Thu hoạch liên tục đến hạ tuần tháng 3 mới xong, cánh đồng vàng ươm
ngày nào giờ chỉ toàn gốc dạ nham nhở, thi thoảng vẫn có đàn vịt trời từ đâu đến vét lại những hạt thóc cuối cùng còn sót lại trên đồng. Gặt lúa xong nhưng còn chưa hết việc, nông dân còn tiếp tục phải đập, tách hạt
ra, rồi mang đi phơi. Không như thời hiện đại có các loại máy gặt đập
liên hoàn, thời này, nông dân vẫn hoàn toàn làm thủ công bằng tay.
Những năm đầu thế kỉ 21, đất nước mới mở cửa còn nhiều khó khăn, nông dân
vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng chỉ có máy tuốt lúa đơn giản, một số nơi còn
sử dụng máy tuốt lúa chạy bằng sức người, vất vả vô cùng, nói chi thời
phong kiến, máy tuốt lúa chạy bằng sức người cũng không có.
Lại
nói tiếp, Việt Nam mang tiếng cải cách mở cửa từ năm 1986 nhưng thực sự
phải đến những năm 90 của thế kỉ 20, đặc biệt sau năm 1995 thì ta mới mở cửa hội nhập thực sự. Trước đó, vừa kết thức chiến tranh giải phóng
miền Nam năm 1975, ta lại phải tiến hành chiến tranh Biên giới Tây Nam
chống quân xâm lược Pôn Pốt, rồi gửi quân tình nguyện sang giải phóng
nước bạn, chính vì điều này mà Việt Nam bị gọi là tiểu bá ở Đông Nam Á.
Thực sự, vừa đánh nhau xong, mặc dù không ngán ai nhưng ta cũng cần thời gian hồi sức rồi mới đánh tiếp chứ, Cam lúc đấy cũng không giàu có gì,
một nghèo hai trắng, lại thêm Pôn Pốt thảm sát, sót lại chả được mấy
người. Nhưng Pôn Pốt có chống lưng lại hung hăng tấn công nước ta, thế
nên ta đành phải mang quân tiêu diệt luôn Pôn Pốt, chứ ta có muốn đâu,
Việt Nam là một dân tộc yêu chuộng hoà bình.
Rồi sau lại đến
chiến tranh biên giới phía Bắc, hơn 60 vạn quân Trung Quốc đồng loạt
tiến công toàn tuyến biên giới, lúc đó quân chính quy ta đang ở Cam hết
rồi, biên giới còn lực lượng quân địa phương cùng công an vũ trang, nguy hiểm vô cùng, nhưng quân ta anh dũng mà cản được giặc, không cho chúng
thực hiện được âm mưu tiến sâu, đánh chiếm Hà Nội. Sau đó ta thực hiện
Tổng động viên, chuyển quân bằng đường không từ Cam qua, quân Trung Quốc lập tức rút lui nhưng chúng không quên phá hoại cơ sở vật chất cùng
khủng bố dân chúng biên giới. Nhưng chuyện đâu có xong, liên tục từ 1979 đến đầu những năm 90, biên giới phía Bắc không lúc nào yên, liên tục có xung đột cỡ vừa và nhỏ giữa ta và Trung Quốc, chỉ là không bùng nổ
chiến tranh như năm 79.
Một lúc chiến đấu ở 2 chiến tuyến, phía
Tây, phía Bắc, quân thường trực luôn duy trì trên 1 triệu người, một
gánh nặng kinh tế vô cùng to lớn đối với nước ta, khi vừa kết thúc chiến tranh chống Mỹ. Có ý kiến cho rằng, Trung Quốc liên tục xung đột ở biên giới sau năm 79 hòng uy hiếp, khiến nước ta luôn duy trì số lượng lớn
quân chính quy, từ đó kéo sụp nền kinh tế Việt Nam, nhân tiện Trung Quốc có thể luyện quân đội của chúng và hướng dư luận Trung Quốc tới chiến
tranh, xem nhẹ các mâu thuẫn trong nước khi đang tiến hành cải cách mở
cửa…..
