Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư
Dịch: Đặng Nam
Ngay lúc ấy, hai người chúng tôi dường như
đã dần mất hết hi vọng, chợt nghe tiếng súng từ đâu nổ “đoàng” đầy bất
ngờ, trong mộ, bốn vách tường đồng loạt rung lên. Thì ra là Tuyền béo
ngồi chờ ở bên trên đạo động lâu quá đâm ra có chút không yên tâm, đợi
cả nửa ngày trời mà không thấy ai leo lên, lại nhìn tình hình xung quanh không có gì khác thường, nên bèn ngó đầu xuống xem chúng tôi ở bên
trong mộ có gì nguy hiểm không, đúng lúc ấy thì phát hiện thấy con rết
khổng lồ kia đang bò trên vách đá. Cây súng trên tay hắn đã khá cũ kỹ,
chẳng phải loại xịn sò như bây giờ, là loại súng trường kiểu 56 được
quân Quan Đông sử dụng, sau rơi vào tay người dân vùng Đông Bắc cải tiến lại thành súng đi săn, chỉ có thể bắn một phát rồi lại nạp đạn mới bắn
được tiếp, nhưng uy lực đã được tăng cường đáng kể so với kiểu cũ, một
phát súng vừa được bắn ra, lập tức ghim thẳng vào đầu con rết, để lại
một cái lỗ máu thịt bầy hầy. Ai ngờ một phát súng đấy còn chưa đủ để
giết chết nó, chỉ khiến con rết rơi xuống phía dưới bức bích họa cửu vỹ
hồ ly. Đỉnh mộ sụp đổ cũng khiến cho trên bích họa xuất hiện chằng chịt
những vết nứt rạn, con rết cương thi vội vàng bám vào bích họa bò lên
đỉnh mộ, dưới những cái móng chân sắc nhọn của nó, một cái đạo động được đào ra, từng miếng từng miếng thạch cao bụi mù trắng xóa bị cạo tung,
rơi rào rào xuống đất, một thứ âm thanh quái dị từ trong tường truyền
ra, theo sau đó là một làn hỏa cầu lớn bất ngờ phun tới, đem con rết này bọc ở chính giữa, chúng tôi thấy từ trong bích họa phun ra một đoàn quỷ hỏa thì vội vàng cúi gập người sát mặt đất, không dám ngẩng đầu. Ngọn
lửa rực rỡ tỏa ra một thứ ánh sáng xanh u ám làm cho người ta không mở
nổi mắt, không chỉ không cảm giác thấy hơi nóng của lửa, mà ngược lại là cảm giác lạnh lẽo rùng mình, con rết cương thi kia chỉ trong nháy mắt
đã bị đốt thành tro thành bụi. Quỷ hỏa phun ra từ trong bích họa đến
cũng nhanh mà đi cũng nhanh, đảo mắt đã không thấy đâu nữa rồi. Trong
lòng chúng tôi vừa run rẩy vừa sợ hãi, lồm cồm bò dậy từ dưới đất, mới
vừa rồi may mà nhanh nhẹn tránh kịp, không thì giờ cả ba đứa chắc đã bị
thiêu chết cùng con rết kia mất rồi. Đống ban nấm trên người con rết bị
lửa nướng chín, tỏa ra một mùi hôi tanh ngập tràn khắp không khí. Ba
người chúng tôi ngửi được mùi hôi thối này, đều thi nhau ho sặc sụa, nôn khan mấy lần, hai mắt cay xè dính chặt lại, nước mắt dàn dụa, cuối cùng không nhịn được nữa, đồng loạt há miệng nôn mửa một trận, xong xuôi đâu đấy mới từ từ dựa lưng vào tường ngồi xuống, mãi lúc sau mới nói được
nên lời.
Tuyền béo quay qua hỏi tôi cùng Trăn Tử: “Sao lại có
một con rết khổng lồ bò vào trong mộ thế này? Hai người không làm sao
đấy chứ? Đã lấy được gốc hoàng kim linh chi kia chưa vậy? Tên tiểu tử
Lục Quân chạy đi đâu mất rồi?” Hắn hỏi một hơi cả đống câu hỏi, khiến
cho tôi không kịp trả lời, mà quả thật bây giờ tôi cũng không biết mở
miệng trả lời hắn thế nào đây? Trăn Tử mau mồm mau miệng, liền nói cho
Tuyền béo nghe qua một lượt những gì hai đứa tôi vừa mới trải qua. Tuyền béo nghe xong cũng cảm thấy đầu óc choáng váng, chuyện này phát sinh
quá bất ngờ, hắn vẫn chưa thể nào tin được là Lục Quân đã chết, hơn nữa
ngay cả một mẩu xương cũng không để lại.
Tôi móc ra nửa bao
thuốc lá hiệu “Chiến Đấu” rơi ra từ trên người Lục Quân, đưa qua cho
Tuyền béo nhìn. Vừa thấy, cậu ta liền ngẩn người ra: “Thuốc lá Chiến Đấu loại đặc biệt? Cậu lấy ở đâu đấy?” Tôi liền nói cho cậu ta biết nửa bao thuốc này lúc đầu được Lục Quân giấu ở trong người, sau lúc hắn ngã
xuống thì liền bị rơi ra, e rằng nửa bao thuốc này… có vấn đề không nhỏ
a!
Tuyền béo dĩ nhiên biết lời này của tôi là có ý gì, thuốc lá
hiệu Chiến Đấu, lại còn là loại đặc cấp, không phải là thứ mà một bọn
thanh niên tri thức bọn này có thể hút nổi, nhất định là do hai tên thợ
săn kia đưa cho Lục Quân. Lục Quân từng là bạn học thân thiết của chúng
tôi, chiến hữu cùng kề vai sát cánh bên nhau, bằng vào những hiểu biết
của tôi và Tuyền béo về hắn, đừng xem tiểu tử này tuy lá gan không được
lớn lắm, toàn đưa ra chủ ý vớ vẩn, nhưng lại sống vô cùng nghĩa khí,
tuyệt không phải là loại ăn cây táo rào cây sung, có lẽ nhất thời muốn
tham chút tiện nghi nhỏ, mới để cho hai tên thợ săn không rõ lai lịch
kia dùng làm phát súng mở đường. Chỉ dựa vào một mình bản thân Lục Quân, bất luận thế nào cũng sẽ không thể tìm được lối vào tòa cổ mộ bị chôn
sâu trong Hắc Sơn Đầu này, cho nên nghe theo lời xúi giục của bọn chúng, lần mò chạy tới thượng nguồn Hắc Thủy Giang kiếm tôi cùng Tuyền béo.
Nói như vậy, Tiêm Quả có hay không bị rắn độc trên núi cắn? Nếu không đi thử một chuyến xuống hạ nguồn e rằng sẽ không biết được tình hình thực
sự ra sao, nhưng ít nhiều thì cũng còn có chút hi vọng. Nếu như Lục Quân thật bị hai tên thợ săn đem ra làm phát súng mở đường, bọn chúng nhất
định là đang bám theo ngay phía sau lưng chúng tôi. Tuyền béo nổi nóng
nói: “Hai thằng thợ săn bỏ mẹ kia rõ ràng là đang trêu đùa chúng ta mà,
còn khiến cho Lục Quân phải bỏ mạng oan uổng. Con mẹ nó chứ, bọn chúng
mà không đến tìm tôi, thì tôi cũng phải đi tìm bọn chúng mà tính sổ! Cậu sợ thì sợ chứ Tuyền gia đây đếch thèm sợ mấy thằng ếch nhái tép riu
đấy. Lão tử sẽ đái một bãi dìm chết con cụ bọn nó!”
Tôi vỗ vỗ
vai Tuyền béo ý bảo chớ có nóng vội: “Hãy bình tĩnh đã, lại nghe tôi nói đây này. Tôi cảm thấy Đại Hổ và Nhị Hổ, bọn chúng căn bản không phải là nhắm tới gốc hoàng kim linh chi kia, nếu không thì lúc chúng ta vừa mới tìm được cửa mộ, bọn chúng đã sớm xông ra hạ thủ, cậu thấy đúng
không?.”
Tuyền béo ngó nghiêng quan sát khắp một lượt: “Trong mộ
mọi thứ vẫn thế mà có quái gì nữa đâu nhỉ? Bọn chúng còn muốn thứ gì
chứ?”
