Uy Túc Công Trần Văn Bích năm nay vừa tròn mười lăm, là trưởng nam của Văn Túc Vương Trần Đạo Tái, gọi Vũ Túc Vương bằng thúc phụ. Một nhà ba
người bọn họ đều là hậu duệ của Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Đại
Vương Trần Quang Khải, đương nhiên là mã nghệ lẫn binh pháp hay chiến
thuật đều uy vũ hơn người.
Bên này luận về vai vế chỉ có Văn Hiến Hầu Trần Thánh Quang - nhi tử
của Chiêu Văn Đại Vương là có thể so sánh với hai vị vương gia. Nhưng
xét về tuổi tác thì Thánh Quang cũng chỉ ngang tuổi Văn Bích, cùng với
Quốc Chẩn và Hiển Duệ Bá Trần Công Xước – đệ đệ ruột của Nguyên Phi, cả
ba cũng chỉ là bậc hậu bối.
Nếu luận về chức vị, phong hiệu Đại Vương lớn hơn Vương, tiếp theo
mới đến các chức Công, Hầu, Bá, Tử và cuối cùng là Nam. Quốc Chẩn mang
chức Đại Vương, nhưng chỉ vì là hoàng tử Đại Việt mới được lệ ban cho
chức vị hiển diệu ấy. Như vậy xét về tuổi tác lẫn thứ bậc, đội của Văn
Túc Vương vẫn oai vệ hơn.
Có câu anh hùng thì không hỏi xuất thân, dẫu bọn họ có là ai đi nữa
thì sân rồng lúc này chỉ có hai địch thủ và một kẻ chiến thắng. Một nhà
ba người Văn Túc Vương đương nhiên muốn thắng để làm rạng danh Chiêu
Minh Đại Vương, thế nhưng thúc phụ của bọn họ - Chiêu Văn Đại Vương cũng rất muốn phần thắng thuộc về đội của Thánh Quang nhi tử của mình.
Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung đương nhiên cũng muốn Công Xước
làm nở mặt gia tộc, cứ thế mà vui vẻ nói cười với các đại thần xung
quanh để sao nhãng sự hồi hộp.
Tưởng chừng bình thản nhưng lại lo lắng nhiều nhất có lẽ là Thái hậu, bà vốn đã dặn dò Quốc Chẩn không được tiến sâu vào vòng sau. Ai ngờ
tuổi trẻ hiếu thắng, bây giờ đội của chàng đã đối đầu với Văn Túc Vương. Chỉ mong sao ba thiếu niên trẻ tuổi này đừng quá ngạo mạn!
Tiếng trống nổ lên, khắp sân rồng vang vọng tiếng hô hào cổ vũ. Huyền Dao và Đàm Hoa có chút hào hứng, trong dạ thầm mong Công Xước có thể
giành lấy phần thắng. Độ chừng nửa nén nhang trôi qua, thế nhưng hai bên vẫn đối kháng kịch liệt. Lúc này khó có thể nhận ra ai đang đắc thế,
bởi vì so sánh tài nghệ thì chỉ có thể dùng một câu “kẻ tám lạng người
nửa cân” để miêu tả uy vũ hiện tại của hai đội.
Chợt nghe đâu đó thanh âm trong trẻo vang lên bên tai: “Cái người vận lam y đó là ai thế?”
Một thanh âm tinh nghịch khác đáp lời: “Huynh ấy là Uy Túc Công”
Thanh âm trong trẻo liền nhỏ nhẹ: “Muội nhìn xem, Uy Túc Công dường như đã đưa cầu đến nơi rồi”
Liền sau đó là tiếng đám đông hò reo: “Trúng rồi trúng rồi”
Cả thanh âm tinh nghịch và trong trẻo kia bấy giờ cũng hoà với đám đông mà cảm thán: “Giỏi thật!”
Nguyên Ninh đưa mắt nhìn lên, thì ra cuộc trò chuyện đó là của hai vị công chúa Thượng Trân và Huyền Trân. Nàng trong đầu ngời ngợi, chợt
nhận ra thanh âm tinh nghịch có chút quen thuộc, thế mà chẳng nhớ rõ là
mình đã nghe khi nào.
Vậy là đội của Văn Túc Vương đã ghi được điểm đầu tiên, người xuất
sắc giành điểm chính là Uy Túc Công Trần Văn Bích. Thái hậu thở ra một
tia nhẹ nhõm, vừa nãy bà cũng đã tinh ý nhận ra một chuyện khiến bà hài
lòng. Văn Bích thật ra có thể ghi điểm là do Quốc Chẩn có ý khiêm
nhường, xem bộ chàng cũng biết cân nhắc nặng nhẹ.
