẹ nhưng lòng sáng như gương, gã vẫn luôn vâng lệnh hắn, sùng bái hắn,
xem hắn như một vị thần. Gã có thể nào lừa gạt nổi hắn.
"Vương gia đã biết từ lâu?"
"Cũng không phải." Tề Hoàn Duyên nhìn gã, nói rất điềm tĩnh, "Ta từ sớm đã
nghĩ bệ hạ đổi người chuẩn bị cung tên chỉ là ngụy trang, nhất định sẽ
an bài một người khác trong quân Niễn Trần - nhưng chưa bao giờ nghĩ đó
là ngươi. Cho đến khi Trịnh đế bị bắt, Thiệu Dương cản trở ta đi lại bị
ngươi cả tiếng quát mắng, ta mới hiểu ra... Ngươi luôn luôn khiêm cung
thủ lễ, Thiệu Dương là chủ soái quân ta, dù ngươi có bất mãn làm sao
cũng không thể quát lớn trước mặt mọi người. Đơn giản mà nói, đó là cơ
hội vô cùng tốt để ra tay khi tình hình hỗn loạn, ngươi không thể bỏ
qua."
Vu Xà bắt đầu cười khổ, gã cảm kích sự tín nhiệm của Hoàn
vương đối với gã trước kia, nhưng ngoại trừ phản bội thì không còn con
đường nào khác. Gã nhớ lại đêm khuya hôm ấy Hoàn vương thúc ngựa ráo
riết truy đuổi vẫn ngoái đầu lại nhìn Thiệu Dương, trong lòng bỗng dưng
vỡ lẽ ra tất cả.
Gã theo Hoàn vương nhiều năm, tự cho là hiểu
thấu đáo Hoàn vương. Gã đã liệu được dù Hoàn vương biết kẻ đâm sau lưng
mình là người trong quân thì cũng tất nhiên giá họa cho Viên Duẫn Đàn để ổn định lòng quân. Gã cũng đoán được nếu Hoàn vương rút được mũi tên
gãy chắc chắn sẽ rút mũi tên từ lồng ngực mình ra gài lên cung tên. Gã
biết mũi tên của gã và tên mà Viên Duẫn Đàn dùng hoàn toàn khác nhau,
nhưng không có chứng cứ nào lưu lại.
Chính vì như thế nên gã mới
ra độc kế này. Nhưng gã không thể nào ngờ, sự yêu quý mà Vương gia dành
cho Thiệu Dương đến tận hôm nay vẫn sâu sắc nhường ấy. Đêm đó, hắn nhịn
không được ngoái đầu lại nhìn, chỉ vì lo lắng từ nay về sau có khi sẽ
vĩnh viễn đất trời xa cách. Nghĩ đến đó, Vu Xà cũng không giải thích,
chỉ quỳ chờ Hoàn vương xử lý.
Tề Hoàn Vương đưa tay phất nhẹ, "Cha mẹ, vợ con ngươi bị giam lỏng ở Dao Kinh, ngươi thuần phục bệ hạ, ta không trách."
Vu Xà vì bị Tuyên Minh Đế ép buộc nên làm ra việc đại nghịch như thế, tự
biết không còn mặt mũi nào mà níu kéo mạng sống. Gã nghe Hoàn vương nói
như vậy thì trong lòng ấm áp, khàn giọng gọi một tiếng "Vương gia," khí
huyết trong lồng ngực dâng lên, chỉ hận không thể tự vẫn để tạ ơn. Lại
nghe thấy giọng Hoàn vương đổi khác, buồn bã nói, "Sau này ngươi ở trong quân phải trông chừng Thiệu Dương hơn nữa. Ngươi thưa với bệ hạ rằng,
nếu ngài thật lòng bảo vệ Thiệu Dương thì hãy để cậu ấy ở ngoài, đừng
vướng vào những đấu đá tranh giành trong triều đình."
Vu Xà cứng
cỏi nói, "Vương gia yên tâm. Sau khi quay về Dao Kinh, tôi nhất định
tiến cử Thiệu tướng quân là bậc hiền tài. Xin bệ hạ ban cho cậu ấy họ
Tề, như thế sẽ có thể danh chính ngôn thuận tiếp nhận Niễn Trần. Thiệu
tướng quân là thần tử tâm phúc của bệ hạ..." Gã vốn định nói Thiệu tướng quân là tâm phúc của bệ hạ, bệ bạ chắc chắn đảm bảo cho y vinh sủng
trọn đời, nhưng lời chưa nói ra đã nghẹn lại ở cổ. Gã nghĩ đến Hoàn
vương chịu sự ủy thác của tiên đế, sao có thể không phải là cánh tay đắc lực của bệ hạ? Lúc bệ hạ còn nhỏ, gã từng thấy bệ hạ níu tay áo của
Hoàn vương làm nũng, cũng nghe thấy bệ hạ nói bằng giọng của một đứa trẻ con rằng hoàng thúc phải vĩnh viễn ở bên cạnh trẫm. Mà hôm nay, cũng
chính đứa trẻ yếu đuối tái nhợt trong đại điện năm nào, đang hao hết
lòng dạ muốn diệt trừ người chú ruột của hắn.