Trong đầu tôi chợt xẹt ngang một dòng suy nghĩ, bèn hỏi cả
hai người kia: “Hai người nói xem, tại sao hồ ly trên Hắc Sơn Đầu trước
khi chết đều chạy tới nơi này? Con rết trên đỉnh mộ tại sao cũng cố tìm
cách chui vào?”
Tuyền béo cùng Trăn Tử đầu óc mơ hồ, hỏi ngược
lại tôi: “Lúc trước chẳng phải chính cậu nói ngôi mộ này được xây trên
long mạch sao? Cái gì mà phong thủy với chẳng bảo địa ý?”
Tôi
đáp: “Âm dương phong thủy bí thuật, mười phần trong đấy thì hơn chín
phần là cố làm ra vẻ huyền bí, huống chi long mạch các thứ đều là do con người nghĩ ra rồi tự nói với nhau, chẳng lẽ hồ ly cũng có thể nhìn ra
được âm dương phong thủy sao? Tôi phỏng chừng trong ngôi mộ này có cất
giấu một thứ đồ vật được liệt vào hàng chí bảo, thứ này được đưa tới từ
tít trong vùng rừng sâu núi thẳm.”
Trăn Tử tò mò: “Vậy rốt cuộc nó là thứ gì vậy?”
Tôi trầm ngâm nói: “Rất khó có thể nói rõ đấy là thứ đồ vật gì, tôi chẳng
qua chỉ là phỏng đoán lung tung dựa trên trực giác mà thôi…”
Tuyền béo chen vào: “Vừa nãy mới chẳng phải có một đoàn quỷ hỏa phun ra từ
trong bức bích họa sao? Bên trong liệu có phải có thứ đồ chơi gì hay ho
không nhỉ?”
Tuyền béo vừa nói vừa bước tới gần, lấy tay cào bớt
gạch bụi ra khỏi khe nứt trên bích họa, ghé mắt nhìn thử vào bên trong,
thì ra bức bích họa trong tòa Liêu mộ này là được vẽ trên một dãy tường
gạch, phía sau bức tường gạch lại có một dãy tường khác được nối liền
với đỉnh mộ, cùng bức tường bích họa cách nhau ba thước, bên trong tràn
ngập một thứ mùi rất khó chịu. Tuyền béo thấy bên trong không có đoàn
quỷ hỏa lúc trước, lập tức giơ đen pin lên chiếu sáng, súng săn khoác ở
trên lưng chui vào nhìn rốt cuộc trong đấy có thứ gì. Tôi và Trăn Tử đến bên đống tro còn sót lại sau khi bị thiêu rụi của con rết khổng lồ kia, tìm nhặt lấy lại viên đá cẩu bảo, rồi vội vàng đi vào theo sau Tuyền
béo.
Ba người chúng tôi tự sốc lại tinh thần của bản thân, nói
không chừng phía sau bức bích họa lại có thứ đồ vật gì đó đáng giá thì
sao, tuyệt không thể để rơi vào tay hai tên thợ săn bất minh kia. Chúng
ta trước cứ tới nhìn qua xem đấy là thứ đồ chơi gì, mà cũng đếch cần
quản đấy là cái quái gì, chung quy đều là sản phẩm của bọn giai cấp
phong kiến thống trị bóc lột từ xương từ máu của nhân dân, không bằng cứ móc ra, rồi chia cho lão hương thôn dân mỗi người một phần. Tôi cùng
Tuyền béo đến Hắc Thủy Giang này tham gia sản xuất, được bà con trong
thôn chăm sóc chiếu cố không ít, đang buồn rầu vì không có gì để báo đáp họ, giờ vừa vặn lại xuất hiện cơ hội hiếm có như này, nhất định phải
nắm lấy. Nhưng ba người chúng tôi phồng mồm trợn má cả nửa ngày ở phía
sau bức bích họa cửa vỹ hồ ly mà cũng chẳng phát hiện thấy thứ gì khác
lạ, cùng lắm là chỉ thấy nơi này có rất nhiều cát mà thôi. Tôi đưa tay
ra sờ tới sờ lui khối gạch mộ trên bức tường hình đỉnh tháp phía đối
diện,đó là một khối gạch dài một xích rất vuông vắn chỉnh tề,vững chắc
vô cùng,kể cả có dùng xẻng công binh mà ra sức chém lên cùng lắm cũng
chỉ lưu lại được vài vết xước mờ mờ,hơn nữa khe hở giữa khối gạch khác
nhau còn được bịt kín bằng một lớp đồng nung chảy, đến nước cũng không
thể thấm qua nổi,rõ ràng đây chính là một toà “Phân Thuỷ Kim Cương
Tháp”! Đa số cổ mộ có quy mô lớn ngày xưa vì để phòng ngừa mộ tặc cùng
ẩm mốc xâm nhập, ở trước lối vào mộ đạo đều lấy rất nhiều gạch lớn mà
dựng thành tháp tường kiên cố, đồng thời đổ nước đồng đã được nung nóng
chảy bịt vào các khe hở,trên hẹp dưới rộng,phía đỉnh tháp vuốt thành
chóp nhọn,chính gọi là “phân thuỷ kim cương tháp”,tựa như một tôn Bất
Động Kim Cương thật sự vậy, có thể đem kẻ gian có ý định trộm mộ ngăn ở
bên ngoài. Phía sau bức bích hoạ có giấu quỷ hoả, nếu như kẻ gian định
đục xuyên qua đấy để đi vòng qua kim cương tháp, liền sẽ bị thiêu thành
tro!
Nghĩ đến đây, đầu óc tôi liền quay mòng mòng, bình thường
mọi ngày đều có Lục Quân đứng ra làm quân sư nghĩ kế cho tôi, tuy chỉ là loại quân sư đầu chó nhưng ít ra cũng giúp đầu óc tôi được thảnh thơi
ít nhiều. Bất quá kể cả giờ hắn có còn sống đi chăng nữa, thì thủ đoạn
thủ thuật cùng kiến thức về các loại cơ quan trong cổ mộ hắn cũng có
biết cái quái gì đâu, thành ra bây giờ chỉ có thể tự mình dựa vào mình
mà thôi. Tôi bảo Trăn Tử cùng Tuyền béo trước đừng lên tiếng gì hết, cứ
để mặc tôi một mình cẩn thận suy nghĩ một chút xem sao. Theo nguyên tắc, “phân thủy kim cương tháp” đáng ra phải được thiết kế ở ngay cửa vào mộ đạo, tại sao trong ngôi Liêu mộ này nó lại ẩn phía sau bức bích họa? Có lẽ nào kích thước của ngôi mộ này còn lớn hơn so với tôi nghĩ rất nhiều lần? Ba đạo môn chôn ở các khe núi kia, đơn giản chỉ là lối dẫn vào mộ
giả, cho nên bên trong mới không có bất kỳ quan quách hay đồ bồi táng
nào cả. Chẳng lẽ tòa đại mộ thời Liêu này lại học theo quy cách của nhà
Đường, xẻ núi làm lăng, phía sau kim cương tháp kia mới là mộ đạo thật
sự? Huyền cung nằm tít trong chỗ sâu nơi bụng núi, thứ đồ mà hai tên thợ săn kia muốn đoạt được, có phải hay không cũng đang ở ngay phía sau kim cương tháp kia?
Tôi đem ý nghĩ này nói qua với Tuyền béo và
Trăn Tử, hai người họ nghe xong cũng cho rằng khả năng đó là rất cao,
đồng thời càng cảm thấy tò mò hơn, rốt cuộc lai lịch của vị chủ mộ này
là như thế nào? Liệu thật có phải là một con cửu vỹ hồ ly không? Không
biết có thứ kỳ trân dị bảo gì sẽ được chôn theo trong địa cung đây? Bao
nhiêu câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu mà không có lời giải đáp khiến ai
cũng cảm thấy khó chịu, tuy rằng chúng tôi rất muốn đi tìm kiếm kết quả
cuối cùng, nhưng mà kim cương tháp phía trước mặt lại cứ như một tôn Bất Động Kim Cương vậy, tuy chỉ có một tầng gạch lớn bên ngoài thôi, nhưng
kể cả có cho nổ thuốc cũng sẽ không mảy may lay chuyển, nếu thật là đại
mộ kiểu như lăng tẩm của Hoàng Đế lão gia tử, kích thước nhất định phải
lớn đến kinh người, kim cương tháp tuyệt không chỉ được dựng bằng một
tầng mộ gạch như này đâu, mà ít nhất phải cỡ bảy, tám tầng, thậm chí
nhiều hơn nữa lên đến cả con số chín. Ba người chúng tôi tổng cộng chỉ
có một cái bồ cào, một cây súng săn kiểu cũ, một thanh quân đao, cùng
với một chiếc xẻng công binh mẻ, làm sao có thể lay chuyển được kim
cương tháp cơ chứ?