Nửa nén nhang còn lại trôi qua trước sự đối kháng kịch tính của sáu
con ngựa, tuy vậy lại không có điểm nào được ghi. Như thế phần thắng
cuối cùng thuộc về đội của Văn Túc Vương, đây cũng là kết quả được lòng
mọi người nhất.
Tiếp nối mã cầu chính là trò phao cầu (ném bóng). Trái với trận đấu
kịch tính khi nãy, trò phao cầu này sinh ra là để tạo không khí vui vẻ
cho mọi người. Người tham gia không phải là nam tử, mà chỉ là nữ nhân và nội thị.
Một đội cũng gồm có ba người, trong đó có nội thị, cung nữ và một vị
hoàng nữ. Hoàng nữ này có thể là công chúa, quận chúa, thậm chí có thể
là tần phi nếu muốn tham gia.
Đảo mắt nhìn, chỉ thấy ở đó ngoài đội của Thiên Trân, Huyền Trân và
Thượng Trân, còn có đội của Thánh An Quận chúa. Một số phi tần cũng ham
vui mà tham gia, ở đó có Đan Thanh, Như Lộ và một vài Ngự nữ khác muốn
được Quan gia chú ý.
Vị nữ quan đứng tuổi ở đó dựa theo thể trạng các đội mà sắp xếp đối
kháng, Huyền Trân đấu với Thượng Trân, Thiên Trân được xếp với Thánh An, còn Đan Thanh cũng được xếp với Như Lộ, các Ngự nữ còn lại ngẫu nhiên
ghép cặp với nhau. Chỉ thấy trận đấu của các nàng Ngự nữ kia có phần tẻ
nhạt, chủ yếu bọn họ nhân cơ hội này để được lọt vào mắt xanh của Quan
gia. Cứ thế mà cố tình làm ra vẻ yểu điệu thục nữ, trông thật buồn cười.
So với trận đấu nham nhở của bọn họ, trận đấu của hai vị công chúa có phần thú vị hơn. Khác với nét đoan thục thường ngày, Thượng Trân công
chúa trên sân rồng lúc này vô cùng háo thắng. Nhưng Huyền Trân công chúa cũng chẳng thua kém gì, nàng trước giờ tinh nghịch và nhanh nhẹn, so
với Thượng Trân thì linh hoạt hơn nhiều. Cứ thế mà thuận lợi cướp được
quả cầu bằng gấm có nhiều sợi tua về ném trúng về đích.
Kịch tính hơn nhiều là trận đấu của Trưởng công chúa Thiên Trân, nàng trước giờ không hề liễu yếu đào tơ, nhưng không ngờ Thánh An Quận chúa
lại hơn mình một bậc. Nếu không chú ý, có lẽ thì suýt nữa đội của nàng
đã bị thất thủ. Cũng may là có cận tỳ Mặc Đan dốc hết toàn lực, như thế
mà đội của nàng mới cầm cự đến phút chót mà nhận lấy kết quả hoà nhau.
Phần thi đấu của Đan Thanh và Như Lộ lại có bất ngờ lớn. Đan Thanh
trước giờ cương lãnh, còn Như Lộ thì khả ái ôn thuận, chẳng ngờ trên sân đấu bây giờ Như Lộ lại chiếm ưu thế. Nguyên Ninh đưa mắt chăm chú nhìn
về phía Đan Thanh, chợt thấy thần sắc của nàng ta không được bình
thường, sắc mặt dường như có chút trắng bệt.
Chỉ một lúc sau Đan Thanh đã không cầm cự được mà ngã quỵ xuống, hết
thảy mọi người ở đó đều lo lắng. Thái y túc trực xung quanh liền nhanh
chân chạy về phía nàng, hồi sau nét mặt ông ta niềm nở hẳn ra. Vị thái y đó quay về phía Thượng hoàng mà nói vang vọng, từ chỗ ông ta nói đến
Chúng Tiên Đài mà vẫn nghe rõ rành mạch: “Chúc mừng Thượng hoàng, chúc
mừng Quan gia! Vị chủ nhân này đã mang long mạch!”
Thượng hoàng cao hứng, Quan gia cũng ngồi không yên, liền đứng dậy
hấp tấp chạy xuống cầu thang mà hướng về phía Đan Thanh. Ở đó chỉ toàn
là tiếng hò reo hoan hô của con dân Đại Việt, Thượng hoàng chậm rãi mà
bước lên một bước, vuốt râu dõng dạc nói: “Hôm nay nhân lúc ngày lành
tháng tốt, mà Đại Việt ta lại có tin vui, chi bằng chúng khanh gia tiếp
tục ở lại dự dạ yến, hôm nay chúng ta không say không về!”