Bởi vậy, đất nước ta thực sự được yên bình để phát triển kinh
tế chỉ từ những năm 90 của thế kỉ 20, lại còn hậu quả nặng nề chiến
tranh để lại. Vậy nên những năm đầu thế kỉ, cuộc sống nhân dân còn nhiều khó khăn, bọn phản động trong nước rục rịch phá hoại chính quyền nhưng
nhanh chóng bị trấn áp, tiêu diệt. Chỉ với gần 30 năm hoà bình phát
triển kinh tế mà nước ta đã giành được những thành tựu như hiện nay đã
là rất đáng quý, còn muốn phát triển mạnh như Tây như Tàu thì còn cần sự cố gắng của thế hệ trẻ. Cha ông hy sinh biết bao xương máu để đổi lấy
hoà bình mà giờ cứ hở ra thì chửi chính quyền, so sánh này nọ rồi chê
bai đất nước, thử vắt tay lên trán mà nghĩ xem, cứ chỉ biết chửi đổng
như thế thì bao giờ Việt Nam mới sánh vai được với các cường quốc năm
châu được. Đành rằng đất nước còn nhiều hạn chế nhưng việc gì cũng cần
có thời gian, Tây Tàu người ta có hoà bình để phát triển kinh tế mấy
chục năm, trăm năm rồi, chưa kể người ta có cơ sở công nghiệp, khoa học
giáo dục các thứ từ lúc ta vẫn còn là thuộc địa ấy. Đừng so sánh linh
tinh khập khiễng rồi chửi bới, tự thay đổi mình đi thôi, tự cố gắng, một người chưa chắc thay đổi được thế giới, nhưng bạn thay đổi, rồi những
người xung quay thanh đổi, rồi hàng trăm hàng triệu người thay đổi, sống tốt hơn, ý nghĩa hơn thì lúc đấy đất nước sẽ tốt đẹp hơn, rồi thế giới
sẽ tốt đẹp hơn.
Bác nói đất nước ta “rừng vàng, biển bạc, đất phì
nhiêu”, đúng, rất đúng, nhưng mà ta đổ vào chiến tranh hết rồi, đổ vào
kiến thiếtt hậu chiến tranh hết rồi. Giờ còn mỗi con người thôi, thế nên hãy cố gắng đừng phụ lòng cha ông đi trước,không cả đến lúc gặp các cụ
lại nhục không ngẩng mặt lên được.
Lan man quá nhiều…... Đại Hải
vốn là người con vùng quê Bắc Bộ, sinh ra và lớn lên lúc đất nước còn
nhiều khó khăn, chính vì vậy hắn cũng biết cái máy tuốt lúa chạy bằng
sức người (dùng bàn đạp) thứ này không phức tạp, dễ chế tạo, hiệu xuất
cao nên nhanh chóng được thợ thủ công chế tạo ra và phổ biến khắp Thuận
Hoá, giúp sức nông dân rất nhiều. Tiếc nỗi, hắn biết máy sát gạo nhưng
chưa thấy cái máy sát gạo nào dùng sức người hay súc vật nên không biết
chế, đành để nông dân thực hiện kiểu truyền thống, giã gạo thôi. Tương
lai hắn sẽ cổ động việc sáng tạo ra thứ máy đó nhưng hiện giờ thì đành
bất lực.
Lúc này Phú béo cũng vừa đi buôn trở lại, bán đi được hết số da lông sừng thú tích trữ, lại mua thêm được một chiến thuyền cùng 2 toạ thuyền của nhà Minh, còn gần chục lượng bạc, phần nào làm bớt cơn
khát tiền của Đại Hải.
Thuyền Minh không tốt đi biển nhưng tại
sao Đại Hải vẫn mua ư? Vì hắn còn chưa có điều kiện đóng thuyền, thợ
không có, gỗ cũng không, bên Tân đảo chặt được món đấy nhưng là gỗ tươi, đóng thuyền cũng được nhưng tuổi thọ chỉ có 1 2 năm, không đáng. Hắn
cũng không có việc gì gấp hay hải chiến cần đánh, nên cứ mua tạm thuyền
nhà Minh đã, dù gì thuyền nhà Minh đều rất to, phù hợp với mục đích
chuyên chở của hắn lúc này. Không hơn. Còn đóng các loại thuyền buồm
chiến kiểu phương Tây, thuận tiện cho việc đi biển thì để sau tính.
Quay lại đại sảnh, Phú béo đang hội báo cho Đại Hải thu hoạch của chuyến này, lần này hắn đi gần nên nhanh, chỉ một tháng đã về.
“Phú béo, lần này ngươi không cần ra biển nữa. Ở nhà nghỉ ngơi dăm bữa
nửa tháng, lo việc buôn bán ở Đại Việt là được. Mà chuyện ta nói ngươi
cho người đi làm chưa?” Đại Hải hỏi.
“Rồi, đại nhân. Thương hội Lạc
Hồng giờ là điểm đến ưa chuộng của dân người Thượng, cũng như người Mông cùng các dân khác vùng này. Họ trực tiếp mang da lông, sừng thú, gỗ quý đến đổi muối, gạo, vải vóc từ chỗ chúng ta. Lại rất xông xênh hào
phóng, không mặc cả nhiều.” Phú béo đáp.