Kim cương tháp trong tòa Liêu mộ này là do
hàng trăm, hàng nghìn khối gạch vuông vức chắc chắn chồng lên nhau mà
thành, khe hở giữa các khối lại được đổ một lớp thép nung nóng chảy để
gắn kết lại, nếu nói đây là một tòa núi vô cùng kiên cố cũng chẳng có gì quá đáng cả. Kim cương tháp đem đạo môn dẫn vào mộ chính ngăn lại một
cách kín kẽ, đến con kiến cũng không chui lọt, chỉ dựa vào ba người
chúng tôi muốn phá hủy được nó, thật chẳng khác nào châu chấu đá xe cả.
Mặc dù bản thân biết rõ là ngay phía sau bức tường kia thôi, chính là
quan quách đặt thi thể của chủ nhân ngôi mộ này, kỳ trân dị bảo chắc
chắn sẽ phải chất đống như núi, nhưng địa cung nơi ấy lại hoàn toàn bị
kim cương tháp ngăn trở, không có cách nào để có thể đi vào bên trong
tìm kiếm câu trả lời được, thật cảm thấy bất lực.
Ba người đối
mặt với tòa kim cương tháp vừa dày vừa nặng, lại vô cùng kiên cố vững
chắc này, hoàn toàn là bó tay chịu chết. Thế nhưng Tuyền béo và Trăn Tử
vẫn khư khư cái ý niệm muốn được nhìn xem bên trong địa cung có chôn
theo thứ đồ gì hay ho đáng giá hay không, liền châm đèn bão giơ lên soi
kỹ đến từng ngóc ngách xó xỉnh, dù sao trên kim cương tháp này không thể nào đến một khe hở cũng không có được. Nhưng chiếu đi chiếu lại mấy lần kim cương tháp, hết giơ lên lại hạ xuống, cuối cùng cũng chẳng tìm thấy một chỗ nào có thể lợi dụng được cả. Ánh mắt tôi nãy giờ vẫn một mực
bám theo ngọn đèn bão trong tay Tuyền béo, lướt qua lướt lại từng viên
gạch của kim cương tháp, trong bụng đang thầm nghĩ: Kim cương tháp bình
thường được dựng lên ngay phía sau cửa mộ, dùng để phong bế lối vào đạo
môn, dựa theo quy cách về mộ táng thời cổ đại mà nói, quan quách của chủ mộ sẽ thông qua mộ đạo mà được an trí ở trong địa cung, kim cương tháp
cùng cửa mộ không thể nào bị bịt kín trước khi hạ táng, mà là sau khi
quan quách được đưa vào địa cung thì mới lập tức khép lại, để tránh cho
long khí trong mộ bị tản mất ra ngoài. Vì vậy kim cương tháp có thể sẽ
lưu lại một lối đạo môn khác, đến khi quan quách đã được đặt yên vị
trong địa cung, lúc này sẽ tiến hành rót nước đồng nóng chảy vào các khe hở giữa các khối gạch của kim cương tháp, dấu vết này có thể nhận ra
một cách rõ ràng. Mà bức bích họa phía sau kim cương tháp lại là một
khối thống nhất, kim cương tháp vừa dày vừa chắc tuyệt không thể nào có
thể được hoàn thành trong một sớm một chiều được cả…. Tuyền béo thấy tôi ngẩn người, mới mở miệng khuyên nhủ: “Cậu sớm bỏ cái suy nghĩ vớ vẩn ý
đi, đầu cậu có cứng hơn đi nữa thì cũng đếch húc đổ được cái tường bỏ mẹ này đâu, tôi cùng Trăn Tử không nỡ lòng nào thấy cậu lấy trứng chọi đá
mà chết thảm!”
Tôi đáp: “Cậu thì biết cái mẹ gì, tôi đây là đang nghĩ nhiều khả năng hãy còn tồn tại một mật đạo nữa có thể dẫn tới địa
cung nơi hạ táng quan quách.”
Tuyền béo nói: “Mới vừa rồi cậu còn nói kim cương tháp này là dùng để phong bế lối vào mộ đạo, quan quách
không phải đều là từ mộ đạo mà đưa vào trong địa cung sao? Tại sao lại
có một cái mật đạo quái gì ở đây?”
Tôi đành nói rõ cho cậu ta
hiểu: “Người cổ đại rất là mê tín, hạ táng cũng tốt, khép kín mộ đạo
cũng được, địa cung nhiều lắm chỉ được mở ra một khoảng thời gian mà
thôi, không thể chờ đưa quan quách vào trong địa cung rồi mới xây dựng
kim cương tháp được, nhất định trên kim cương tháp sẽ lưu lại một một
đạo môn để có thể mang quan quách đi vào. Nếu như là từ nơi này tiến
thẳng vào địa cung để hạ táng, trên kim cương tháp dùng để chặn đạo môn
sẽ không có dấu vết được bị lại, cho nên rất có thể là còn có ít nhất
một cái mật đạo.”
Trăn Tử chưa tin lắm, hỏi: “Ở trong núi lớn đào ra được một cái mộ đạo như vậy, cũng tốn không ít công sức tiền bạc,
tại sao lại còn phải làm ra tận mấy cái nữa làm chi?”
Tôi đáp:
“Đó là do chủ mộ lo sợ sau này sẽ bị bọn mộ tặc ghé thăm, đem bảo vật
trong địa cung cướp đi sạch sẽ. Càng chôn theo nhiều trân bảo tùy táng,
thì càng sợ có người chui vào trộm đi, trải qua nhiều thời đại, đạo lý
này vẫn luôn tồn tại!”
Tuyền béo ủ rũ cúi đầu, chán nản nói:
“Nhưng biết tìm ở đâu bây giờ? Có lẽ quan quách vốn căn bản không phải
là từ trong gian mộ thất có bức bích họa kia mang vào!”
Tôi liền
gạt phắt suy nghĩ này của Tuyền béo, quan quách chứa thi thể của chủ
nhân ngôi mộ này nhất định là từ gian mộ thất kia mang vào trong địa
cung. Tôi khẳng định như vậy tất nhiên là có lý do rồi, chính là xuất
phát từ đống gỗ mục ở trong gian mộ thất bích họa hồ ly, bên trên những
thân gỗ ấy có mọc ra rất nhiều gốc mộc nhĩ, năm 1968, chúng tôi vì trốn
tránh sự tấn công của bầy sói cũng như bão tuyết mà phải trốn vào trong
tòa Liêu mộ này, nhờ có những gốc mộc nhĩ ấy mới giúp chúng tôi có thể
cầm cự được qua mấy ngày liền, nhặt được một cái mạng này trở về. Tại
sao trong đấy lại có rất nhiều gỗ mục? Đổi lại là người ngoài chắc hẳn
sẽ không thể nào nhìn ra được điều gì từ chúng cả, nhưng với tôi thì lại khác, tổ phụ của tôi trước kia trong xã hộ cũ vốn được xưng là âm dương tiên sinh, chuyên xem phong thủy, âm dương mộ trạch cho người ta, đồng
thời cũng đã từng có thời gian làm mộ tặc chui qua chui lại không ít hầm mộ, nhiều lúc rảnh rỗi, người thường giảng cho tôi nghe qua một hai
kiến thức về các loại đạo môn, cách cục bố trí bên trong cổ mộ,... Với
kích thước và quy mô như này của tòa Liêu mộ Hắc Sơn Đầu, có thể khẳng
định chắc chắn mộ chủ được khâm liệm vô cùng cầu kỳ, quan quách không hề nhỏ. Đối với quan quách lớn như vậy, không thể nào trực tiếp mang vào
mộ đạo, còn nếu như để xuống dưới đất rồi đẩy vào trong, thứ nhất là rất dễ làm quan quách bị hư tổn, thứ hai là sẽ để lại dấu vết trên tầng mộ
gạch, cho nên ở dưới tình huống bình thường, trong mộ sẽ sử dụng rất
nhiều cây gỗ được vát tròn, sau đó đặt quan quách lên rồi mới từ từ dời
xuống địa cung. Đống gỗ mục đặt ở trước bức bích họa cửu vỹ hồ ly, chính là được để lại sau khi quan quách đã được đưa vào trong địa cung thành
công, như vậy thì lối vào mộ đạo thật sự nhất định là ở xung quanh đây!
