Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư
Dịch: Đặng Nam
Học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học
những năm 1966, 1967 và 1968 được gọi chung là “Lão Tam Giới”. Những học sinh này sau khi rời khỏi mái trường, thì chỉ có duy nhất ba con đường
để lựa chọn, một là đi tòng quân, hai là về nông thôn tham gia các đội
sản xuất, ba là vào nhà máy làm công nhân thay ca. Trong thời đại ấy của chúng tôi, đối với bất kì ai mà nói, đầu quân nhập ngũ là sự lựa chọn
vẻ vang nhất. Tôi vẫn luôn cho rằng mình mang trong người dòng máu lửa
hồng, lại là con em gia đình quân đội, đứa cháu ngoan của Mao Chủ tịch,
cho nên việc nhập ngũ tòng quân ấy là chuyện đương nhiên chẳng cần phải
bàn cãi. Từ bé tiếp thu sự giáo dục cùng với hoàn cảnh của gia đình, tất cả đều khiến tôi nghĩ rằng mình chắc chắn sẽ trở thành một vị quân
nhân, giải phóng toàn nhân dân thế giới khỏi cảnh chiến tranh đạn lửa,
kiến lập nên thành tích chói lọi, ngàn vạn lần không có nghĩ đến cửa ải thẩm tra lí lịch, thế quái nào lại bị biến thành “Con cái có thể bị
giáo dục lại”, đồng dạng đen đủi như tôi còn có Tuyền béo cùng Lục Quân. Tuyền béo chính là hậu nhân của vị chưởng quỹ hàng thịt năm xưa, hai
nhà chúng tôi ba đời giao tình, từ khi hắn còn mặc quần thủng đít hở
sạch cả bờ mông phốp pháp là tôi đã quen hắn rồi. Ngoài ra còn có bạn
học của Tuyền béo tên là Lục Quân, hắn mắt cận thị, mặt trắng nõn, bình
thường hay xem nhàn thư, thích tham tiện nghi nhỏ của người khác, chỉ
toàn đưa ra những chủ ý vớ vẩn. Đã không theo được nghiệp binh, giai cấp công nhân cũng chả cần chúng tôi, thì thôi ba đứa chúng tôi chỉ còn lựa chọn duy nhất, không ngoài “Trời đất bao la luyện hồng tâm, lên núi
xuống thôn làm thanh niên tri thức.”
Khi đó thanh niên trí thức
bị phân công làm ruộng không gọi là làm ruộng, mà tự chế giễu nhau là
“đi sửa chữa địa cầu”. Bất quá tuy cùng là thanh niên trí thức nhưng lại không giống nhau, cơ bản được chia thành hai nhóm riêng biệt, thanh
niên trí thức đi tham gia sản xuất ở nông thôn là về các vùng quê rồi ở
đấy luôn, toàn làm mấy việc đồng áng nhà nông; còn nhóm kia thì gọi là
binh đoàn trí thức, đi đến các binh đoàn nông khẩn, ở biên giới khai
hoang mở đất, thi hành bán quân sự hoá quản lí, hoàn cảnh e rằng so với
mục khu và lâm khu có lẽ gian khổ hơn, nhưng mà có thể được sờ vào súng, trừ việc không có phù hiệu lẫn huy hiệu gắn trên mũ thì cùng với bộ đội chính quy không có nhiều sự khác nhau lắm.
Ba người chúng tôi
tất nhiên là lựa chọn cái sau rồi, tuy rằng binh đoàn sản xuất cũng có
kiểm tra xét duyệt lí lịch nhưng chung quy là vẫn thoáng hơn so với quân đội chính quy. Chúng tôi bị hành lên hành xuống, cuối cùng được phân
công đến Đại Bắc Hoang tham gia sản xuất kiến thiết (Trans: Khu vực
hoang dã phía Bắc), biên chế vào binh đoàn nông khẩn, sư đoàn Ba, đại
đội súng máy. Trước khi đến được Bắc Đại Hoang, ba đứa đều nghĩ nơi này
hẳn sẽ rất tốt, vốn tưởng rằng sẽ có hương thôn phụ lão cùng ruộng đất
xanh tươi, có thể xuân gieo hạt giống thu hái trái xanh, mặt trời lên
thì hăng say lao động, mặt trời xuống thì cùng nhau nghỉ ngơi, binh đoàn thực hiện bán quân sư hoá thì sẽ còn có cơ hội bắn súng, cưỡi ngựa, uy
phong lẫm liệt dắt súng bên hông đi tuần tra biên giới, bảo vệ dải biên
cương tổ quốc, không phải là rất kích thích sao? Thế nhưng cho đến khi
tới nơi, nhìn một cái, nước mắt hạnh phúc dồn nén bấy lâu không thể rơi
xuống, bởi vì cảnh tượng trước mắt, thật có thể nói là “Thiên lí vô nhân đoạn ngọ yên, hoang nguyên nhất vọng diểu vô biên” (Trans: Miêu tả cảnh nơi đây rất hoang vắng, tiêu điều không một bóng người, hoàn toàn khác
xa so với suy nghĩ của ba vị chuyên tưởng bở kia)! Một vùng đầm lầy ẩm
ướt hoang vu mênh mông bát ngát không thấy đầu cuối, lại vừa có thỏ vừa
có sói, nơi ở hoàn toàn là túp lều lán trại mà thôi. Năm này vừa khéo là năm 1968.
