Vườn Cúc Mùa Thu
Ở thành phố Dazai của xứ Chikuzen có
1 thương gia giàu tên là Tokuzaemon.
Nhờ làm chủ một tiệm rượu lớn do tổ tiên truyền lại đã tự mấy đời nên ông ta
giàu nhất tỉnh, lại còn nổi tiếng gần xa vì có 1 cô con gái rất đẹp. Cô ấy
tên Ô-Lan, từ thuở mới
sáu, bẩy đã được thiên hạ tấm tắc khen vì nhan sắc hơn người. Nhìn vẻ kiều diễm
của Ô-Lan, lắm kẻ trong
tỉnh có lúc thấy tủi thân khi đem ra so sánh với con gái của mình, và chỉ biết
tìm đến men rượu để quên đi những niềm tuyệt vọng.
Ô-Lan năm nay vừa đến tuổi trăng tròn lẻ. Mỗi lần
khoác lên tấm thân thanh mảnh của mình những chiếc áo Kimônô hoa gấm, vẻ đẹp
lộng lẫy của nàng lại cứ như làm cho tất cả cỏ cây vạn vật chung quanh được rực
rỡ hẳn ra. Nhìn nét mỹ miều sáng mơn mởn trong ánh nắng xuân, chính cả mẹ
nàng cũng thấy ngẩn ngơ, quên khuấy đi không biết mình mới nói gì với con lúc
nãy. Tiếng đồn về nhan sắc chim sa cá lặn bay xa, biết bao nhiêu tu mi nam tử
chỉ mới tai nghe nhưng mắt chưa nhìn đã tơ tưởng yêu mê yêu mệt.
Gần vùng của nàng có 1 chàng trẻ tên Kuwamori Jiroemon, bố mẹ làm nghề cầm
đồ nên gia đình cũng khá giả. Chàng này trông cũng không đến nỗi xấu trai lắm
dù có khuôn mặt hơi bẹt với cái mũi lớn khổ, bộ râu rậm chổi xể, và đôi mắt thì
quặp xuống. Nhưng anh chàng trông lương thiện, có hàm răng xinh xắn, nụ cười
khá dễ thương. Có lẽ nhờ ở các điểm đó mà hai người có duyên với nhau chăng? Ai
cũng biết tình yêu thường mù quáng, điên rồ, và ta không thể đánh giá ai qua
hình dáng bên ngoài. Thực tế là Ô-Lan đã
phải lòng chàng ta, câu chuyện bắt đầu từ khi anh chàng Jiroemon vào trong quán
rượu để tránh một cơn dông. Mọi sự xảy ra sau đó chỉ là phần nối dài của buổi
đầu từ khi anh chàng nhờ may mắn mà lọt vào đuoc mắt xanh của người đẹp.
Trong khi cha mẹ đôi bên còn chưa rõ nếp tẻ, Jiroemon đã đem tâm tình thổ lộ
cho Denroku, một người bán
cá thường lui tới tiệm cầm đồ của nhà mình. Jiroemon nhờ Denroku tới
gặp gia đình Tokuzaemon để
bàn bạc việc xin cưới Ô-Lan.
Dĩ nhiên là lão Denroku xớm
xởi nhận ngay vì đang nợ thâm niên với tiệm cầm đồ, nay bỗng được nhờ vả 1
chuyện mà anh chàng Jiroemon không
tự lo liệu được. Lão ta nghĩ: tiệm cầm đồ nằm ở khu phố này thì quán rượu lại ở
ngay khu phố kế cận, nếu mọi sự suông sẻ thì mình có thể uống rượu thoả thích
mà lại có thể xin khất chuyện trả lãi cho món nợ. Lão chọn ngay một bộ đồ sang
trọng trong những bộ quần áo cầm nợ ở tiệm cầm đồ, thắng bộ vào đàng hoàng rồi
đi thẳng tới nhà Tokuzaemon với
1 vẻ thực tự tin, đến nỗi nhìn thấy lão người ta cũng phải tự hỏi không hiểu
đây là nhân vật nào vậy?