Tuyền béo nói: “Bảo sao trong gian mộ thất đó lại có nhiều gỗ mục như
vậy, trước tôi còn tưởng thằng bỏ mẹ nào dở hơi đi mang mấy cái cọc gỗ
này làm đồ tùy táng chôn theo, hóa ra chúng lại có công dụng như vậy.
Tôi xem chừng cái đứa được chôn cất ở đây, cho dù có thật là một con cửu vỹ hồ ly đắc đạo thành tinh đi chăng nữa, thì cũng đếch có giảo hoạt
được bằng cái loại tiểu tử nhà cậu!”
Có thể tưởng tượng được,
quan quách của mộ chủ hết sức to lớn, cửa vào mộ đạo cũng sẽ không hề
nhỏ, nghĩ tới nghĩ lui, chẳng có nơi nào thích hợp cả, chỉ có mỗi cách
là đi qua kim cương tháp, nhưng vậy há chẳng phải rất kì quái sao, quan
quách như thế nào mới có thể xuyên qua được kim cương tháp vững chắc như này chứ? Ba người chúng tôi chẳng biết phải làm gì tiếp theo cả, vô
thức bước tới phía trước kim cương tháp. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy hình
như đôi giày lính khi dẫm lên trên lớp cát có phát ra một thứ tiếng vang gì đó, liền lập tức gập người cúi xuống, bốc lên một nắm cát, vân vê
trong tay một hồi, rồi lại cúi xuống cắm thẳng tay vào trong tầng cát,
chỉ thấy tầng cát dưới chân sâu không thấy đáy. Hai người kia cũng cảm
thấy kỳ quái, Hắc Sơn Đầu đáng ra không thể có nhiều cát đến như vậy.
Chúng tôi thay nhau dùng xẻng công binh đào xuống phía dưới chân kim
cương tháp, rất nhanh liền đào ra được một cái sa động. Có thể thấy rằng trong mộ đạo vốn từ đầu đã có một tòa sa chướng, kim cương tháp được
xây dựng phía trên sa chướng, trước khi tiến hành hạ táng đã cho người
từ trong sa chướng đào ra một cái động, sau khi quan quách của chủ mộ đã được đưa vào trong địa cung, lúc này mới mở ra hai cái sa động, khiến
cho lưu sa chảy đầy vào trong hai sa động này, kim cương tháp ngay sau
đó liền được hạ xuống, ngăn kín lối vào mộ đạo. Kim cương tháp cùng sa
chướng kết hợp với nhau, có thể nói là một cương một nhu, tất nhiên là
không thể chê vào đâu được, nhưng mà bách mật nhất sơ (Trans: Có kín kẽ
đến đâu đi chăng nữa, cũng sẽ có một số kẽ hở, sai lầm không ngờ tới),
không để ý tới lúc kim cương tháp đang hạ xuống sẽ khiến cho lưu sa khó
mà hoàn toàn có thể chảy kín vào trong sa động, bên dưới hãy còn hố cát
sâu hơn một thước chưa được lấp đầy, nhưng lại bị kim cương tháp chặn
lại, khiến cho lưu sa không thể chảy xuống được nữa. Tuyền béo trước giờ vẫn luôn là kẻ cậy mình lớn gan thích làm bậy, cậu ta thấy sau khi đã
đào ra được cửa động vừa vặn có thể chui vào, liền lấy đèn bão treo lên
trước đầu súng săn, xung phong đi trước mở đường. Tôi cùng Trăn Tử cũng
theo sát ngay phía sau, chỉ thấy tòa kim cương tháp này có tận bảy lớp
gạch dày kiên cố chứ không phải một lớp như bọn tôi vẫn tưởng, bên kia
chính là một đoạn đường hầm, phía dưới dùng loại gạch có hoa văn bảo
tương hoa lát thành lối đi, vách tường có những vết tích giống như đã
từng bị đục đẽo qua, xem ra địa cung tòa Liêu mộ này chính là được tạc
thẳng từ trong lòng núi mà thành. Tầm chiếu sáng của đèn bão chỉ có hạn, trong địa cung tuyền một màu đen nhánh, không gian tràn ngập một loại
khí tức tử vong, vừa âm u lại vừa ngột ngạt, không khỏi khiến cho người
ta rợn hết cả tóc gáy.
Tuyền béo lè lưỡi nói: “Tòa cổ mộ lớn như thế này, nhất định là dùng để chôn nắm xương khô của tên Hoàng Đế nào đấy!”
Tôi thì lại không cho rằng mộ chủ là một lão Hoàng Đế, hình thế âm dương
nơi này chính là ứng với “Cửu long đài ngọc liên”, tuy là dùng để an
táng bậc cửu ngũ chí tôn, thế nhưng trên mộ gạch lại dùng hoa văn bảo
tương hoa để trang trí, theo như suy luận của tôi, nơi này là để an táng một vị nữ tử nào đó mới đúng!
Trăn Tử hỏi: “Nữ nhân cũng có thể trở thành Hoàng Đế sao?”
Tuyết béo liền vênh mặt giảng đạo: “Đương nhiên là có chứ, tỷ như lão nương Từ Hy Thái Hậu của chúng ta đó thôi!”
Tôi quay qua nói với Tuyền béo: “Từ Hy đâu có làm Hoàng Đế hả tên ngốc này? Được cái tuy bà ta không phải là Hoàng Đế, nhưng cấp bậc cùng quyền lực tuyệt đối không hề thấp hơn!”
Tuyền béo vẫn cố nói: “Nữ nhân mà
có thể ngồi ngang hàng cùng với Hoàng Đế, thì chỉ có thể là vợ của Hoàng Đế thôi chứ, gọi là nương nương hay gì gì đó.”
Tôi nói cho cậu
ta hay: “Thôi cậu đừng có đoán mò linh tinh nữa, tôi phỏng chừng tòa
Liêu mộ này chính là dùng để chôn cất một vị Thái Hậu!” Lời kia vừa mới
thốt ra khỏi miệng, Trăn Tử liền gật đầu liên tục tỏ ý đồng tình, quả
thật trong núi trước giờ có rất nhiều truyền thuyết kể về một ngôi mộ
Thái Hậu bí ẩn. Ví dụ như có một chuyện nói như này, thời Liêu có một vị Thái Hậu bị kẻ gian hãm hại, sau đó bị Hoàng Đế khoét mất cặp mắt,
nhưng thế nào lại may mắn chạy thoát ra được khỏi thâm cung, cơ duyên
xảo hợp liền được một con “Thần Hồ” cứu giúp, sau đó xây dựng lực lượng
quay trở lại diệt trừ gian thần, đoạt lấy quyền binh, để cho con trai
mình thừa kế ngôi vị Hoàng Đế. Lại có người nói rằng, Thái Hậu thật đã
sớm bỏ mạng ở trong thâm cung, còn vị Thái Hậu xuất hiện sau này chính
là do một con cửu vỹ hồ ly hóa thân thành, chẳng lẽ chúng ta thực sự đã
chui vào đại mộ mai táng vị Thái Hậu nhà Liêu kia.
Trăn Tử từ bé đã từng nghe qua nhiều truyền thuyết mê tín quỷ dị về ngôi mộ Thái Hậu
trong núi, quay sang hỏi tôi cùng Tuyền béo hay là trước tiên cứ quay
trở lại thôn đã, sau đó gọi thêm người tới giúp một tay? Tuyền béo nói:
“Ba người chúng ta đi một chuyến lại về một chuyến, rồi còn thêm người
này người nọ, vậy phải trì hoãn đợi đến lúc nào đây? Đến lúc đấy rồi sợ
rằng kỳ trân dị bảo trong mộ đã sớm bị những tên chuột đất khác vác đi
sạch từ đời nào, đâu đến lượt chúng ta nữa? Chớ nên tự mình làm lỡ cơ
hội!”