Nơi sư đoàn nông khẩn số Ba đóng quân gần sát với Nội Mông thuộc biên giới Trung-Nga, tiếp giáp với vùng rừng rậm nguyên thuỷ của khu Đại Hưng An Lĩnh. Thời Bắc Tống, Hoàn Nhan A Cốt Đả của bộ lạc
Nữ Chân thuở nhỏ đã từng tại nơi này đánh cá săn bắt mưu sinh, sau này
Kim Bát Kỳ cũng là từ nơi đây mà phát tích, tiến vào Long Hưng quan ải
kiến lập nên vương triều Mãn Thanh, sau đó đem vùng hoang dã rộng lớn
này cùng rừng núi nguyên thuỷ bảo hộ toàn vẹn, săn bắn, chăn thả gia súc hay làm ruộng đều không được phép, trăm nghìn năm qua một mực bảo trì
trạng thái man hoang cổ xưa của phiến thiên địa này. Mãi cho đến những
năm 50 của thế kỉ này mới có binh đoàn đóng quân trấn thủ đầu tiên tới
khai hoang. Binh đoàn lấy sư đoàn làm đơn vị, mỗi đơn vị có một khu vực
riêng. Chúng tôi sau khi đã tham gia khoá huấn luyện quân sự đơn giản,
bị phân về nông trường số 17 hoang vắng nhất vùng Tây Bắc, thuộc quản lý của sư đoàn Ba, binh đoàn sản xuất kiến thiết nông khẩn Hắc Long Giang. Mang tiếng gọi là nông trường nghe rất hay tai, nhưng thật ra đến một
đống đất hình cái nhà cũng đều không có, mà là ở trên hoang nguyên đào
ra mấy cái động, mặt trên bện lá cây lẫn cành cây làm thành cái mái, lại che lên thêm hai lớp vải bạt chống nước, gọi là “Địa oa tử”. Ăn ở sinh
hoạt hoàn toàn thực hiện ở trong loại địa oa tử này, mùa đông thì rét
căm căm, mùa hè thì nóng như lửa đốt, mưa một cái thì chẳng khác gì cái
bể bơi, thật đếch phải nơi dành cho người ở, Tuyền béo chính là tại nơi
này học được bản lĩnh bơi lội.
Biên chế của nông trường số 17 là một trung đội, nhưng trên thực tế thì nhân sự đếm ra chỉ được có một
tiểu đội, trung đội trưởng là một vị quân nhân tàn phế đã từng tham gia
kháng chiến chống Mỹ viện Triều. Hắn tại chiến dịch Trường Tân Hồ Đống
mà hỏng mất một bên chân, từ năm 1953 bắt đầu về đây trấn thủ rồi làm
nông khẩn, cắm rễ tại nơi biên giới này đã được hơn 15 năm rồi, đối với
vùng đất hoang nguyên này hắn nắm rõ như lòng bàn tay. Ba thằng chúng
tôi ở trong trung đoàn, thậm chỉ là cả trong sư đoàn, đều là xưng tên
báo số cùng ba từ “Khó cạo đầu”, nói trắng ra chính là nghịch ngợm càn
quất không chịu nghe theo quản lí của cấp trên, vậy cũng chẳng có gì là
kì lạ, chúng tôi trước kia ở trong quân khu đại viện, thủ trưởng thấy
qua không ít, là lập chí tại đại chiến thế giới lần thứ ba đại chiến trở thành tư lệnh viên, làm chủ chiến trận, ù ù một lão trung đoàn trưởng ở cái binh đoàn sản xuất rách này làm sao có thể chỉ huy được mấy người
chúng tôi chứ? Bất quá tôi vẫn rất là bái phục vị trung đoàn trưởng này
của chúng ta, bởi vì hắn có đầy một bụng những cố sự đã từng xảy ra
trong khu rừng già núi thẳm này, khiến người ta vô cùng ghiền tai, nghe
nhiều đâm ra thành nghiện!