“Hì, hì” lão Denroku khoái trá cười thầm, hai bàn tay khép mở chiếc
quạt nan kêu lách cách. Lão bắt đầu mở miệng khen những tảng đá trong khu vườn
nhà Tokuzaemon. Phần
lão Tokuzaemon, thoạt
mới trông thấy Denroku đã
muốn nổi gai ốc, nhưng lão trấn tĩnh cất tiếng hỏi:
- Thưa ông đến có
chuyện chi?
- À, cũng chẳng có
chi!
Denroku trả lời bình tĩnh, lựa lời nói quanh co để đưa đến
chuyện chàng Jiroemon nhờ
vả: “Thưa ngài, ngài có quán bán rượu, họ đằng này có tiệm cầm đồ. Tuy hai công
việc buôn bán khác nhau, nhưng quy lại cũng như là một. Để đến tiệm rượu, trước
hết phải dừng tại tiệm cầm đồ; rời tiệm cầm đồ, sau đó đi tới quán rượu”. Lão
nói lảm nhảm, thuyết rằng hai chuyện buôn bán đi liền với nhau như thầy thuốc
và nhà sư, hai gia đình mà hợp lại với nhau thì như hùm thêm vây, sẽ đè bẹp cả
thành phố. Lão Denroku mang
hết tài ăn nói chưa từng thấy, đến ngay cả lão Tokuzaemon cũng cảm thấy xiêu lòng.
- Cậu Kuwamori là trưởng nam, là người
thừa kế; tôi không đòi hỏi gì thêm cả. Thế còn tôn giáo của cậu ta thì
sao?
- À…có lẽ… lão Denroku ngập ngừng, rồi lão nói
buột ra với vẻ tuyệt vọng: tôi không chắc cho lắm, nhưng họ chắc thuộc
phái Tịnh Độ.
- Như vậy thì tôi
không chấp nhận – lão Tokuzaemon trả
lời thẳng thừng, miệng chu lại với dáng dữ dằn – Dòng họ nhà tôi theo
phái Pháp Hoa đã nhiều năm. Trong suốt
đời tôi, chúng tôi tin vào ngài Nichiren,
và sáng tối niệm phật theo kinh Pháp Hoa. Tôi nuôi con như vậy, và không gả con
tôi cho người nào khác tôn giáo. Lão hằn học tiếp theo: “Thật tình, đã đi làm
mai, ít ra ông cũng phải dò hỏi chuyện đó trước đã!”.
- “Ờ… mà… tôi…
” – lão Denroku toát
mồ hôi lạnh sau lưng – “họ nhà phía chúng tôi cũng theo phái Pháp
Hoa từ nhiều năm. Chúng tôi cũng tụng niệm Phật, theo ngài Nichiren sáng tối. Tất cả đều
cung cúc theo kinh Pháp Hoa. Thật tình là như vậy…”
- Tokuzaemon vặn lại: “Ông
nói nhăng nói cuội gì vậy? Tôi không gần biết cậu ta có bao nhiêu tiền
của, hay cậu ta có tài giỏi hay kẻng trai chi nữa. Sao? Thật đúng như
là chửi vào mặt ngài Nichiren không
bằng! Này ông thử nói cho tôi biết những cái hay cái đẹp của cái phái Tịnh Độ
tối tăm này đi. Dám cả gan đi hỏi cưới con tôi khi chúng tôi theo phái Pháp Hoa
từ bao năm nay. Cứ nhìn đến cái mặt ông đã khiến tôi lộn cả ruột. Thôi, xin ông
đi khỏi đây ngay!”
Denroku túng thế phải thối lui, mang tin buồn về cho Jiroemon. Anh chàng bình thản,
nói: “Chuyện tôn giáo thì có chi mà bực mình. Gia đình tôi có thể đổi đạo dễ
dàng. Từ mấy đời nay chúng tôi không có tín ngưỡng gì cả. Pháp Hoa
hay Tịnh Độ, với chúng tôi đều như nhau”. Rồi chẳng mất thì giờ, Jiroemon tay cầm tràng hạt, và
bắt đầu tụng kinh sáng chiều. Khi chàng ta xin cha mẹ hãy làm như mình, ông bà
cũng không hỏi lý do. Vì chiều con trai, cả hai tuy mắt cứ liếc dọc liếc ngang
nhưng cũng bắt đầu vừa ngáp vừa tụng kinh Liên Hoa Diệu Pháp.