Tôi cũng đồng tình với ý này của Tuyền béo, Lục Quân bỏ
mạng một cách bất ngờ không rõ ràng ở trong tòa Liêu mộ này, tôi và
Tuyệt béo tuyệt sẽ không bỏ qua dễ dàng như thế, huống chi chúng ta chân trước chân sau vừa rời khỏi đây, lập tức sẽ có kẻ khác nhảy vào. Sao
không đánh liều một lần tiến vào trong địa cung, thăm dò xem rốt cuộc
tình hình trong đó là như thế nào? Tuyền béo là loại chuyên thích cầm
đèn chạy trước ô tô, thấy tôi cũng có ý tán đồng với cậu ta, liền co
cẳng vội vã đi về phía trước. Tôi lập tức gọi ngược cậu ta trở lại, chưa vào đến mộ chính mà đã gặp phải lưu sa, phục hỏa, rết cương thi khổng
lồ, thì có quỷ mới biết bên trong địa cung còn có cạm bẫy đáng sợ như
nào nữa? Tôi chỉ là dựa vào chút kiến thức học được từ “Lượng Kim Thước” cũng như các sự tích mà tổ phụ truyền lại, từ phương diện âm dương
phong thủy mới nhìn được ra rằng tòa Liêu mộ này là một tòa đại mộ để
chôn một vị Thái Hậu nào đó, còn các kiến thức khác thì tôi hoàn toàn
không biết, nếu như không muốn bỏ mạng oan uổng ở đây thì chỉ có một
cách duy nhất, đó là cẩn thận gấp đôi! Tôi để cho Tuyền béo đi sau cùng
bọc hậu, còn mình thì đi ở phía trước mở đường, Trăn Tử kẹp giữa hai
thằng tôi.
Tuyền béo lo rằng trong mộ đạo này không khéo vẫn còn con rết khổng lồ nào đó sót lại, liền nói với tôi và Trăn Tử: “Viên cẩu bảo kia quả là thứ đồ tốt đó nha, tác dụng trên cả tuyệt vời, nếu mà
gặp phải con rết bỏ mẹ nào nữa á, cứ trực tiếp đút tọt vào mồm nó!” Quả
thật tôi tới tận bây giờ trong lòng vẫn còn sợ hãi vì cuộc đối đầu với
con rết kia, thật sự lúc ý tôi quá may mắn khi vô tình ném ra viên cẩu
bảo hàng phục được nó, mặc dù tôi vẫn biết rằng vạn vật trên đời này đều là tương sinh tương khắc, bất kỳ vật nào cũng sẽ có một vật khác khắc
chế được nó, nhưng lúc ấy lại không nghĩ rằng viên cẩu bảo này chính là
khắc tinh của loài rết này!
Ba người chỉnh cường độ chiếu sáng
của đèn bão lên mức cao nhất, dè dặt đi vào trong đường hầm dẫn tới địa
cung. Tôi vừa bước từng bước cẩn thận về phía trước, vừa hồi tưởng lại
những tin đồn truyền miệng, truyền thuyết mê tín đề cập đến vấn đề mộ
phần, trộm mộ, đoạt bảo vật trong mộ mà trước kia tổ phụ đã từng kể qua. Nghe nói ở Đại Hưng An Lĩnh cũng như mấy vùng thảo nguyên phía Tây, có
rải rác rất nhiều lăng tẩm đế vương thời kỳ nhà Liêu, nhưng phần lớn đã
bị phá hủy nặng nề. Căn cứ theo sử sách ghi lại, năm đó quân Kim hạ gục, đánh chiếm được Đông Kinh Biện Lương, Tống Khâm Tông cùng Tống Huy Tống bị bắt làm tù binh, Tống Khâm Tông trong lúc bị đày đi lưu vong, từng
thấy quân Kim tiến hành quật mả hoàng lăng nhà Liêu. Hắn chỉ dám lặng
lẳng đứng từ phía xa mà quan sát, trông thấy một đám người ăn mặc giống
hệt nhau, tuyền một bộ đồng phục quần tím áo tím từ đầu tới chân, đó
chính là đám trộm mộ xuất thân Phát Khâu phái, bọn chúng từ trong lăng
khiêng ra một chiếc quan tài lớn, đồng thời lấy sạch những thứ tùy táng
chôn theo trong mộ. Bởi vì lúc ấy Tống Khâm Tông chỉ dám đứng quan sát
từ một khoảng cách khá xa, cho nên cũng không thấy rõ bên trong mộ kia
có thứ kỳ trân dị bảo gì hay không, thứ duy nhất có thể nhận ra là một
chiếc bảo kính, tiên quang phát sáng chiếu xuyên thiên địa. Trong truyền thuyết từng có nhắc đến một thứ bảo kính như thế này, nghe nói nó có
thể khiến cho phong vân biến sắc, dù sắc trời có quang đãng thế nào đi
chăng nữa, chỉ cần bảo kính vừa ra, soi ngược lên thiên khung, lấy tay
bắt quyết niệm chú, trong khoảng khắc mây đen sẽ ùn ùn kéo đến, thiên
địa sa sầm, tiếp đó một trận mưa to như trút nước sẽ ập xuống. Thứ đồ
tuỳ táng chôn theo trong toà Liêu mộ này, có khi nào cũng là một cái
thiên địa bảo kính như kia?
Ngoài ra, xung quanh khu vực Hắc Thủy Giang từ trước đến nay cũng có không ít truyền thuyết liên quan tới mộ
cổ thời Liêu, chúng tôi từng nghe các tay thợ săn già đời trong thôn kể
rằng, nằm sâu trong những cánh rừng bạt ngàn kia có một ngôi cổ mộ, rộng hơn mười dặm, cao tự như núi. Năm đó có một đám thổ phỉ hồ tử không
biết làm như nào lại tìm ra được vị trí của cửa mộ, chuẩn bị đi vào
trong mò khoắng bảo vật, nào ngờ lại bị một bầy ong rừng bất ngờ tấn
công, mười mấy người liền lập tức bỏ mạng ngay tại chỗ, đám người còn
lại liền không còn gan nào mà vào nữa. Tương truyền rằng ngôi mộ này là
nơi dùng để an táng một vị Thái Hậu nào đó nhà Liêu, bên trong giăng đầy cơ quan cạm bẫy, nguy hiểm luôn trực chờ sẵn. Những tin đồn kiểu như
này nhiều vô kể, chuyên được mấy con mụ đồng cốt giả thần giả quỷ truyền ra. Ví dụ như trên núi có một người hái thuốc vô cùng nghèo khổ, ở nhà
cùng bà sống nương tựa lẫn nhau qua ngày. Người này là một người cháu có hiếu, chẳng quản khó khăn nhọc nhằn, thà chịu đói chịu khát vẫn cố gắng băng núi vượt rừng, đổ biết bao mồ hôi nước mắt chỉ để lên núi hái
thuốc đổi lấy chút tiền, tất cả đều đem biếu bà ăn quà, không giữ lấy
một đồng. Có một lần nọ, trong lúc vô tình thế nào lại sẩy chân rơi
xuống một cái sơn động, chỉ thấy trong lòng núi khắp nơi đều là lầu các
đền đài nguy nga tráng lệ, người đi đường tấp nập qua lại, nhưng đều chỉ một mực cắm mặt xuống đất không nói lời nào, dáng vẻ vội vã gấp gáp,
trang phục mặc trên người cũng đều là kiểu cách, hoa văn của thời kỳ
trước, thì ra bọn họ tất cả đều là người chết năm xưa bị chôn sống trong mộ làm đồ bồi táng theo vị Thái Hậu kia. Sau khi rơi vào sơn động,
người này bèn đi tới đi lui khắp nơi dò xét thử, cho đến khi mò được đến trước một toàn đại điện, ngẩng đầu lên liền thấy một lão thái thái mặt
mũi xấu xí khó coi đang ngồi trên Phượng Liên, đầu đội Phượng Quan, bên
cạnh lượn lờ lượn lờ từng làn châu quang bảo khí, mấy chục cung nữ nô
nức trước sau hầu hạ, thật sự là uy phong quá đi! Hắn cứ ngỡ rằng mình
đang gặp được thần linh, vội vàng quỳ xuống dập đầu bái lạy, thập phần
cung kính, lão thái thái thấy hắn cũng là kẻ biết điều, hành động lại
thành kính như vậy, liền hỏi xem hắn có tâm nguyện gì không, hắn thật
thà đáp rằng mình chỉ có một tâm nguyện duy nhất bây giờ là nhanh chóng
tìm được đường rời khỏi núi để còn về nhà chăm sóc người bà đã già của
mình. Lão thái thái ấy vừa nghe thấy hắn nói thế thì biết ngay là một
hiếu tử, thưởng cho hắn rất nhiều kim nguyên bảo, rồi bảo một cung nữ
bên người trước dẫn đường cho hắn ra khỏi sơn động, sau hãy đi theo hầu
hạ hắn. Sau khi trở về nhà, hắn liền cưới cung nữ này làm vợ, lại đem số kim nguyên bảo được thưởng kia mang ra mua bán này nọ, lập tức phát
tài.