Cuộc sống sinh hoạt hằng ngày ở binh
đoàn nông khẩn vô cùng nhàm chán và buồn tẻ, trừ thuộc không xong ngữ
lục, viết không nổi “Bản kiểm điểm” tâm đắc ra, trung đội chúng tôi chỉ
có hai nhiệm vụ, một là đào đất bùn dưới mương đắp thành đầm nước, hai
là huấn luyện quân sự và tuần tra canh gác. Công việc đào đất mương thật chẳng phải việc nhẹ nhàng dễ chịu gì, hai rưỡi bắt đầu vác xác đi làm
việc, còn làm đến khi nào thì cũng chịu, từ lúc trời tờ mờ hãy còn nhá
nhem làm thẳng đến khi tối mò mới trở về, từng ngày qua đi là từng ngày
mệt mỏi muốn chết đi sống lại, trên tay xước xát từng vết trai vết bầm
nổi lên nhưng cũng không có thời gian mà băng lại cẩn thận. Bởi vì thời
gian này quan hệ hai nước Trung - Xô đang diễn ra theo chiều hướng xấu,
các binh đoàn nông khẩn sản xuất đều được yêu cầu phải trang bị vũ khí,
cho nên ngoài cuốc xẻng cần thiết mang theo để làm công cụ sản xuất
khai hoang ra, toàn bộ mọi người đều được phát thêm súng đạn đầy đủ, nửa đêm canh ba còn hay thường xuyên bất ngờ tập hợp quân, bị trung đội
trưởng lôi từ trong chăn ấm dậy trang bị tư trang đầy đủ, bắt đầu huấn
luyện dã ngoại đêm, vì thế gây ra không ít chuyện cười chảy cả nước mắt. Có một hôm như này, lại là giữa đêm hôm khuya khoắt phát lệnh tập hợp
khẩn cấp, tiếng kèn vừa vang lên, mọi người lăn một vòng từ trong chăn
bò ra, cả tiểu đội hơn 10 người xếp thành một hàng. Trung đội trưởng
giao cho Tuyền béo kiểm tra xem có hay không người nào chưa thực hiện
xong công tác chuẩn bị quân tư trang. Tuyền béo bèn cầm theo sợi lông gà làm lệnh tiễn (Trán: Tượng trưng cho quân lệnh, các bạn xem phim cổ
trang Trung Quốc đến đoạt ném thẻ xử trảm thì thẻ đấy chính là lệnh
tiễn), lần lượt săm soi bới móc sai phạm của từng người chúng tôi, trước nói balo của Trương Tam đeo không đẹp, lại nói Lý Tứ trang bị mang theo không đủ. Tiểu tử này tính khí như cứt chó, lại có thể phê bình tôi là
khăn quàng cổ không buộc cẩn thận, không phù hợp với yêu cầu thực chiến, khi đánh thật không ai biết sẽ phải lăn lê bò toài ngoài thời tiết lạnh giá này mấy giờ đồng hồ cả, không thể để bị đông lạnh mà chết cứng
được. Trung đội trưởng cho là Tuyền béo nói rất là có lí, chính lúc đang muốn biểu dương cậu ta, cầm đèn pin đi về phía trước chiếu một cái,
thiếu chút nữa là hai lỗ mũi của trung đoàn trưởng nổ tung. Thì ra là
chỗ đứng quá tối, lúc này soi vào mới thấy Tuyền béo không biết là cầm
phải cái ống tất dài của ai đang treo trên kháng đất để hong khô, tự
mình vội vàng quấn một vòng trên cổ rồi chạy ra, cái tất đen hôi rình
rình này thế nào vừa vặn lại quấn đúng vào miệng hắn.