Sau đó ít lâu, Denroku lại đến nhà Tokuzaemon. Với vẻ mặt tươi rói,
lão tuyên bố rằng chàng Kuwamori cùng toàn gia đã đổi
sang phái Nichiren, và đã
tụng kinh Pháp Hoa. Nhưng Tokuzaemon là
người khó tính, lão trả lời: “Không, đức tin mà thiếu cội rễ chỉ là hời
hợt
ngoài mặt. Ai cũng thấy ngay là anh chàng chỉ đổi tông phái để
lấy Ô-Lan”. Lão còn thêm: “Thái độ
như vậy thật xấu hổ, ngài Nichiren khó
mà chấp nhận thái độ này, vì chỉ thoáng qua là ai cũng thấy rõ ngay cái
kế
này”. Lão đã quyết định trong đầu: “Không, ta sẽ gả con gái cho một gia
đình
quen biết, cùng theo phái Pháp Hoa”.
Nghe được câu chuyện, Jiroemon kinh hoàng, vội viết thư cho Ô-Lan:
“Họ nói bố đòi gả em cho một
người mà gia đình theo phái Pháp Hoa. Ta tụng cái thứ kinh chán ngấy, đánh
trống đến phồng cả tay để mong được em, thật là bực mình! Cái
lão Denroku chẳng được tích sự gì
cả. Chắc tên ta có cái gì trục trặc không ổn. Jiroemon nghe từa tựa
như Jirozaemon, cái tên này làm ta thật khó chịu. Sano Jirozaemon, cái
lão ở miền Đông
đã bị hết người này đến người khác bỏ rơi. Nếu chuyện này xảy ra với ta, ta sẽ
tuốt gươm và lấy một trăm cái đầu, như lão đã làm. Một nam nhi như ta,
chỉ có
một lời. Đừng coi ta là ngốc”.
Viết xong lá thư, Jiroemon gửi đi ngay, nước mắt chảy dài trên má.
Ô-Lan trả lời: “Thiếp không hiểu thư chàng muốn nói
gì. Xin chàng đừng hành động nguy hiểm, tỉ như vung kiếm hay gì chăng nữa.
Trước khi chàng lấy đầu một trăm người, ngay cả một người, thì đầu chàng đã bị
cắt mất. Nếu có chuyện chi xảy ra tới cho chàng, thiếp sẽ ra sao? Xin
đừng làm thiếp sợ như vậy nữa. Đây là chàng cho biết chứ thiếp chưa từng nghe
có ai cầu hôn cả. Chàng lúc nào cũng mặc cảm về cái mũi và đôi mắt quặp – chính
vì vậy khiến chàng mất tự tin mà đâm ra nghi ngờ thiếp. Chuyện thiếp lấy ai, xin
chàng đừng lo lắng bây giờ. Nếu phụ thân ép lấy người nào khác, thiếp sẽ
chạy trốn. Khi đó dặm trường thân gái, không đi một mình được, thiếp sẽ tới với
chàng. Xin chàng nhớ lấy điều này”.
Đọc xong, Jiroemon có mỉm cười chút ít, nhưng vẫn chưa hoàn toàn bình
tâm. Bây giờ chàng ta hoàn toàn tin vào phật Nichiren và kinh Pháp Hoa. Nhăn
mặt, nhíu mày, chàng ta bắt đầu hét to “Nam Mô diệu Pháp liên Hoa Kinh”, tay
đánh trống loạn xạ.
Ngày sau đó, Tokuzaemon gọi Ô-Lan tới phòng, và nghiêm nghị bảo – với
ngài Nichiren sắp
đặt, nàng sẽ được gả cho Hirosaku,
một ngưới buôn giấy tại phố Honmachi. Lão ta tiếp: mối liên hệ này sẽ bền chặt
đời đời, và nàng phải hoan hỷ nghe theo.