Cái loại truyền thuyết với nội dung na ná nhau kiểu một tên nghèo nào đấy rùa rùa thế nào trải qua một phen kỳ ngộ, vừa cưới được
vợ xinh, vừa một chốc phát tài như này đến bây giờ thực sự là vẫn còn
tồn tại khá nhiều. Nhưng không có lửa thì làm sao có khói? Có lẽ chính
là bởi vì ở trong núi thật sự có một tòa cổ mộ mai táng một vị Thái Hậu
như vậy, thế nên mới sinh ra nhiều loại truyền thuyết nhân quả báo ứng,
thần linh hồ tiên như vậy. Trên thực tế, vạn biến không rời kỳ tông
(Trans: Mọi thứ đều có nguyên tắc, quy cách nhất định), tòa Liêu mộ kia
là bắt chước theo kiểu cách xây dựng lăng tẩm của nhà Đường, huyền cung
được tạc thẳng trong lòng núi, bố trí không ngoài ba kiểu, trong “Lượng
Kim Thước” chia ba kiểu bố trí mộ cung này tương ứng với ba chữ, thứ
nhất là chữ “Giáp”, hai là chữ “Trung”, ba là chữ “Thập”. Nói đơn giản
như này, chữ “Giáp” dùng kết cấu đơn mộ đạo, chữ “Trung” dùng kết cấu
Nam Bắc song đối mộ đạo, còn chữ “Thập” thì dùng kết cấu bốn mộ đạo Đông Tây Nam Bắc kết hợp, tuy kết cấu khác nhau nhưng mộ đạo chính đều lấy
Nam Bắc làm chủ hướng.
Vừa rồi chúng tôi từ phía dưới chân tường Kim Cương Tháp chui vào một cái mộ đạo gọi là “Khoáng đạo”, nằm đối
diện với cửa vào huyền cung. Mộ đạo hơi nghiêng, chếch xuống phía dưới,
ba người cẩn thận mò mẫm từng bước một về phía trước, ước chừng mới đi
được hơn trăm bước, lần lượt vượt qua hai đoạn “Qua Động", mỗi một đoạn
Qua Động đều có một đôi điện thờ được tạc từ đá, trái phải mỗi bên sừng
sững một toà, trấn giữ bốn phương vị Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây
Bắc. Điện thờ cao chừng hơn một trượng, đỉnh điện được làm phỏng theo
thiết kế trong hoàng cung, phía bên ngoài lợp một lớp ngói úp kết hợp
với nhau tạo thành các rãnh thoát nước, mặt phía trong thì dùng gạch đá
xây thành khung lô đỉnh, bên trong đặt tượng thờ của bốn vị Thiên Vương, ngoài ra còn bố trí thêm khá nhiều cây nến Trường Minh Đăng. Bốn vị
Thiên Vương bên trong bốn toà điện thờ toàn thân mặc một kiện Long Lân
Y, Đông điện phía Nam thờ Tây phương Quảng Mục Thiên Vương tay nắm xà
kích, Đông điện phía Bắc thờ Bắc phương Đa Văn Thiên Vương tay cầm lọng
báu, Tây điện phía Nam thờ Nam phương Tăng Trưởng Thiên Vương tay giữ
bảo kiếm, cuối cùng là Tây điện phía Bắc thờ Đông phương Trì Quốc Thiên
Vương tay gảy tỳ bà. Tuyền bèo và Trăn Tử cùng trợn to cả hai mắt, cả
hai người họ đều tỏ ra vô cùng lạ lẫm với những thứ trước mắt, cứ liên
tục nhìn nghiêng ngó phải rồi hỏi tôi đây là cái gì, kia là thứ chi. Tôi chỉ biết rằng những thứ đồ xuất hiện trong mộ cổ này đều có một giá trị nhất định, tỷ như bốn loại pháp khí “Tỳ bà, xà kích, bảo kiếm, lọng
báu" trong tay Tứ Đại Thiên Vương kia là để tượng trưng cho “Phong,
Điệu, Vũ, Thuận", còn giải thích rõ ra như thế nào thì tôi cũng chịu
thôi.
Ba người đi qua hai đoạn qua động, thấy ở giữa mộ đạo chỉ
có duy nhất một toà khuyết môn, trên hai cánh cửa đá đều có khắc đồ hình “Hải Thú", trong miệng hải thú có ngậm vòng khoen cửa. Hải thú trong
truyền thuyết thật ra chính là một trong chín đứa con của rồng, đứng
hàng thứ Năm, tên thường gọi là Nghê, dũng mãnh vô địch, hổ báo cũng chỉ có nước làm thức ăn cho nó mà thôi, tuy thế nhưng nó lại là thú cưỡi
của Văn Thù Bồ Tát. Ngoài ra xung quanh khuyết môn còn khắc rất nhiều đồ hình khác như “tỳ bà, bảo kính, trái cây, hương thắp, thiên y” tượng
trưng cho năm loại ham muốn của nhân thế là “sắc, thanh, hương, vị,
xúc", ý là “Vượt qua ham muốn, ắt đắc thành chính quả". Tất cả đồ hình
được bao bởi một vòng phù điêu tròn trịa, lại dùng hai mươi tư cánh hoa
trong Tam Đại Phật Hoa trang trí hết sức hoa lệ cầu kỳ. Chỉ riêng những
phù điêu bên trên cánh cửa đá bên ngoài địa cung này đã đủ khiến chúng
tôi xuýt xoa, thán phục mãi không thôi, ba người đều không kiềm chế được lòng hiếu kỳ, trợn mắt bặm môi dùng hết sức bình sinh đi tới phía trước đẩy mạnh cánh cửa đá, lập tức cánh cửa vang lên một thứ âm thanh trầm
đục nặng nề, chầm chậm mở ra.
Cánh cửa đá này dày cỡ một gang
tay, ba người chúng tôi cố gắng lắm mới miễn cưỡng đẩy ra được một khe
hở đủ để lách người qua. Tôi cho rằng bên trong chắc chắn phải là chính
điện địa cung nơi đặt quan tài của chủ mộ, liền sốc lại tinh thần, mạnh
dạn từ cửa đá khẽ lách vào, nhưng nào ngờ trước mắt vẫn chỉ là một đạo
động được tạc thẳng từ trong lòng núi, trải dài theo hướng Nam Bắc,
nhưng Đông Tây thì lại hẹp, hai bên cũng có điện thờ như trong qua động, cung phụng Tứ Đại Bồ Tát, lần lượt là Cái Chướng Bồ Tát, Hư Không Tàng
Bồ Tát, Tự Tại Thiên Bồ Tát và Ma La Già Bồ Tát. Mà ở giữa hai điện thờ
lại có một toà động môn hình vòm cung, phàm là trong cổ mộ hễ là động
môn có hình vòm cung thì sẽ được gọi là “Khoán Động”. Tôi chiếu theo
những gì ghi trong “Lượng Kim Thước” động não suy nghĩ một chút, xem ra
huyền cung của toà Liêu mộ này là do tiền điện, trung điện, hậu điện,
cùng với năm toà điện trái phải phối hợp với nhau tạo thành. Đạo động có điện thờ Tứ Đại Thiên Vương phía sau kim cương tháp làm tiền điện, đạo
động phía sau cánh cửa đá có đồ hình hải thú thờ Tứ Đại Bồ Tát thì là
trung điện, tiền điện cùng với trung điện đều có thế đi thẳng hướng Nam
Bắc, trung điện hướng Tây Bắc hai bên trái phải thiết lập các phối điện. Phối điện chỉ có khoán động, không có cửa đá ngăn cách, phía cuối trung điện lại tách ra thành một đạo khuyết môn, bên trên điêu khắc đồ hình
một cặp dị thú đang cõng bảo vật, rất dễ để nhận thấy lối đi này sẽ
thông đến hậu điện, cũng chính là địa cung chính điện chúng tôi đang tìm kiếm, theo như người xưa gọi là “Trường Sinh Điện”.