Hoàn vương đoán
được suy nghĩ trong lòng gã, nhẹ buông làn mi, chỉ đạm nhiên mỉm cười.
Nụ cười này như một tiếng thở dài, khiến lòng Vu Xà ầm ầm rúng động.
Trong nháy mắt đó Vu Xà đọc được sự lo lắng mà Hoàn vương không nói ra.
Địa vị của gã trong quân Niễn Trần rất gần với Hoàn vương, dù Thiệu
Dương có tiếp quản Niễn Trần cũng phải nhường gã bảy phần, mà về sau
Tuyên Minh đế sẽ càng đem gã ra làm quân cờ khống chế chủ soái Niễn
Trần. Nghĩ tới đây, Vu Xà cúi cười thật sâu, đầu chạm xuống đất, "Thuộc
hạ dám mang vợ con ra thề, bất kể mai này có ra sao, quyết không phản
bội Thiệu tướng quân."
Nhưng, cả nhà già trẻ lớn bé của gã đang
là con tin của Tuyên Minh đế, gã cũng không dám cãi lại ý chỉ của Tuyên
Minh đế. Để thực hiện được lời thề mãi mãi không phản bội thì chỉ có một khả năng duy nhất.
Lúc Vu Xà ra khỏi trướng, gã biết mình đã gần như đạt được kết quả mà gã vẫn luôn mong muốn khi bắn mũi tên ấy ra. Gã sẽ không bán bí mật của Tuyên Minh đế, cũng sẽ không phản bội Thiệu
tướng quân, vĩnh viễn không.
-
Hai ngày sau, liên quân Tề - Trịnh dưới sự thúc đẩy kiên trì của phe các tướng sĩ chủ chiến đã
nghênh chiến đại bộ phận quân Ngụy ở phía bắc thành La Độ, vì lý do vua
Ngụy giả vờ đầu hàng mà thực hiện được đòn đâm sau lưng kia. Đó là tháng Giêng năm Tề Tuyên Minh thứ tám, tức năm Ngụy Cẩn Hâm thứ sáu.
Căn cứ theo số lượng người tham gia, cuộc chiến này có quy mô gần ngang
ngửa với trận quyết chiến Tề - Ngụy ngay sau đó ở La Độ, nhưng duy trì
thì không quá một ngày. Con số thương vong của đôi bên cũng không quá
nghiêm trọng, tuy nhiên những biến đổi ngoài tầm dự liệu của cuộc chiến
này khiến nó vang danh đến đời sau. Lúc này, hàn mai ở nước Ngụy vừa hé
nở, ở La Độ có một giống mai đặc chủng màu chu sa ánh vàng, gọi là "Cẩm
Chi Ngọc Đài", tháng Chạp chớm nở, tháng Giêng nở rộ, trên cành cây có
những hoa văn màu nâu nhạt nên mới gọi là "Cẩm Chi". Sau, vì cố kỵ niên
hiệu của Cẩm Hâm đế nên chỉ gọi là mai Ngọc Đài. Trận giao phong lần này của liên quân Tề - Trịnh và nước Ngụy cũng vì thế mà được đời sau gọi
là "trận Ngọc Đài."
Trong trận này, cách bày binh bố trận của
liên quân Tề - Trịnh là quân Tề do Thiệu Dương thống lĩnh, kể cả Khinh
kỵ Niễn Trần, ở phía trước nghênh chiến bộ phận chủ lực của quân Ngụy do đích thân Cẩn Hâm đế dẫn đầu. Quân Trịnh binh lực yếu kém, ở hậu phương để phối hợp tác chiến. Từ cục diện này có thể thấy rõ rằng so với những trận đánh phạt Ngụy lớn nhỏ trước đây, mục đích quân sự của quân đội
hai bên có thể nói đã đổi ngược cho nhau. Liên quân Tề - Trịnh không còn mong chờ có thể tiến quân về phía La Độ, mà là thủ vững phòng tuyến
không muốn lùi về sau một tấc nào. Còn quân Ngụy thì từng bước ép sát,
thanh thế lớn mạnh. Cũng như mọi đạo khinh kỵ binh khác, quân Niễn Trần
có sức tấn công mạnh nhưng phòng thủ rất yếu, lâm trận thường xuyên xung phong chứ không phòng thủ phản công, lấy cứng đối cứng. Cách sắp xếp
của Thiệu Dương trái ngược lẽ thường, cho nên trở thành một đề tài cho
giới sử học nói mãi không dứt, cho rằng đó là một bằng chứng cho trí óc
khéo léo của vị danh tướng hàng đầu thời Lục Quốc.