Ô-Lan kinh hoàng, nhưng nén nỗi cảm xúc khi cúi đầu
chào phụ thân và lui ra. Nàng tức khắc lên lầu hai, viết vội lời nhắn: “Thiếp
phải vắn tắt. Ngày quyết định đã tới. Thiếp sẽ đi trốn. Thiếp van chàng, tối
nay hãy tới đây gặp thiếp”. Viết xong, Ô-Lan nhờ một người làm công tức tốc mang đi.
Jiroemon liếc nhìn lời nhắn, tứ chi run lẩy bẩy. Anh
ta đi tới bếp, uống một ngụm nước để trấn tĩnh rồi trở về phòng khách, ngồi xếp
chân bằng tròn giữa phòng, nghĩ phải hành động tức khắc, nhưng không biết
phải làm sao. Lát sau đành đứng dậy, thay quần áo, đi tới phòng kế toán mở mấy
cái ngăn kéo. Thấy người giúp việc đưa mắt dò hỏi, chàng lẩm bẩm: Ồ,
cần một món tiền nhỏ thôi! Chàng ném vài đồng vào trong tay áo khoác
ngoài, rồi nhắm mắt chạy ra khỏi tiệm.
Trên đường, Jiroemon mới hay là đôi guốc đang đi không tiện chút nào,
nhưng lại không dám trở về, đành tới một tiệm gần đó mua một đôi dép rơm. Tất
cả gia sản chỉ vỏn vẹn món tiền trong túi, vì vậy chàng phải chọn đôi dép rẻ
tiền nhất, đế dép mỏng dính đến nỗi chàng có cảm tưởng là đi chân không,
vừa đi vừa lo lắng và ấm ức khóc. Khi tới sau nhà Tokuzaemon, Ô-Lan chạy
ra, không thốt lời nào, cầm tay chàng và giục chạy ngay. Lê chân trên đôi dép
rơm, miệng thổn thức, Jiroemon để
nàng dắt đi như một người mù.
(Ờ mà cái câu chuyện của một cặp trai gái ngu ngốc,
trẻ người non dạ, đúng ra cũng chẳng có chi là quan trọng. Thật ra nó đã xong
đâu, nỗi gian truân dường như còn đang chờ họ ở phía đằng trước.)
Đêm đó hai người đi được non ba mươi cây số, biển
Hakata trải dài phía trái, họ nhìn mãi làn nước xám nhạt như trong một giấc
mơ. Đói và khát, lại lo bị đuổi theo, cả hai thấy thật sợ hãi, bụng
như thắt lại mỗi lần nghe có tiếng chân người phía sau. Khập khễnh bước đi như
hai cái xác, họ đặt chân tới một doi đất tên là Kanegasaki – giống như địa
danh Kanegasaki gắn
liền với lời kinh nhà Phật thường dạy – “Thịnh tất suy, và Thị
Sinh Diệt Pháp”. Sau đó cả hai băng qua cánh đồng dưới chân núi, tới nhà
một người quen của Jiroemon. Người
chủ có vẻ lạnh nhạt, nhưng Jiroemon cũng
đã đoán được. Anh gói một ít tiền trong mảnh giấy, đưa cho người chủ và khẩn
khoản: “Thật là quá quấy quá, xin ông…”
Ở trong một chỗ nhỏ như cái kho, Ô-Lan và Jiroemon bắt đầu
hiểu là cuộc sống
kham khổ đang chờ đợi họ. Cả hai nhìn nhau, thở dài, hốc hác và tái
mét. Ô-Lan sụt sịt,
cố giữ không cho nước mắt trào ra. Nàng vuốt ve bộ lông
của Kichibei, con khỉ nàng nuôi từ lúc
còn bé. Kichibei quấn
quýt với nàng đến nỗi có trực giác biết chạy theo khi thấy chủ vội vàng
bỏ đi
trong bóng đêm, với một người đàn ông mà nó chưa khi nào thấy. Lúc đó,
đi đã
được mấy dặm thì Ô-Lan mới biết có Kichibei đang theo. Nàng mắng hét, và
lấy cả đá ném, nhưng Kichibei vẫn
cứ lết theo cho đến khi Jiroemon động
lòng thấy con vật đã chịu khó theo xa đến như vậy. Jiroemon bàn nên để nó đi cùng. Ô-Lan vẫy tay, con khỉ liền chạy
gấp tới. Khi đã được ẵm trong tay, nó chớp chớp mắt nhìn hai người với
vẻ
mặt thật là tội nghiệp.