Xung quanh tiếp đó là tiếng hò reo tán dương, không khí sôi nổi rạng
rỡ vô cùng. Nguyên Ninh cũng theo đó mà có một tia vui vẻ, nghe nói hậu
cung lâu rồi không có tin vui, lần này đúng thật là chuyện hoan hỷ.
Dạ yến hôm đó đặc biệt náo nhiệt, Quan gia cao hứng, trên bàn tiệc
liền đem hai chuyện vui nói với tất cả mọi người. Chuyện thứ nhất chính
là đem Xuân Ninh Cung thưởng cho Thiên Trân công chúa, còn chuyện thứ
hai là lấy hai mỹ từ "Thuần Nghi" ban cho Liễu Phu nhân. Chữ "Thuần" này ý khen nàng ta trong sáng mộc mạc, còn chữ "Nghi" lại nói nàng biết
tuân thủ phép tắc, đối với các vị phi tần bên trên giữ trọn lễ nghĩa.
Đan Thanh lẩm bẩm cái phong hiệu vừa được ban kia, bất giác nhớ lại
bản thân mình ngày trước. Đó là một ngày cuối thu nọ cách đây không lâu, Đan Thanh khi ấy còn là một tiểu cung nữ làm việc ở Thuỷ Vân Quán. Lúc
đó nàng được lệnh hầu hạ các vị hoạ sư tại Lạc Thanh Trì, vào dịp bọn họ đàm đạo hoạ thi cùng với Quan gia.
Tên của nàng chữ "Đan" có nghĩa là màu đỏ, còn "Thanh" thì có nghĩa
là màu lục, hai màu này xuất hiện thường xuyên và tượng trưng cho hội
hoạ bấy giờ.
Đan Thanh vô cùng kính cẩn và thận trọng, suốt cả thời gian hầu hạ ở
đó gần như chỉ dám cúi mặt làm việc. Đến lúc các hoạ sư cung tiễn Quan
gia và lần lượt ra về, nàng mới ngẩng mặt mà dọn dẹp bút mực. Chợt thấy
trước mắt có con chim hoàng anh đậu trên cành quế bên cửa sổ, dáng vẻ
của nó thật giống như sắp sửa đập cánh bay đi. Đan Thanh theo đó mà
không chậm một khắc vương tay bắt lấy con chim, đâu biết thật ra đó chỉ
là một bức hoạ đồ.
Có nụ cười phát ra từ sau lưng, Đan Thanh xấu hổ quay người nhìn lại, bất giác trông thấy Quan gia đứng trước mặt nhìn mình. Thì ra con chim
hoàng anh đó là do chính Quan gia vẽ. Dưới ánh nắng hoàng hôn huyền
huyền ảo ảo, con chim kia uyển chuyển sinh động đến mức chân thật. Đan
Thanh dẫu làm việc đã lâu tại Thuỷ Vân Quán, nhưng với sự ngây ngô thuần khiết của mình, nàng lại tưởng trong tranh ở đó là một con vật sống
thật sự.
Sự mộc mạc này của Đan Thanh sau đó được thay bằng chức vị Ngự nữ. Cứ thế mà Liễu Ngự nữ ngày đó trải qua một năm hầu hạ Quan gia, được phong làm Phu nhân, và bây giờ lại có hai mỹ từ Thuần Nghi làm phong hiệu.
Quan trọng là trong bụng nàng hiện tại còn mang long mạch của Trần tộc,
là thứ mà khắp cả hậu cung này ngày đêm mơ đến.
Đúng vậy, tất cả tưởng chừng như một giấc mơ, thật thật giả giả không khác gì bức hoạ đồ hoàng anh chi điểu năm đó nàng đưa tay bắt lấy. Đan
Thanh đưa tay nhẹ nhàng xoa bụng, bước xuống ghế mà hành lễ đa tạ ân
điển này của Quan gia, chợt nghe bên tai là tiếng của Thái hậu: "Không
cần hành lễ, mau ngồi lại xuống ghế đi. Bây giờ con đã mang hoàng tôn
của ai gia, nhất định phải bảo dưỡng cơ thể cho chu toàn"
Thái hậu nói xong câu đó liền gọi một tiếng "Tịnh Văn". Tịnh Văn cô
cô nghe theo mà kính cẩn nói: "Thái hậu nương nương xin hãy dặn dò ạ"
Thái hậu vui vẻ nói: "Ngày mai ngươi hãy đến Ngự thiện phòng chọn ra
một số trù sư tinh nghệ. Nữ nhân mang thai khẩu vị thay đổi thất thường, hãy dặn dò bọn họ làm ra những món vừa ngon vừa bổ cho Thuần Nghi Phu
nhân có hiểu không?"