Trung đội
chúng tôi đóng quân ở khu vực hoang vu vắng vẻ, thỉnh thoảng ở sâu trong hoang nguyên có thể tình cờ thấy một, hai con sói. Nghe nói là trước
kia còn có hẳn một đàn sói rất đông, nhưng mà qua mấy năm vận động diệt
sói, đàn sói sớm đã bị bộ đội biên phòng đuổi đánh cho hết đường sống,
số sói còn sót lại đến bây giờ đã ít lại càng ít. Có con vì muốn bảo
toàn tính mạng, thậm chí còn vểnh đuổi lên để giả vờ làm chó nhà, cho dù là như thế, đêm đến cũng ít ai dám ra ngoài. Nếu như ban ngày mà đụng
phải chó sói, cho phép nổ súng bắn, binh đoàn có kỷ luật của binh đoàn,
có thể dùng súng đạn để bắn sói trừ hại, nhưng cấm không được vì cải
thiện bữa ăn mà đem ra săn thỏ núi, gà rừng. Trung đội chúng tôi tổng
cộng có tầm hơn 10 người, một năm nọ mùa đông lạnh lẽo chợt ập đến, bộ
chỉ huy liền hạ lệnh cho rút lui một số lượng lớn người, bởi vì trời quá lạnh, đất đai đều đã đóng băng hết cả rồi, không thể trồng trọt chăn
nuôi gì được nữa, phải đợi đến mùa xuân năm sau sông băng tan ra thì lúc ý mới lần lượt quay lại sản xuất tiếp. Trước giải phóng, thổ phỉ trong
núi cùng những nhóm người vào rừng đãi vàng kiếm sống, không khỏi mê tín đối với thiên tương địa tương, thông qua quan sát sự biến hoá của núi
non sông nước để tìm cách giữ cát lộc, trừ hung hoạ. Mùa xuân khi hoa
tùng nở, sông băng tan, phải đứng bên bờ mà xem năm nay là văn khai
giang hay là vũ khai giang: Văn khai giang ngón tay đặt trên sông băng
sẽ khiến lớp băng dần dần tan ra; vũ khai giang ngón tay gõ gõ lên mặt
sông, từng mảnh từng phiến băng lớn sẽ đâm vào nhau, thanh thế kinh
người, nghe nói là do Độc Giác Lão Long dùng sừng xẻ băng rạch nước.
Người xưa tin rằng vũ khai giang chính là điềm báo tốt báo hiệu một năm
may mắn, mưa thuận gió hoà, bốn phương thái bình, ngũ cốc đầy nhà, như
thế gọi là “Thiên hữu long trợ”. Thường nói “Nhất long trị thuỷ hảo”,
ngược lại nhiều rồng quá thì lại không tốt tí nào. Còn văn khai giang kỳ thực nói rõ ra thì là báo hiệu một năm mất mùa, thời tiết khắc nghiệt, ở nơi cao hàn biên hoang này, sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu
hoạch, gặt hái nông sản.
Liên bộ ra chỉ thị để lại mấy người, có trách nhiệm trông chừng các trang thiết bị vật tư trọng yếu của nông
trường. Tôi cùng Tuyền béo và Lục Quân, ba thằng bị nhắm trúng phải làm
người ở lại, ngoài ra còn có một vị chiến hữu khác nữa, là một cô gái
cũng đến từ Bắc Kinh, bởi vì vấn đề xuất thân không tốt nên cũng không
được tuyển chọn vào quân chính ngạch giống chúng tôi, nên mới đi đến
binh đoàn dành cho đám thanh niên tri thức này. Lão quản lí ở Bắc Kinh
gọi cô gái xinh đẹp này là “Tiêm Quả”, người trong binh đoàn cũng theo
thế mà gọi tên. Cô ta được xem như là người duy nhất trong trung đội
biết sử dụng điện đài nên được làm liên lạc viên, bây giờ cũng bị lưu
lại để trông coi nông trường số 17 cùng ba thằng tôi. Thực ra ban đầu
vốn còn có một nữ thanh niên nữa, bất quá do mắc bệnh quáng gà, thành ra tạm thời bị điều đi, đoàn bộ cũng chưa kịp cắt cử người khác đến. Do
thế nên ở lại trực nông trường chỉ có tôi, Tuyền bèo, Lục Quân cùng Tiêm Quả, 4 người không hơn không kém. Một thời gian trước, có bộ tộc dân du mục Mông Cổ đang trên đường chuyển bãi chăn thả khác, lúc đi qua nông
trường số 17 của chúng tôi, có một con chó chăn dê lớn màu đen hạ sinh
một con tiểu cẩu, đám du mục sợ rằng đường xá xa xôi, lại phải lặn lội
vất vả không chăm sóc được con tiểu cẩu này, tạm thời gửi nó cho Tiêm
Quả nhờ trông nom hộ, đợi đến mùa xuân năm sang năm sẽ dẫn đi. Tiểu hắc
cẩu đầu tròn đít tròn, to chẳng khác gì con gấu con cả, mùa đông ở Bắc
Đại Hoang vạn vật đều rơi vào giấc ngủ đông li bì, trước đã hoang vắng
thì nay còn hiu quanh hơn, thành ra mỗi ngày cùng tiểu hắc chơi đùa
khiến cho chúng tôi vui vẻ không ít. Mà theo từng cơn gió lạnh kéo đến, ở cái nơi hoang nguyên vắng vẻ này, cũng chỉ có bốn người chúng tôi cùng
con chó nhỏ này sống nương tựa lẫn nhau.