Giờ đây Kichibei làm
1 kẻ hầu tin cẩn. Nó mang thức ăn lại cái nhà kho, và ngồi đuổi ruồi cho hai vợ
chồng. Nó biết cả việc cầm lược gỡ tóc rối cho cô chủ. Tuy chỉ là con vật,
khỉ ta cũng cố an ủi hai người, khi thì làm cả những chuyện không cần thiết.
Dù đã chọn một cuộc đời lén lút, nhưng hai người
không thể sống suốt đời trong cái kho chật hẹp. Jiroemon đưa tất cả tiền còn lại cho người bà con bạc bẽo
để xin cất một cái nhà tranh gần đó. Nhà cất xong, cả hai bắt đầu trồng một
mảnh vườn để tự cung cấp rau cỏ hàng ngày. Khi rảnh rỗi, Jiroemon đi ra ngoài hái thuốc
lá, để Ô-Lan ở nhà đánh
bông gòn thành cuộn chỉ. Bây giờ cuộc sống khó khăn nên giấc mơ của tuổi
trẻ bắt đầu phai nhạt dần.
Thế rồi họ đi đến chuyện kình chống nhau, nghinh
nhau trong cảnh gia đình nghèo khó. Mỗi lần có tiếng loảng xoảng từ trong nhà
bếp, cả hai đều đứng phắt dậy với ánh mắt giận dữ. Có thể đó chỉ là tiếng
động gây ra của một con chuột nhắt? Hai người không tha thứ được những hạt đậu
lại bị phân chuột lấm bẩn. Trong tình huống như thế, ngay cả mùa thu màu đỏ cỏ
lá và mùa xuân hoa tím ngàn nơi cũng chẳng khiến họ lưu tâm.
Kichibei nghĩ rằng đây là lúc phải đền ơn Jiroemon nên thường đến
những
ngọn đồi gần đó, lượm lặt những cành bách đã mục và những lá tùng rụng.
Trở về
nhà, con khỉ ngồi trước lò sưởi, mặt ngoảnh tránh làn khói, quạt lia lịa bằng
cái quạt thô sơ. Sau một vài phút, khỉ ta có thể mang cho hai vợ chồng
một chén
trà ấm, với cung cách rất khôi hài mà họ thấy cũng dễ thương. Dẫu không
biết
nói, Kichibei cũng lo
lắng đến sự nghèo khó của gia đình. Khỉ ta có thể bỏ bữa cơm tối, chỉ ăn rất
ít, và lăn ra ngủ như thể đã no bụng. Mỗi khi Jiroemon xong bữa
cơm, Kichibei tới bóp lưng và chân cho ông chủ. Sau đó khỉ ta
chạy vào nhà bếp phụ Ô-Lan dọn
dẹp. Mỗi lần lỡ đánh vỡ một cái đĩa, trên mặt khỉ ta lại thoáng hiện vẻ
xấu
hổ. Được chú khỉ an ủi, hai vợ chồng dần dần quên được cảnh đời cực khổ.