Tuyền béo lầm bầm nói: “Mẹ cổ mộ kiểu quái gì mà hết cái hang này lại đến cái hang khác thế? Biết đến bao giờ mới đến đích đây?”
Để cậu ta khỏi sốt ruột nữa, tôi bèn bảo: “Một cái đạo động tương đương
với một toà điện đường, chỗ chúng ta đang đứng đây đã là trung điện rồi, tiếp theo sẽ là hậu điện, quan tài của chủ mộ nhất định phải được đặt ở trong hậu điện kia.”
Tuyền béo chỉ vào cánh cửa đá trước mặt:
“Các cậu nhìn hai con chó lông xù trông nhà cho chủ mộ kia, trên người
chúng đang cõng cái quái gì thế?”
Trăn Tử vốn xuất thân là thợ
săn, bất luận là chó săn trên núi hay là chó chăn dê trên thảo nguyên
nàng đều đã thấy qua rất nhiều, tuy nhiên lại chưa thấy giống chó nào
trông như thế này, đây liệu có phải là chó thật không? Tôi nói: “Cái con thú lông xoăn tít xù xì cõng bảo vật kia hình như là sư tử, tôi cũng là lần đầu tiên trông thấy, phía trước địa cung Trường Sinh Điện mà lại có đồ hình hai con sư tử cõng bảo vật này, có thể sáng tỏ một điều rằng:
đồ vật chôn theo bên người mộ chủ chắc chắn phải có giá trị liên thành!”
Tuyền béo nói: “Hai cái con súc sinh chó chẳng ra chó, sư tử chẳng ra sư tử
kia rốt cuộc là gì đều không quan trọng, tôi muốn bảo hai người nhìn kĩ
cái vật mà nó đang cõng kia kìa, thứ đó có giá trị liên thành sao? Thế
quái nào Tuyền gia đây càng nhìn lại càng thấy giống một con ngươi nhỉ?”
Vừa nghe cậu ta nói thế, tôi và Trăn Tử đồng loạt ngẩng đầu lên quan sát
thật kĩ một lần nữa đồ hình kia, cả hai đều cảm thấy quả thật là giống
một con ngươi như lời Tuyền béo. Hai con sư tử được chạm trổ trên cửa
vào địa cung, một trái một phải, trên lưng mỗi con cõng theo một món bảo vật, hình dáng tựa bảo châu, là một vòng xoáy hình tròn, xung quanh vật này còn có cả lông mi, không phải là con ngươi thì còn là cái gì được
nữa? À mà cũng không hẳn, còn một khả năng nữa, rất có thể những vòng
tròn xoáy xung quanh kia chính là những đạo bảo quang. Tôi liền nhớ lại
truyền thuyết về một chiếc bảo kính được chôn theo trong mộ cổ thời
Liêu, nhưng mà thấy thế nào cũng không giống bảo kính lắm, chẳng nhẽ thứ kỳ trân dị bảo hiếm có chôn theo mộ chủ lại thật sự là một con ngươi?
Hơn nữa lại còn là con ngươi của người nào chứ?”
Tôi cùng Tuyền
béo xắn tay áo lên, tiến lên đẩy cánh cửa đá dẫn vào địa cung. Trăn Tử ở một bên, nói: “Hai bên còn có hai cái động khẩu, sao không đi vào trước xem thử như nào?”
Tuyền béo đáp: “Mọi thứ rõ rành rành như thế
rồi còn phải nghĩ ngợi nhiều làm gì? Để tôi lấy một ví dụ cho cô em đây
dễ mường tượng nhé, giả sử tôi mang lên ba món ăn đặt trên bàn, chính
giữa mâm là một tô thịt thơm phức nóng hổi, còn bên cạnh là hai đĩa cải
trắng muối chua, vậy cô sẽ chọc đũa vào cái nào trước?”
Tôi cũng nói: “Cái ví dụ này của cậu rất là khá! Chúng ta trước cứ đi vào chính điện nhìn qua chút đã!”
Trăn Tử không phải là không biết trước tiên phải chọc đũa vào tô thịt thơm
ngon, mà là cô nàng lo sợ vị Thái Hậu nhà Liêu nằm trong địa cung kia,
vạn nhất mà ả ta quả thật là do cửu vỹ hồ ly thành tinh hoá thành, vậy
thì biết đối phó ra sao? Tuyền béo không hiểu vậy thì có cái gì mà đáng
sợ, bĩu môi nói: “Cho dù cái con mụ già Thái Hậu kia là do yêu tinh quỷ
quái gì đấy đắc đạo hoá thành, gặp phải Tuyền gia đây thì cũng tắt điện
hết mà thôi! Không nhìn xem bây giờ là thời đại nào rồi cơ chứ, nó mà
dám xuất đầu lộ diện thì chẳng khác gì thiêu thân tự lao đầu vào lửa,
một đám muỗi đốt inox mà thôi, hehehe…”
Tuyền béo đang hăng say
ba hoa chích choè thì chợt nghe thấy mộ đạo phía sau lưng truyền đến một loạt tiếng bước chân. Năm đó lúc hạ táng dời quan, phía dưới nền đất
địa cung có lưu lại khá nhiều gỗ mục, chỉ cần bước lên đạp nhẹ một cái,
liền sẽ phát ra tiếng “kẽo kẹt, kẽo kẹt" rất là đặc trưng, tiếng vang
tuy nhỏ nhưng giữa không gian âm u vắng lặng bên trong mộ đạo này thì
lại đặc biệt trở nên chói tai. Song phương cách nhau chỉ mấy chục bước
chân, nhưng khoảng không phía trong địa cung lại tối như hũ nút, dù có
đứng trước mặt nhau cũng chưa chắc đã nhìn thấy gì cả, hiềm nỗi địa hình nơi này lại vừa dài vừa hẹp, tiếng vang có thể truyền thẳng đến điểm
cuối của Trường Sinh Điện. Tôi sau khi nghe thấy những âm thanh này, lập tức nhận ra ngay hai tên thợ săn kia đã bám theo tới nơi. Lúc trước tôi cũng đã nghĩ tới việc này, chẳng qua là không ngờ tới việc bọn chúng
lại đến nhanh như vậy, xem ra đối phương đang rất nôn nóng, dần mất hết
kiên nhẫn, lo sợ chúng tôi sẽ mở được địa cung trước, tìm được trân bảo
chôn theo trong mộ rồi cao chạy xa bay! Tôi không biết đối phương còn
dẫn theo bao nhiêu người tới nữa, chỉ có mỗi mình hai bọn chúng, hay còn thêm kẻ nào?
Tôi vội vàng tắt ngọn đèn bão, nhưng tiếng bước
chân thì lại càng ngày càng gần, chỉ còn cách nhau khoảng hai mươi bước
nữa thôi, hiện giờ đã có thể thấy hai ngọn đuốc lập loè ở phía sau. Tôi
xem chừng đối phương không dẫn theo nhiều người, lúc này mới lôi đèn pin trong túi ra, bật lên chiếu thẳng về hướng bọn chúng, chỉ thấy hai tên
thợ săn Đại Hổ, Nhị Hổ kia, trên người đeo súng chim cùng với xẻng lưỡi
vịt, tay cầm cây đuốc, một trước một sau đang đi vào bên trong lục lọi.
Hai người bọn chúng vừa thấy bên này có ánh đèn pin chiếu vụt qua, vội
vàng nhảy sang một bên né tránh, cùng lúc đó, súng chim trong tay Tuyền
béo cũng đã được khai hoả. Bên trong Trường Sinh Điện là một mảnh tối
đen, cách nhau tận mười mấy bước chân thành ra rất khó để xác định được
đúng mục tiêu, phát súng này của cậu ta liền bắn trúng vào nóc điện thờ
Hư Không Tàng Bồ Tát, hoành phi bằng đá vỡ vụn.