Trung đội trưởng trước
khi đi dặn đi dặn lại chúng tôi: “Một khi gặp bão tuyết lớn, mấy người
các cậu nhớ chui vào trong địa oa tử mà tránh bão, nếu không cần thiết
phải đi ra ngoài thì hãy ở yên trong đấy đừng có thò cái mặt ra, địa oa tử mặc dù thô sơ đơn giản nhưng ở phía dưới kháng đất có ống khói thông với bếp, cũng thông thẳng tới nền nhà, đốt lửa là sẽ có hơi nóng bốc
lên sưởi ấm. Nhớ phải thay phiên nhau trông coi, tuyệt không được để lửa trong kháng đất bị tắt, còn phải thỉnh thoảng ra dọn bỏ tuyết đọng đề
phòng địa oa tử cùng ống khói bị sập. Các cô các cậu chưa từng sống qua
mùa đông ở vùng Bắc Đại Hoang này, không biết được sự lợi hại của gió
lạnh thổi từ Siberia khủng khiếp như nào đâu, ngàn vạn lần chớ nên khinh thường, bằng không chỉ qua một đêm thôi các cậu sẽ chết đứ đừ cho mà
xem!”
Sau khi người cuối cùng rời khỏi, chỉ còn bốn người chúng
tôi ở lại Bắc Đại Hoang này để trông coi nông trường số 17, mỗi ngày trừ việc đi ra ngoài tuần tra, thì trọng yếu nhất chính là việc dùng gỗ để
đốt lò sưởi ấm. Mùa đông năm nay lạnh một cách khác thường, mặc dù còn
chưa có tuyết rơi, nhưng hàn phong từ Siberia thổi tới đã mang theo băng vụn, thổi lên mặt chẳng khác gì có dao cứa qua vậy, căn bản là không mở nổi mắt, khiến người ta cảm thấy không cách nào chống đỡ được. Mắt thấy thời tiết càng ngày càng xấu, từng đám mây nặng trình trịch từ Tây Bắc
đang dần kéo đến, tôi phân công công việc cho mỗi người: Tiêm Quả phụ
trách điện đài cùng cơm nước hàng ngày, đợi đến khi luồng không khí lạnh thổi đến mang theo bão tuyết, giao thông sẽ bị ngăn trở mất một hai
tháng, lương thực chúng tôi để dành chỉ có hạn, vạn nhất không đủ ăn,
muốn săn thú cũng chẳng có chỗ mà săn, thể nào cũng sẽ bị chết đói, cho
nên khẩu phần ăn của mỗi người mỗi ngày phải theo định lượng; nhiệm vụ
của tôi và Tuyền béo thì là nhóm lửa thêm củi, kết hợp với khi đi ra
ngoài tuần tra, nhân lúc thời tiết hãy còn tốt, chúng tôi cố gắng bắt
thêm vài con thỏ núi, dăm con gà rừng để bổ sung vào kho lương thực; Lục Quân thì phụ trách việc sinh hoạt văn hoá, mỗi ngày kiếm một câu chuyện để kể cho mọi người nhằm giải khuây.
Lục Quân mặt mày như đưa
đám, giãy nảy: “Anh em à, tôi chẳng qua chỉ là đọc qua mấy quyển sách vớ vẩn thôi, đến Bắc Đại Hoang này cũng được gần một năm rồi, ngày nào các cậu cũng bắt tôi kể chuyện, dăm ba mẩu chuyện linh tinh đã sớm bị moi
ra hết, thật sự là không còn gì để kể nữa, giờ bảo tôi bịa ra thì cũng
chịu không bịa nổi đâu!”
Tuyền béo lập tức đốp lại: “Tên tiểu tử
Lục Quân nhà ngươi đừng có không biết cân nhắc một hai, hai phân tiền
một cân cà rốt — cậu hãy còn muốn lấy tiền của chúng tôi có phải không?”
Tôi cũng quay qua nói với Lục Quân: “Đừng có được tiện nghi mà khoe tài,
nếu như cậu cảm thấy công việc kể chuyện này là khó khăn cực khổ, vậy
thì được thôi, bắt đầu từ ngày mai nhiệm vụ của cậu là ra ngoài kiếm
củi, được chứ?”
Thể trạng của Lục Quân vốn vô cùng gầy yếu, tới
nỗi một trận gió lớn cũng đủ để thổi ngã cậu ta, nói gì đến hàn phong
khủng khiếp ở Bắc Đại Hoang này, khéo cậu ta còn bị thổi bay đi mất, cho nên nghe thấy tôi nói vậy thì vội vàng: “Không được không được, trời
lạnh như thế này, tôi biết đi đâu tìm củi đốt đây? Tôi thấy tôi vẫn nên
là tiếp tục công tác làm tư tưởng văn hoá cho các cậu, mỗi ngày kể thêm
cho các cậu vài mẩu chuyện về đồng chí Lôi Phong vậy.”