Một năm trôi qua, mùa thu lại tới. Ô-Lan sinh một đứa trai, đặt tên
là Kikunosuke. Lần đầu
tiên sau bao tháng trời, lại có tiếng cười vang trong gian nhà tranh. Một
lần nữa, đột nhiên cả hai cảm thấy cuộc đời thật đáng sống. Họ vui đùa với đứa
bé: nhìn nó mở mắt này, nó đang ngáp này, và chú khỉ Kichibei nhảy cỡn lên với tất cả
niềm vui. Kichibei mang
những hạt dẻ hoang để vào bàn tay đứa bé cho nó nắm. Dẫu bị Ô-Lan mắng về chuyện này, Kichibei cũng không chịu để đứa
trẻ một mình. Chú ta thường ở ngay bên cạnh tò mò xem xét. Chú nhìn chòng
chọc vào khuôn mặt khi đứa bé đang ngủ, chỉ giật mình hoảng hốt mỗi khi nghe
tiếng nó thình lình khóc. Khi đó chú chạy ngay tới Ô-Lan, kéo váy nàng và lôi nàng về phía nôi, ra hiệu hãy
cho bú. Rồi khi Ô-Lan cho đứa bé bú, chú nép gần đó, say sưa quan sát. Kichibei
đúng là một người canh gác tuyệt vời.
Tuy hài lòng với sự chăm sóc của con khỉ, nhưng dẫu
sao hai người cũng cảm thấy buồn cho Kikunosuke. Nếu ra đời vào năm ngoái tại nhà Kuwamori, đứa bé chắc đã nhận được cả
chồng quần áo ấm từ những người thân, và ngủ trên tơ lụa, được cả mấy bà vú
chăm sóc. Sẽ không có cả một con rận bò đến gần đứa bé, và da dẻ được giữ gìn
như ngọc. Nhưng vì sinh ra một năm sau đó, nó phải ngủ trong chòi tranh, dãi
dầu mưa gió, với đồ chơi là những quả cây và hạt dẻ, và được chỉ một con khỉ
trông coi.
Ô-Lan và Jiroemon có
bàn đến cảnh Kikunosuke khốn
khó chỉ vì cuộc tình liều lĩnh của họ, nhưng rồi cũng quên chuyện này khi
nhìn thấy đứa trẻ thật đáng yêu. Hai người quyết định sẽ dành dụm chút gì
cho Kinunosuke khi
đứa trẻ đến tuổi hiểu biết. Nếu có chút của cải, hai người có thể trở về dàn
xếp thẳng với cha mẹ hai bên. Do thương đúa trẻ, Jiroemon hỏi thăm người hàng xóm xem có việc gì làm để kiếm
thêm chút tiền nong.
Kikunosuke lớn dần lên, mụ mẫm. Lúc nào chú bé cũng
nhoẻn miệng cười, đem nguồn sống về cho gian nhà tranh một thời đã vắng bóng
cảnh nồng ấm.Đứa trẻ có tia mắt sáng ngời như bà mẹ. Kichibei thường mang những cỏ lá
mùa thu từ ngoài đồng và đong đưa chơi đùa trước mặt đứa trẻ, để hai vợ chồng
có thể đi ra ngoài vườn đào củ cải mà không lo lắng gì tới con. Hai nguời
cảm thấy như sống lại với niềm hy vọng. Khi mùa thu gần đến, người láng giềng
cho hay có mối làm ăn tốt nên một hôm đẹp trời, Ô-Lan và Jiroemon hoan
hỉ tới thăm để muốn biết tường tận hơn.
Hai vợ chồng vừa rời nhà được một lát thì Kichibei
đứng dậy, dáng mặt cứ như biết đă đến giờ tắm cho đứa trẻ. Chú ta theo
đúng cách thức như những lần nhìn thấy Ô-Lan đã làm. Thoạt tiên, nhúm lửa dưới lò, đun nước, và
khi nước bắt đầu sủi bọt thì đổ nước nóng vào trong chậu đầy đến mép. Kichibei cởi quần áo đứa trẻ,
nhìn mặt nó như Ô-Lan làm
mỗi lần, nựng lên nựng xuống mấy lần, rồi bất chợt nhúng ngay đứa bé vào
trong nước.
Bé Kikunosuke hét
lên một tiếng thất thanh, dãy dụa la thét rồi ngừng thở.