Các nhà nghiên cứu sử đời sau cho rằng, trong trận Ngọc Đài, Thiệu Dương nghĩ cơ hội
chưa tới, luôn duy trì thái độ phản đối việc nghênh chiến quân Ngụy
trước đó. Dù chịu trăm ngàn áp lực mà xuất chiến, y sắp xếp cho quân
Niễn Trần dùng sở đoản, tránh sở trường, trước mắt để trấn an sự sôi sục đòi xuất chiến đến đỉnh điểm của quân Niễn Trần, thực ra lại là khiến
cho Niễn Trần không thể phát huy, tới một mức độ nào đó, ngược lại chính họ sẽ bị bộ binh, chiến xa của quân Tề vây quanh bảo vệ, bảo toàn lực
lượng một cách tối đa để chờ sử dụng về sau. Mặt khác, Thiệu Dương vẫn
một mực du di cho quân Trịnh - lúc này lòng quân rã rời vì hành vi cổ
quái của Tĩnh Hoài đế. Do đó, y không chỉ đặt phần lớn quân Trịnh ở hậu
phương mà còn đưa quân Niễn Trần di chuyển cực nhanh ở cạnh bên, nghĩ lỡ có vạn nhất sẽ cứu kịp. Hơn thế nữa, trận Ngọc Đài là trận đánh đầu
tiên mà Thiệu Dương trải qua trên tư cách chủ soái phối hợp cùng quân
Niễn Trần, điều khiển vị tất thuận buồm xuôi gió. Trong tình huống y
không hoàn toàn nắm chắc, y cho phép quân Niễn Trần xuất chiến nhưng
không cậy nhờ toàn bộ như trong quá khứ, dù có chút sợ đầu sợ đuôi,
nhưng không thể nghi ngờ là quân Tề chủ trương mong có thể giữ vững, là
lựa chọn an toàn nhất theo lý trí.
Đúng như Thiệu Dương muốn,
quân Tề hấp dẫn thành công sự chú ý của quân chủ lực nước Ngụy. Sử sách
chép lại rằng trận giao phong này tuy dữ dội nhưng không có kỹ xão gì
đáng nói, chỉ là vật lộn máu thịt một cách chân thực nhất. Quân Trịnh ở
phía sau thấy cờ phướn chập chờn biến chuyển khiến họ nhìn không kịp,
tiếng quát "giết" bị không khí im lặng của mùa đông pha loãng, nghe
không có vẻ chân thực. Họ biết quân Tề đang chiến đấu với quân Ngụy,
đang muốn thở hắt một hơi, nhưng trong một nháy mắt tiếp theo thì tuyệt
vọng phát hiện ra họ đã bất tri bất giác lâm vào vòng vây của quân Ngụy. Quân Ngụy chiến đấu với quân Tề ở phía trước không phải là giả vờ,
nhưng người Ngụy cũng không đổ toàn bộ tinh binh vào đó như quân Trịnh
nghĩ. Chỉ có thật - giả khó phân biệt như vậy mới có thể lừa được quân
Tề đang chống cự không xuể phía trước. Từ lâu đã có đội kỵ binh tinh
giáp nhân lúc hỗn loạn đánh bọc ra phía sau quân Trịnh, hòng triển khai
một cuộc tàn sát cấp tốc đã được huấn luyện kỹ càng đối với đạo quân
đang trở tay không kịp.
Quân Trịnh hoảng loạn, không biết phải
ứng phó ra sao, quân chủ của họ vì thời tiết khắc nghiệt đã đổ bệnh nằm
trên tháp mấy ngày nay, nghe nói còn nôn ra máu. Quân Trịnh đang sung
huyết, trong một khoảnh khắc cuối cùng thì thấy những bóng trắng rầm rộ
kéo tới ở phía trước, trông như hồng hoang chảy xiết hằn những những vết ngấn trên đá núi trùng điệp.
Vì thế, trong hoàn cảnh hai bên
hoàn toàn bị bất ngờ, đều phát hiện ra đã trúng kế Khinh kỵ Niễn Trần
hỏa tốc chạy tới - đạo quân mà cả quân Tề và Thiệu Dương lấy đó làm kiêu ngạo bậc nhất, lúc này đang chuẩn bị chống lại Bình Loạn vương Viên
Duẫn Đàn cùng năm ngàn quân Báo Đằng tinh nhuệ dưới trướng của y.
Về sau, giới sử gia mặc sứchăng hái bàn luận, nói rằng chuyện này chẳng qua chỉ là một sự trùng hợp nhỏnhoi mà thôi.