Tuyền béo nói: “Chuyện về đồng chí Lôi Phong thằng này nghe đến mòn cả hai lỗ tai rồi, không phải là cõng bà già qua sông thôi sao, cái này lại còn phải
cần cậu kể?”
Lục Quân đáp lại: “Những mẩu chuyện kể về đồng chí
Lôi Phong rất nhiều, cậu mới nghe qua được mấy đoạn chứ? Hồi bé Lôi
Phong đi thả trâu bị chó nhà địa chủ cắn, chuyện này cậu có biết không?”
Tuyền béo đáp: “Chuyện này tôi thật còn chưa biết, nhưng toàn là mấy chuyện
vặt vãnh hồi nhỏ, bị một con chó cắn thì có cái quái gì đáng ngạc nhiên
cơ chứ? Cậu lôi chuyện này ra để kể, nhưng vẫn không qua được cửa ải hôm nay đâu.”
Tiêm Quả nói: “Hai người đừng chỉ có đấu võ mồm nữa,
tôi thấy hai ngày nay chúng ta dùng củi quá nhanh, giờ phải đốt tiết
kiệm thôi nếu không muốn phải mạo hiểm giữa trời gió tuyết này vào rừng
sâu để kiếm củi.”
Lục Quân biết nói không lại Tuyền béo, thấy có
người đã chuyển đề tài khác, vội vàng phụ họa theo: “Đúng đó! Tôi sáng
nay có đi xem thử, củi gỗ dự trữ quả thật còn lại không nhiều, nghe nói
mùa đông ở Bắc Đại Hoang không phải chỉ là lạnh bình thường thôi đâu,
chúng ta ngay cả một cái nhà tử tế cũng không có, giờ đến củi để sưởi
địa oa tử cũng hết nốt, theo như lời lão trung đội trưởng nói, chỉ cần
một đêm thôi chúng ta sẽ bị đông cứng thành băng!”
Tôi nghe thấy
bọn họ nói thế, trong lòng cũng bắt đầu thấy lo lắng, lúc trước tôi có
nghe đám dân du mục Mông Cổ lúc đi qua nông trường nói, nhìn sắc trời
báo hiệu sắp có một đợt giá rét trăm năm khó gặp, đến lúc đó gió lạnh
Mạc Bắc cùng thổi tới, trên hoang nguyên sẽ nổi lên “Náo Hải Phong” vô
cùng đáng sợ. Người chưa từng đến Bắc Đại Hoang, căn bản nghe xong cũng
sẽ không hiểu gì cả, thế nào gọi là “Náo Hải Phong”? Đó là cường phong
thổi cùng với bão tuyết, loại gió này khi nổi lên mang theo vang động
đáng sợ, giống như tiếng sủa điên cuồng của chó dại đang lên cơn vậy,
liên tiếp mấy ngày liền không ngừng, mà chúng tôi muốn từ nông trường số 17 này đi ra ngoài kiếm củi đốt, chỉ có thể đi đến vùng đầm lầy phía
trước hoặc vùng rừng rậm nguyên thủy sát biên giới, gặp phải thời tiết
tồi tệ như thế, đi khỏi cửa chưa được bao xa thì cái mạng nhỏ này đã quy tiên rồi, làm sao tìm được củi lửa về sưởi ấm? Huống hồ trời lạnh đất
đông cứng băng tuyết bao trùm khắp nơi như này, căn bản cũng không dễ
dàng mà tìm được củi gỗ!
Vừa nghĩ đến đây, bốn người chúng tôi
mới thực sự ý thức được rằng đã gặp phải phiền phức lớn rồi! Người phụ
trách tồn trữ củi lửa cùng nhóm lò thổi bếp chính là tôi cùng Tuyền béo, nếu để xảy ra chuyện gì không hay thì hai thằng tôi không thoát khỏi bị tra cứu trách nhiệm. Nhưng tôi không khỏi cảm thấy kì quái, tôi quả
thật trước giờ không phải loại ngoại thiếu trách nhiệm hay làm việc qua
quýt, làm sao có thể không để ý đến việc củi đốt quá nhanh, hoặc củi tồn trữ không đủ chứ? Nhân lúc bão tuyết còn chưa ập đến, tôi cùng Tuyền
béo mang theo súng trường, quần áo mặc kín mít từ đầu đến đít, mạo hiểm
đi sâu vào hoang nguyên kiếm củi mặc cho nguy cơ phải đối mặt với đàn
sói hoang.