Tịnh Văn cô cô cúi đầu mà vâng dạ, trong đại điện bấy giờ ai cũng
nghe thấy điều đó, phút chốc trong lòng bọn họ chợt sinh ra một chút
ghen tị. Thế nhưng chẳng ai dám phát ra một chút tiểu tâm ấy, ngược lại
đều đồng loạt phô cái bộ mặt hoan lạc tươi vui che lấp đi.
Chỉ thấy trong tiếng cười reo vui vẻ, bất chợt ở đâu đó có năm móng
tay bấu chặt vào da thịt, trong lòng người ấy tràn đầy lửa giận, nhưng
vẻ mặt vẫn phải cố tỏ ra bình hoà. Thỉ ra trong chốn cung cấm này, niềm
vui của người khác đôi khi lại là vết cắt trong lòng mình!
Có điều không phải ai cũng có thể dễ dàng để lộ tâm tư, như thế mới
thật là khó bề phòng bị, như thế mới là chốn cung cấm thâm sâu!
Kể từ lúc Đan Thanh có thai, nàng đã được các vị ma ma trong cung
chăm sóc chu đáo. Đám vật nuôi ở Trúc Hoa Viện cũng đã được dời đi chỗ
khác. Mọi sự tính toán chu toàn, cốt là để cho Đan Thanh nghỉ ngơi một
cách an hảo. Đan Thanh về chuyện này đúng là có chút hối tiếc, tuy nhiên nàng đã bắt đầu cảm nhận được đứa trẻ trong bụng, tình thương dành cho
nó so với những con vật kia lớn lao hơn nhiều.
Quan gia đặc biệt xem trọng cái thai này của nàng, ngay cả Thượng
hoàng và Thái hậu cũng thế, cứ cách dăm ba bữa là đến thăm hỏi.
Huyền Dao là hậu cung chi chủ, đương nhiên vì chuyện này mà tốn nhiều tâm sức tính toán chu toàn. Nàng từ sớm đã miễn lễ thỉnh an cho Đan
Thanh, lại nghe nói nàng ta kể từ lúc mang thai thì sinh ra chứng khó
ngủ, lúc nào cũng cảm thấy trong người nóng bức, cho nên liền đích thân
dặn dò các ma ma, trù sư và thái y, cố gắng tìm ra những phương cách
điều trị cho mẫu tử hai người bọn họ khoẻ mạnh an hảo.
Bởi vì Đan Thanh nóng bức trong người, cho nên hậu cung gần đây xuất
hiện lời đồn đại khá đáng tin. Trong cung bàn tán, nói rằng Đan Thanh có thể đang mang một vị hoàng tử. Bọn họ suy đoán rằng dương khí của đứa
trẻ hoá vượng, cho nên âm khí của mẫu thân mới bị áp đảo, rốt cuộc sinh
ra chứng nóng nhiệt.
Quan gia nghe thế thì vô cùng vui mừng, theo đó mà thêm phần quan tâm đặc biệt đến nàng. Đan Thanh trước giờ an phận, tuy nhiên từ lúc mang
thai nhận nhiều đặc ân, cho nên cũng sinh ra chút thích thú mà ngạo mạn.
Phút chốc cũng đã được một tháng kể từ Tết Đoan Dương, thời tiết dạo
này càng ngày càng nóng. Đàm Hoa nhìn chiếc ghế trống chỗ Đan Thanh vẫn
hay ngồi, có chút buồn bực mà buông lời chán ghét: “Mang thai thôi mà,
nhất định phải làm ra vẻ khổ sở như thế sao?”
Thiên Tuyết cười cợt: “Thục Phi chưa từng mang thai, làm sao có thể biết được cảm giác của nó như thế nào cơ chứ?”
Đàm Hoa nghe thế thì vô cùng tức giận, nhưng cũng cố gắng bình tĩnh
đắc ý nói: “Cô thì sao? Cô thì biết nhiều hơn bổn cung chắc?”
Thiên Tuyết cong chân mày mà tiếp lời: “Người ta nói nữ nhân mang
thai trong ba tháng đầu tiên sẽ đặc biệt chịu nhiều khổ sở, hơn nữa ba
tháng này phải cực kỳ cẩn thận. Không chỉ Thuần Nghi phải tự mình cố
gắng an dưỡng, mà bậc Phi vị chúng ta cũng phải quan tâm đặc biệt đến
nàng ấy. Tuyệt không phải ngồi đó nói những lời không biết nặng nhẹ như
cô!”
