Sở Vọng cũng biết những điều đó chỉ là giả thuyết, là hypothesis. Trong
quá khứ, đi qua khắp đại lục châu Âu và Bắc Mỹ, biết bao con người cùng
những năm tháng ròng rã, mãi đến tận năm 1942 mới thực hiện được lò phản ứng chậm đầu tiên – từ lý thuyết cho đến thực tiễn tròn mười bốn năm.
Rồi lại bắt đầu từ năm 1942 cho đến khi đề xuất hai kỹ thuật kích nổ, từ
sáu nhà vật lý đầu tiên cho đến hơn một nghìn các nhà khoa học, hơn hai
nghìn nhân viên tính toán, hơn ba nghìn quân sĩ cùng sự nỗ lực của mấy
chục nghìn người vào cuối năm 1945. Mất thời gian ba năm, cuối cùng hai
quả bom nguyên tử “Thin man” và “Little boy” cũng đã ra đời.
Nhưng chỉ cần nghĩ đến việc đó thôi là nội tâm lại vô cùng kích động.
Nên khi tới Du Ma Địa thăm ngài Saumur và bà Nguyễn, tâm tư của cô còn đang phiêu du ở một nơi xa, không biết ngài Saumur và bà nói gì. Chỉ loáng
thoáng nhớ hình như ông ấy nói: “Tháng sau ngài Dupont sẽ đến để gặp
cháu.”
Bà Nguyễn và ngài Saumur không để bụng chuyện cô phân tâm. Nhìn cô lên xe điện, bà Nguyễn cười nói: “Hình như tôi chưa thấy con bé vui vẻ như thế lần nào, không biết là vì chuyện gì nhỉ?”
“Con người thường rất chú ý đến thứ mình yêu tha thiết.”
“Vậy chắc hẳn con bé đã gặp được chân mệnh thiên tử của mình rồi.” Bà Nguyễn cười nói.
Sở Vọng xuống xe điện, chạy bước nhỏ quay về biệt thự nhà họ Cát.
Có hai người hầu đang ở trong vườn chăm sóc hoa, một người trong đó không
nhìn thấy Sở Vọng, nhiều chuyện tán gẫu: “Bà cũng quyết tuyệt thật đấy,
nói không tổ chức tiệc là không tổ chức thật, cả cái nhà to như thế mà
chỉ mời vài ba người đến đánh mạt chược. Vừa vắng vẻ vừa buồn chán ——
cũng không biết cháu gái bà tính ở đây bao lâu nhỉ?”
Một người khác thấy Sở Vọng đi vào, lập tức huých khuỷu tay vào người bên cạnh.
Hai người nhủ thầm “chết chắc rồi”, chắc chắn cô đã nghe thấy những lời này rồi. Bà chủ chiều chuộng cô như thế, ngay đến chị Lật Thích cũng phải
đổi tên thay họ chỉ vì cô đến. Nếu cô đi mách với bà chủ, không biết bà
sẽ trừng phạt hai người thế nào đây.
Nghĩ đến đây, hai cô gái run run đứng thẳng lên, ấp úng gọi: “Chào cô ạ!”Nhưng cô chủ chẳng hề nhìn hai người lấy một lần, chỉ chạy ùa vào cửa. Hai
người đứng bên ngoài tôi nhìn cô cô nhìn tôi, nghĩ bụng: “Cô chủ không
thèm nhìn mình nữa, nhất định là mình đã chọc tức cô rồi. Lát nữa cô đến chỗ bà khóc lóc, nói không chừng bà sẽ bán chúng ta làm vợ lão què nào
đó ở quê quá…”
Hai người bị trí tưởng tượng của chính mình dọa
sợ, trố mắt nhìn nhau, buồn bã đau lòng không biết gỡ từ đâu, suýt nữa
đã òa khóc.
***
Lúc này trong đầu Sở Vọng chỉ có các
nơtron nhanh chậm cùng tia gamma, còn những chuyện không liên quan đều
bị cô tự động bỏ ngoài tai. Dù bây giờ Kim Thành Vũ có ở trần nửa thân
trên đứng trước mặt, chưa chắc cô đã chịu liếc nhìn. Thế nên hai người
hầu kia nói gì làm gì, cô cũng không hề chú ý. Ngoài hai người hầu đó
ra, rất nhiều người quan trọng đang chơi mạt chược trong nhà cũng bị cô
xem nhẹ.
Tạ Trạch Ích chơi mạt chược cả đêm, cuối cùng cũng ù
được một ván, vô tình đưa mắt nhìn ra cửa, đúng lúc trông thấy Sở Vọng
đạp cởi giày da, chân chỉ mặc tất không xỏ thêm dép, cẩn thận ôm một xấp tài liệu đựng trong túi da bò, nét mặt rất trịnh trọng lại vui vẻ chạy
rầm rầm lên lầu.
“…” Tạ Trạch Ích trải bốn quân Lục Văn lên mặt
bàn vải trắng, cười nói, “Dì Cát này, tôi còn tưởng cháu gái dì tính nết lạnh lùng, sẽ không bao giờ kích động, xem ra tôi nghĩ sai rồi.”
Bà Cát đang cần quân Lục Văn, thấy bốn quân Lục Văn trong tay anh thì vừa tức vừa cười: “Thấy Sở Vọng về?”