Chúng tôi vừa đảo mắt tìm xem nhánh cây nào thích hợp làm củi đốt, vừa nói với nhau: “Lúc trước củi lửa chuẩn bị rất đầy đủ,
đều do chúng ta chỉ nghĩ đến việc sưởi ấm địa oa tử, nằm dài trong nhà
tận hưởng ấm áp, thành ra hoang phí quá nhiều củi, nếu không phải có
Tiêm Quả kịp thời phát hiện, đợi đến khi bão tuyết kéo tới nơi, bốn
người chúng ta chỉ còn nước nằm chờ chết trong địa oa tử, lần này thật
sự là quá nguy hiểm, tuyệt đối không được để xảy ra lần thứ hai!”
Ở trong hoang nguyên hoang vu vắng vẻ này tìm củi gỗ không phải chuyện dễ dàng, chúng tôi chạy đi chạy lại suốt mấy ngày trời, cũng không kiếm đủ củi đốt. Tôi và Tuyền béo đành phải mạo hiểm đi đến khu rừng rậm nguyên sinh Đại Hưng An Lĩnh ở sát biên giới, củi to củi già ở đấy khắp nơi
đều có, chỉ là cách nông trường số 17 này quá xa, hơn nữa trung đội
trưởng cũng nhiều lần quán triệt với chúng tôi, không cho phép đi đến
gần phiến rừng già đó!
Tôi lúc đó có hỏi qua ông ấy: “Bên trong
khu rừng nguyên sinh đó có nguy hiểm gì vậy? Mùa đông trời giá rét đất
đóng băng, gấu to gấu nhỏ chui hết vào hang ngủ đông rồi, chỉ cần có cây súng trường trong tay, gặp sói gặp hổ cũng chẳng có gì phải sợ cả.”
Từ trước đã có đám thợ săn người dân tộc Ngạc Luân Xuân qua lại vùng sơn
lâm thâm xứ này, cưỡi trên lưng hươu, lấy súng hoả mai cùng cung tên làm vũ khí, bọn họ sử dụng kiểu súng lỗi thời, trước khi muốn bắn phải nhồi thuốc súng vào nòng, vô cùng chậm chạp, lực sát thương cùng tầm bắn
cũng chỉ có hạn, gặp hổ báo hay gấu đều rất nguy hiểm. Nhưng binh đoàn
chúng tôi thì lại được trang bị toàn là súng trường bán tự động K-56
(Trans: Súng trường tự động Kiểu 56, hay K-56, là loại súng trường tiến
công do Trung Quốc sản xuất dựa trên Súng trường tiến công Kalashnikov
AK-47 và AKM. Súng được sản xuất từ năm 1956 tại Nhà máy sản xuất vũ khí số 66 của Trung Quốc), nhắm mắt cũng có thể hạ gục được mục tiêu mình
cần, đem ra đối phó với dã thú thì dư sức có thừa, đừng nói là chó sói,
chỉ có duy nhất một ngoại lệ, đó chính là heo rừng! Bọn heo rừng trên
Đại Hưng An Lĩnh vừa tinh ranh vừa chạy nhanh, thường nói “không có gấu
trên ngàn cân, chỉ có heo trên chục tạ”, bởi vì heo rừng thường ngày hay cọ cọ da lên thân cây tùng, khắp người dính từng lớp từng lớp nhựa cây
dày thôi rồi, lâu năm tạo thành một bộ giáp vừa cứng vừa chắc chắn, cho
dù bị đạn súng trường bắn cũng rất khó toi mạng, thành ra chỉ một hai
người mà vào rừng gặp phải chúng thực sự rất nguy hiểm. Bất quá tôi cũng chưa nghe thấy ai nói khu vực này có heo rừng cả, ở vùng rừng sâu nước
độc này, có cái gì lại khiến người từng vào ra chiến trường khói lửa như trung đoàn trưởng phải sợ hãi kiêng dè? Thế là thừa dịp hôm đấy lão
uống nhiều rượu ngô quá đâm ra cứ nửa tỉnh nửa say, lại bị ba thằng tôi, Tuyền béo và Lục Quân ở bên kích bẩy xúi giục, thành ra lỡ miệng, mà
lão lại kẻ hay nói nhiều nên cứ thế nói ra hết, chuyện là những năm đầu
thập niên 50, lão vừa tới binh đoàn nông khẩn này. Khi đó lão cũng là
mới từ chiến trường trở về, mùi khói thuốc trên người hãy còn chưa tan
hết, mang theo súng trường vào rừng kiếm củi, Đại Hưng An Lĩnh đang bước vào những ngày cuối thu, thời tiết lẫn cảnh sắc thật là quá mê người,
khiến lão bất tri bất giác đi lên trên núi. Lão trung đội trưởng ở chiến trường Triều Tiên bị hỏng mất một cái chất, mặc dù không phải cắt cụt
đi, nhưng đi bộ các thứ rất chi là tốn sức, vừa đi đến trên núi thì cảm
giác không nhúc nhích được gì nữa, nên ngồi xuống nghỉ ngơi lấy sức,
châm một điếu thuốc lá rít lấy hai hơi, phê đến nỗi hai mắt díu cả lại,
ngủ luôn lúc nào cũng không hay. Chợt mơ mơ màng màng cảm thấy bên cạnh
hình như có người, lão tưởng là chiến hữu cùng binh đoàn, mở mắt ra rồi
quay sang nhìn một cái, lông tóc toàn thân lập tức dựng đứng, bởi vì thứ lão thấy là một con chó sói lớn đang ngồi bên cạnh, nhặt lấy mẩu thuốc
lúc trước lão hút dở, từng hơi từng hơi y như người rít vào xong lại nhả khói ra!