Đàm Hoa cười khinh mạn: “Cô cũng đã nói rồi đó, ba tháng đầu không ai nói trước được chuyện gì. Bây giờ Thuần Nghi cũng chỉ có mang được hơn
hai tháng, nếu có bất trắc gì thì cũng là điều đã lường trước, có liên
can gì đến chúng ta cơ chứ?”
Huyền Dao nghe thế mà chau mày: “Đang yên đang lành, Thục Phi sao lại nói những lời không hay như thế? Chuyện này không được nhắc nữa!”
Đàm Hoa bị khiển trách, cũng chỉ đành ngượng ngập vân vê búi tóc. Ở
điện Thiên Đăng sau đó chẳng còn chuyện gì để tán gẫu, đám phi tần ở đó
cũng lần lượt cáo lui. Tâm trạng mỗi người mỗi khác, nhưng chung quy
chẳng mấy vui vẻ gì.
Đàm Hoa quay trở về cung mà mồ hôi lấm tấm đầy trán, liền nhanh chóng giục Hạ Trúc: “Quạt quạt cái gì? Còn không mau đem thứ gì tươi mát lên
cho bổn cung giải nhiệt?”
Hạ Trúc cười trừ mà nhẹ giọng nói: “Nô tỳ đã gọi Hạ Tử đi lấy chén nước mơ ngũ vị rồi ạ, lát nữa cô ta sẽ mang lên đây ngay!”
Đàm Hoa chau mày thở ra một hơi chán ghét nói: “Nước mơ? Thường ngày
bổn cung vẫn dùng trái cây mùa hè giải nhiệt, sao hôm nay chỉ có nước
mơ?”
Hạ Trúc ấp úng: “Dạ thưa nương nương, trái cây tươi hôm qua đã hết,
phải đợi trưa nay người ở Ngự thiện phòng đem đến thì mới có ạ!”
Đàm Hoa tức giận đến đỉnh điểm, đưa tay với lấy chiếc quạt trong tay
Hạ Trúc mà ném vào búi tóc nàng ta: “Hồ đồ! Trong Hội Xuân Cung cũng có
chuyện thiếu thốn ư?”
Hạ Trúc quỳ xuống mà hốt hoảng nói: “Dạ thưa là do hôm qua chủ nhân
cao hứng mời mấy vị Ngự nữ đến đây trò chuyện, cho nên trái cây lúc đó
đã được mang ra…”
Đàm Hoa đập vào thành ghế quát: “Im miệng! Ngày trước cũng đều làm thế, chẳng phải vẫn vô sự hay sao?”
Hạ Trúc cúi đầu nói: “Là do dạo này Ngự thiện phòng cắt giảm trái cây của các cung, bọn họ nói Thuần Nghi Phu nhân ở Trúc Hoa Viện cần nhiều
trái cây để giải nhiệt, cho nên tất cả những loại trái cây tươi ngon đều được đem đến đó ạ!”
Đàm Hoa nghiến răng nói: “Thì ra là thế! Bổn cung quên mất, ả ta bây
giờ đang mang long thai cơ mà, có còn xem bổn cung ra gì đâu! Hừ, “Thuần Nghi”? Ả ta xứng sao? Cũng chỉ là một cung tỳ hầu hạ bút mực ở Thuỷ Vân Quán ngày trước!”
Đàm Hoa nói đến đó thì Hạ Tử đã mang chén nước mơ lên, nàng ta thấy
Hạ Trúc đầu tóc rối bời vì bị quạt ném, có chút sợ hãi mà từ từ tiến lại gần Đàm Hoa.
Đàm Hoa tức giận, trông thấy điệu bộ của nàng ta như thế mà phẫn nộ
đến đỉnh điểm, thuận tay mà hất chén nước mơ vỡ tan tành dưới nền đất:
“Cũng là lũ nô tỳ các ngươi vô dụng, chẳng biết dùng uy danh của bổn
cung mà sai khiến đám người ở Ngự thiện phòng đó sao? Kể từ lúc mất đi
Hạ Thuỷ, bổn cung thật sự không có ngày nào là vừa ý! Mau gọi Hạ Phu
nhân đến đây!”
Hạ Trúc và Hạ Tử theo đó mà bối rối rời đi, Đàm Hoa tức giận quát:
“Hai người các ngươi đều bỏ đi thì ai dọn dẹp mớ hỗn độn này?”
Hạ Trúc vì thế mà đành ở lại dọn dẹp mảnh vỡ, Đàm Hoa liếc nhìn nàng ta mà chán ghét nói: “Ngu xuẩn!”