“Về rồi. Trên mặt có…” Tạ Trạch Ích cân nhắc lựa lời, muốn nói đến từ
‘thiếu nữ hoài xuân’, nhưng dường như lại cảm thấy không thích hợp lắm.
Khổ một nỗi thiếu vốn từ vựng nên sau một hồi lâu nghĩ ngợi, anh mới
chậm rãi thốt ra: “Có nụ cười ‘mới biết yêu’.”
Bà Cát gắt anh,
“Con bé có bạn trai rồi, là chồng chưa cưới của nó, không phải cậu đã
gặp rồi sao? Cái gì mà mới biết yêu?” Nhưng rồi nghĩ lại, bà Cát chợt
nhớ tới những lúc Sở Vọng ở bên chàng trai kia, trông con bé có vẻ rất
lý trí, dù quan tâm vẫn rất bình tĩnh. Còn tình cảm của chàng trai kia
thì rất nhiệt tình thẳng thắn, chữ tình toát lên qua từng cử chỉ và chân mày khóe mắt, ấy nhưng bà lại không thấy điều đó ở cháu gái bà, có nhìn thế nào cũng chỉ thấy nó có thái độ nghiêm túc đầy miễn cưỡng với tờ
giấy hôn ước kia. Nghĩ đến điều này, bà Cát hỏi Tạ Trạch Ích: “Con bé
mới cười thật à? Cười thế nào, cậu làm thử tôi xem.”
Tạ Trạch Ích mỉm cười: “Dì bảo tôi học thế nào đây?”
Hai bà khác trên bàn mạt chược bị anh chọc cười.
Tò mò với tình trạng đang yêu của cháu gái, bà Cát không còn tâm trạng
chơi mạt chược nữa. Bà đứng dậy gọi Mật Thu đến, dặn cô lên lầu xem Sở
Vọng thế nào. Một lúc sau, Mật Thu đi xuống thưa: “Cô chủ vừa về phòng
là ngồi vào bàn, viết vẽ gì đấy rất hăng hái. Em bảo phòng bếp hấp ít
bánh ngọt và sữa nóng, lúc bưng lên đặt xuống cạnh cô, cô cũng không để ý đến em… Vô cùng tập trung, em nghĩ có lẽ đã gặp phải người hay chuyện
nào đó quan trọng rồi.”
Bà Cát gật đầu. Chuyện quan trọng à, chỉ
cần không phải giết người phóng hỏa thì bà đều có thể giải quyết cho cô; mà cho dù có giết người phóng hỏa, bà cũng có thể nghĩ cách bảo vệ cô.
Người quan trọng ư… Về vấn đề này, bà Cát rất tò mò —— ra cửa một chuyến đã
gặp được người quan trọng, là ai trên hòn đảo Hương Cảng này đây?
Đọc đến bài viết của Từ Thiếu Khiêm nói về hạt alpha bắn phá nguyên tố nhẹ, cuối cùng Sở Vọng cũng thở phào nhẹ nhõm —— tuy khoa Vật lý của đại học Hương Cảng chỉ mới được thành lập, nhưng nước Anh đã vung tay dựng lên
phòng thí nghiệm khá tân tiến —— chí ít là vẫn có buồng sương Wilson*.
(*Buồng sương Wilson là thiết bị chứa hơi nước mà trong đó, hạt tích điện và
tia X lẫn tia gamma được nhận dạng nhờ giọt hơi nước ngưng đọng.)
Có một tiền đề cực kỳ quan trọng đối với phản ứng phân hạch: Đó chính là
nơtron nhanh. Tuy sự tồn tại của hạt nơtron đã được tìm thấy vào năm
1920, nhưng sau hơn 7 năm nó vẫn chỉ là giả thuyết, nhiều nhà khoa học – bao gồm cả phòng thí nghiệm Cavendish* – vẫn hiện đang cố gắng xác nhận sự tồn tại của nó. Bothe và Becker (những người nghiên cứu ra vụ bắn
các hạt alpha vào tấm Beryllium), cùng với con gái và con rể của Marie
Curie (theo dõi “bức xạ trung tính”) đều lỡ mất dịp phát hiện ra nơtron
vào năm 1930, chắp tay “nhường” giải Nobel cho học trò của Rutherford là Chadwick.
(*Đây là một trong những phòng thí nghiệm nghiên cứu phát triển mạnh ở Vương quốc Anh về các lĩnh vực công nghệ cao.)
Từ Thiếu Khiêm cách sự phát hiện này cả một bước xa.
Vì thế chỉ cần thử nghiệm buồng sương bắn hạt alpha nhiều lần, khiến Từ
Thiếu Khiêm ý thức được “bức xạ trung tính” có nguồn gốc từ thứ không có điện tích, có khối lượng tương đương hạt nhân, thứ mà bảy năm trước
Rutherford đã nêu ra – chính là “nơtron”.
Vậy là có thể chứng thực được nó rồi!
Sở Vọng viết rất nhiều công thức chiếu xạ lên giấy nháp, cũng dựa vào luận văn của Từ Thiếu Khiêm mà thử đặt câu hỏi ngây thơ cho bản thân —— Vì
sao lại tồn tại bức xạ trung tính còn mạnh hơn cả tia gamma, có phải là
do không bảo toàn được số khối nguyên tử không?
Lúc liệt kê các
công thức và đặt ra câu hỏi này, Sở Vọng không ý thức được rằng cô và
công thức toán học của mình đã trở thành “quan hệ tình yêu” trong mắt bà Cát.