Nghe tiếng la khóc khác thường, hai vợ chồng nhìn
nhau, vội vã trở về, thấy Kikunosuke chìm
trong bồn nước, Kichibei thì
đang bồn chồn lo lắng. Ô-Lan vội
lôi đứa con ra, nhưng đứa bé đã như con tôm luộc. Không kham nổi, nàng ngã ngay
xuống, khóc thét lên như một người điên. Ô-Lan muốn đổi mạng sống của mình để được nhìn đứa con thân
yêu một lần nữa. Lát sau nàng đứng dậy, nắm ngay con khỉ đang đứng sững
sờ, và giơ thanh củi lên định phang cho nó chết.
Jiroemon cũng điên cuồng vì đau khổ, nước mắt lã chã.
Nhưng tuy đau khổ, anh nhận thấy nên tha thứ hơn là báo thù. Anh dằng
thanh củi khỏi tay Ô-Lan,
cố gắng giảng giải: Con mình đã chết rồi, cũng là số mạng của nó như thế.
Em muốn giết con khỉ cũng phải, nhưng sát sinh bây giờ chỉ gây cho linh hồn của
con mình khó được lên cực lạc. Đứa trẻ không thể trở lại được nữa, mà Kichibei cũng chỉ muốn giúp đỡ
hai đứa mình mà thôi. Hơn nữa, khỉ có khôn mấy cũng chỉ là một con vật thôi, nó
chẳng biết gì hơn đâu. Giờ đây mọi sự đã quá trễ, không thể làm gì được
nữa đâu. Con khỉ nước mắt chảy dài, đứng trong một góc phòng, nhìn
Jiroemon vừa khóc vừa nói, chắp hai tay cảm ơn. Hai vợ chồng nhìn con vật, càng
cảm thấy đau khổ, cùng nghĩ không hiểu họ phạm phải nghiệp chướng gì đời trước
mà nay gặp phải nỗi đọan trường này?
Chôn cất Kikunosuke xong,
cả hai người mất dần ý muốn sống, đâm ra bệnh nặng, nằm liệt giường. Kichibei nuôi nấng săn sóc họ
tận tình, cả bao nhiêu đêm không ngủ. Con khỉ cũng không quên cả Kikunosuke. Cứ mỗi bảy ngày sau khi
đứa trẻ mất, chú ta đi thăm mộ, mang theo nhiều bông hoa để trang hoàng. Vào
ngày thứ 100, khi sức khỏe của Ô-Lan và Jiroemon đã khá hơn, Kichibei buồn rầu tới thăm mộ,
và yên lặng dâng nước. Rồi, nó đâm thẳng đầu lao bằng tre vào cổ họng, tự
tử.
Jiroemon và Ô-Lan thấy
vắng mặt Kichibei, đâm ra lo âu. Cả hai chống gậy, khập khiễng đi ra mộ.
Họ hiểu ra mọi chuyện khi thấy cái xác nằm chết thảm thương. Hai vợ chồng
càng thấm thía sầu khổ nhiều hơn khi nghĩ ra rằng ít gì đi nữa chính Kichibei là kẻ muốn đem lại cho
cõi đời một niềm an ủi.
Hai người dựng thêm một ngôi mộ để chôn con vật, bên
cạnh mộ của con mình. Sau đó , Ố-Lan và Jiroemon dựng am bên cạnh mộ,
sớm hôm hương khói, tu hành. Thế nhưng khi hạ bút viết như vậy, người viết có
hơi kẹt vì không chắc họ đã khấn đức Phật A– di–đà của phái Tịnh Độ hay tụng
kinh Pháp Hoa. Theo nguyên bản, Saikaku tả
rằng, trong cái am đó, tiếng tụng kinh Pháp Hoa không bao giờ ngừng. Tokuzaemon là một lão già ngoan
cố theo kinh Pháp Hoa nhưng nếu để lão ta ló mặt ở đây thì thật là khốn khổ vì
sẽ làm hỏng bét câu chuyện thương tâm của chúng ta. Nếu có sự thật còn lại thì
ta chỉ có thể nói là Ô-Lan và Jiroemon, dù sống trong am mà nỗi
buồn vẫn chưa nguôi, lại vạch cỏ mùa thu đi ra ngoài, cất bước một lần nữa về
phương trời vô định.
Hết.