Hai tên kia bị
phát súng này làm cho đâm hoảng, liền lắc mình chui vào một bên khoán
động. Tuyền béo thấy cừu nhân không đội trời chung thì liền tức giận,
hai mắt long sòng sọc, hơn nữa bên trong Trường Sinh Điện chật hẹp này,
không thể để cho đối phương có được cơ hội trả đũa nên liền tức tốc đuổi về phía trước. Tôi cùng Trăn Tử lo sợ cậu ta hành động sơ xuất, cũng
lập tức mở hết đèn pin lên theo sát ngay đằng sau. Hai tên thợ săn trốn
vào một cái động môn, bên trong động môn là một đoạn thông đạo dài được
lát gạch nung, thông với phối điện phía Tây. Trong thông đạo tối mò mò,
khắp nơi đều là mạng nhện cùng bụi bặm tích trữ suốt mấy trăm năm, khiến cho người ta sặc lên sặc xuống không thở nổi, ánh sáng đèn pin cơ hồ có cũng như không, chúng tôi cũng sợ đối phương sẽ dùng súng chim bắn
ngược trở lại, cho nên không dám đuổi quá nhanh. Thông đạo được lát
gạch, cao hơn hai trượng, đi sâu chừng ba mươi bước, phía cuối nối với
phối điện bên trái, chỗ giao nhau cũng là một cái khoán động, không hề
thấy có cửa đá, chỉ dùng mộ gạch bịt kín lại. Chúng tôi nghe thấy phía
trước vang lên tiếng hai tên kia đang cố đẩy sập bức tường, đi tới gần
lấy đèn pin chiếu một cái, chỉ thấy dưới đất vương vãi đầy gạch mộ, có
một tên đang xoay lưng về phía chúng tôi, ngồi bệt dưới đất ngay phía
trước phối điện phía Tây không nhúc nhích, tựa hồ hắn đã trông thấy một
thứ gì đó rất đáng sợ, thành ra ngây người như vậy, tôi cũng thử hướng
mắt nhìn theo nhưng chỉ thấy bên trong là một khoảng không âm u tối đen. Nhờ ánh sáng từ đèn pin soi tỏ liền có thể nhận ra ngay, hắn chính là
Đại Hổ.
Hai anh em bọn chúng thân hình tương tự nhau, đều đeo
trên lưng một cây súng chim, trên đầu đội chiếc mũ sành, điểm khác biệt
giữa hai người là một cái khăn quàng lớn, cùng một cái túi to, đi đến
nơi nào cũng mang theo. Ba người chúng tôi không biết tay Đại Hổ này
đang định giở trò quỷ gì, tại sao hắn lại đột nhiên dừng lại? Thằng em
Nhị Hổ của hắn trốn đi đằng nào mất rồi? Chúng tôi không hẹn mà cùng
bước chậm lại, từ đống gạch đổ vỡ cẩn thận bước vào, đi sang hai bên
nhìn thử, tất cả tối đen như mực, không hề thấy có người nào cả, đang
lúc trong lòng cảm thấy kỳ quái, chợt nghe sau lưng có tiếng bước chân
mạnh mẽ lao tới, tôi lúc này mới ý thức được rằng đây là một cái bẫy!
Hai tên mộ tặc giả dạng thợ săn này, một tên dẫn dụ chúng tôi chạy đến
đây, còn một tên thì núp sẵn ở trong thông đạo từ trước. Tuyền béo phản
ứng lại cũng khá nhanh, cậu ta xoay người giương súng định bắn, nhưng
bất ngờ phía trên thông đạo lát gạch điên cuồng ập xuống một dòng lưu
sa, trong khoảnh khắc bịt kín cả thông đạo lại.
Thì ra thời điểm mà toà Liêu mộ này được xây dựng, đào ra được bao nhiêu đất đá trong
núi, liền từ Đại Mạc vận chuyển đến tới bấy nhiêu cát vàng, bố trí thành thật nhiều cạm bẫy bằng cát phía trên đỉnh mộ. Hai tên Nhị Hổ này cũng
là hai tay mộ tặc lão luyện, nhìn ra được cách cục bố trí địa cung bên
trong Liêu mộ, ở trong thông đạo khởi động được cơ quan lưu sa, đem phối điện lấp kín. Cát chảy không thể so với gạch đá hay đất bùn, muốn đào
cũng không có cách nào mà đào được, đào được bao nhiêu cát lại chảy
xuống lấp đầy bấy nhiêu. Thời xưa, loại phương pháp phòng chống trộm này được sử dụng không ít, đừng nói là hoàng cung đại nội, ngay cả đại hộ
nhà người ta sân tường biệt viện đều là hai lớp kép, ở giữa nhét đầy
gạch khối đá vụn để phòng ngừa trộm cướp, chủ yếu là ngăn chặn đám đạo
tặc đục tường khoét vách, còn đám phi tặc thì có được bao nhiêu tên mà
phải phòng bị? Đại đa số nếu muốn đột nhập vào thâm trạch đại viện thì
thường thường đều là ở trên tường viện khoét ra một lỗ hổng, trước kia
từng có câu cách ngôn như này “Làm kẻ gian khoan lỗ thủng”, còn theo
tiếng lóng của dân trong nghề thì gọi là “Khai đào viên". Bọn họ có một
loại đoản đao đặc chế riêng biệt, chỉ có một chút ở phần đầu đao mới
được làm từ thép, còn lại thân đao làm hoàn toàn từ nhuyễn thiết, để đến lúc khoét vách không còn bị gãy ngang chừng nữa. Còn có thể loại đạo
tặc không những bản lĩnh cao mà đạo đức cũng rất tốt, bọn chúng xách đao đến khoét tường đục ngói chui vào trong nhà trộm lấy bảo vật, xong xuôi đâu đấy đến lúc chui ra còn giúp người xếp lại tường gạch chỉnh tề,
ngay cả kẽ hở giữa các viên gạch cũng được trát vữa cẩn thận. Người
trong nhà có tiền vì để đề phòng kẻ gian lẻn vào lấy đi thường thường
dùng đá vụn xây thành tường kép. Ở các nhà ngục bên trong doanh trại còn dùng thật nhiều cát vàng đổ vào giữa hai bức vách, được gọi là hổ
tường, không nghĩ tới bên trong địa cung này cũng có thiết lập hệ thống
lưu sa như vậy. Trong lòng cả ba người đều cảm thấy trào lên một cảm
giác tuyệt vọng: “Tên mộ tặc kia thật là độc ác, vì muốn chúng ta bị
chôn sống ở chỗ này mà hi sinh cả đại ca hắn! Nghe nói cái bọn mộ tặc
này thấy tài liền vong nghĩa, vì chuyện xích mích chia chác báu vật mà
sẵn sàng hạ đạo giết người diệt khẩu, kể cả là huynh đệ ruột thịt!”
Chúng tôi thấy tên thợ săn Đại Hổ kia vẫn ngồi bất động ở chỗ đó không nói
một tiếng nào, đối diện với hắn chỉ có vách đá trống rỗng, không hề thấy thứ gì có thể khiến hắn sợ ngây người ra như thế được cả, tôi thầm tặc
lưỡi: tên này bản lĩnh chính trị quả là kiên định! Phải chăng hắn muốn
lấy tĩnh chế động để đối phó với chúng tôi? Tuyền béo từ nãy đến giờ vẫn không nuốt trôi được cục tức, sớm đối với hai tên này hận đến cắn răng
nghiến lợi, chỉ muốn lia cho tên Đại Hổ kia một băng súng mới hả được
cơn giận. Tôi vội bảo cậu ta trước chớ nên động thủ, vòng tay ra sau rút lấy thanh quân đao, rồi tiến lên phía trước nắm chặt một cái vào vai
Đại Hổ, muốn xoay hắn lại để hỏi cho ra nhẽ, nào ngờ tay tôi vừa mới đưa tới thì hắn đã ngã ngửa ra đất. Ba người lấy làm kinh hãi, vội giơ đèn
pin lên soi thẳng vào mặt hắn, chỉ thấy trên khuôn mặt trắng loá một
mảnh, tôi lập tức cảm thấy khó hiểu: hắn thế nào lại để cho mặt mình
dính đầy bùn đất thạch cao thế này, cho đến khí nhìn kĩ lại một lần nữa, mới nhận ra trên mặt hắn tất cả đều là hoạt thư (Trans: Ấu trùng ruồi
nhặng, dòi,..”)!