“Hừm, là do chúng ta ra tay xa hoa thôi, thương nhân Chiêm, Việt làm sao bằng được. Ở đâu mua được muối rẻ thế.”
“Đại nhân nói phải, muối của ta vừa trắng, vừa rẻ, rất được ưa dùng. Nhưng
sao đại nhân không chuyển lên mạn sông Hồng bán, thế được giá hơn, lại
đỡ vất vả. Người miền núi da lông tuy tốt, nhưng không thật bằng vàng
bạc.” Phú thắc mắc
“Mạn Thăng Long nhìn như béo bở đấy nhưng bánh
ngọt chia cắt hết rồi, không nói đến hoàng thân quốc thích công hầu quý
tộc, mấy thương hội lớn trên đó đều có đại quan chống lưng. Ta người lạ
nhảy vào muốn chia phần, phần chưa được còn bị phanh thây ấy.” Đại Hải
cười mỉa nói. Mấy tên quan lại quý tộc, dạo gần đây ưa Nho giáo, mở
miệng ra là sách thánh hiền, ra đều ghét bỏ thương buôn, cả người đều là mùi tiền, tục khí. Ấy vậy mà mấy thương hội lớn, tên nào cũng có chân ở trong...
“Ngươi cứ chịu khó bán muối cho người miền núi với đi buôn lậu là ổn rồi. Phong hiểm là có nhưng lời cao.”
“Vâng, chính là bên Tàu, bên Chiêm cũng cần muối. Ta có nhúng tay vào không đại nhân?” Phú béo hỏi.
“Nếu ngươi tìm được trung gian thì làm, còn đâu không cần trực tiếp buôn
bán, dễ bị quan phủ các nước sờ gáy. Tốt nhất kiếm mấy tên như Vương
Luân, tham tiền, có trống lưng, thế dễ làm việc hơn.”
“Cái này thì dễ, trước còn làm cho Thủy Quỷ thuộc hạ cũng bắt mối được với mấy tên
thương buôn, chuyên buôn lậu của Tàu với Chiêm, Chà Và, Đại Việt cũng
có.” Phú béo hớn hở.
“Đại Việt thì đừng nhúng tay vào kẻo lộ đuôi, trước cứ buông tay buôn bán với thương nhân Tàu, Chiêm,...là được. Cứ
rộng tay mà làm, muối ta không thiếu. Nếu ngươi bắt mối được với bên
thảo nguyên hay Đông Doanh thì tốt.” Đại Hải nói.
“Việc này hơi
khó, thảo nguyên ở mãi quan ngoại, bọn Vương Luân không làm ăn gì cùng,
nếu cần thuộc hạ phải lân la lên tận phía bắc, may ra mới bắt được mối.
Đông Doanh thì càng khó, bọn họ là Oa khấu, thích cướp hơn là buôn bán,
bắt mối không được có khi lại đi tong mạng nhỏ.” Phú béo nhăn nhó nói.
“Không vội, ngươi cứ từ từ mà làm. Còn về phần Đại Việt, chủ yếu vẫn cứ làm
quen đi, mời mọc họ tham gia thương hội, có thể nhả một chút buôn bán da lông cho họ tham gia, muối buôn với Ai Lao và Chiêm cũng có thể nhả một bộ phận. Cốt yếu không chế là được, như hình thức liên doanh trước ta
nói. Quan trọng nhất, chính người của Lạc Hồng đi buôn được khắp cả
nước, chủ yếu mạn Thăng Long.”
“Vâng. Còn về lương thực, thuộc hạ
cũng cho người đi cùng quan thu thuế đi thu mua lương thực rồi, bao
lương thừa ta đều thu hết. Thương nhân các khu khác cơ bản là không thèm thu mua ở Thuận Hoá, họ khinh đất ta nhỏ, dân nghèo không có lương.”
“Thế là tốt nhất, béo ngươi.” Đại Hải cười trêu.
“Cố gắng phát triển mạnh Lạc Hồng, ta chắc chắn không bạc đãi ngươi. Chuyến sau cho người dò hỏi việc mua nô lệ ở các nước, nạn dân nữa, âu này ta
có việc cần.”
“Vâng.”
Đúng lúc này tên lính hầu từ ngoài chạy vào.
“Tướng quân, có tin từ Thăng Long đến.”
Đại Hải nhận tin, mặt trầm ngâm, lịch sử vẫn là không thay đổi, cái gì đến vẫn đến.
“Được rồi, ngươi lui xuống trước đi, gọi Nguyễn Trí đến gặp ta. Phú béo,
ngươi cũng lui xuống làm việc của mình đi.” Đại Hải khoát tay đuổi
người.