Trung đoàn trưởng nói tới đây, trên mặt hiện lên thần
sắc khó tin, lão hỏi chúng tôi: “Các người đã từng thấy chó sói hút
thuốc lá bao giờ chưa? Đó chẳng phải là đã thành tinh thành quỷ rồi
sao?”
Vào thời kì lúc bấy giờ, đây chính là những lời kiêng kị
tuyệt không thể nói, đơn giản thì bị coi là tư tưởng mê tín, nghiêm
trọng hơn thì là khép vào tội làm giao động lòng quân!
Tôi nói
với lão: “Cháu đã từng thấy mấy con khỉ già ở trong vườn thú, chúng nó
nhặt lấy những mẩu tàn thuốc còn chưa tắt lửa rồi đưa lên mồm rít mấy
hơi, còn nói chó sói hút thuốc lá thì cháu chưa từng nghe nói đến bao
giờ, móng vuốt sói như thế sao có thể cầm được điếu thuốc? Khéo bác ngủ
say quá nằm mơ linh tinh lại cứ tưởng là thật thì có!”
Trung đội trưởng nói lão từng tham chiến ở Triều Tiên, đã thấy qua rất nhiều
người chết, là quân nhân thì đều không sợ ma cũng chẳng sợ quỷ, lão vốn
còn xuất thân từ thợ săn, sau đó lại đến Bắc Đại Hoang khẩn hoang kết
hợp trấn thủ biên giới, hổ gấu gì lão cũng đánh qua cả rồi, dĩ nhiên
không sợ dã thú. Bất quá lúc đó lão bị bất ngờ, sợ đến tái mét cả mặt,
quên cả xách theo cây súng trường, trực tiếp lăn thẳng từ trên núi
xuống. Sau này nghĩ lại, lão cũng không thể nào tin được chuyện gặp trên Đại Hưng An Lĩnh là thật, có lẽ là thật sự đã nhìn nhầm, có thể yêu
quái mà lão nói, cũng không phải là con sói cầm điếu thuốc lên hút, mà
là…. Chúng tôi nghe thế đều hết sức tò mò, cố gắng gặng hỏi lần nữa,
nhưng trung đội trưởng lại không chịu nói tiếp. Tôi cùng Tuyền béo, hai
đứa là loại người không sợ trời cũng chẳng sợ đất, hơn nữa bên người còn có súng trường bán tự động K-56 tăng thêm can đảm, sớm đem những lời
trung đội trưởng nói quên mất tiêu luôn. Chúng tôi nói với Lục Quân cùng Tiêm Quả, nếu như mang theo súng trường, khi vào núi ngoài có thể kiếm
được củi ra, nói không chừng còn săn được hươu nai gì đấy, thịt hươu
thực sự vô cùng ngon, toàn thân không có mỡ, hấp lên ăn rất là sướng
miệng, còn khi nướng thì ngoài giòn giòn trong thì mềm thơm, ngoại trừ
hươu, còn đâu chúng tôi đều không thèm bắt!
Hai thằng to mồm
thổi một hồi da trâu (Trans: Tự sướng, tâng bốc bản thân mình, giống câu “Thùng rỗng kêu to”), đi vào khu rừng rậm nguyên sinh Đại Hưng An Lĩnh, khi trở về nông trường còn kéo theo hai bó củi lớn. Cứ thế một lần đi
rồi lại một lần về cũng không có phát sinh chuyện gì ngoài ý muốn, nhưng cũng chẳng săn được con hươu quái nào cả, đành phải bốc phét với hai
người kia: “Chúng tôi có mấy lần thấy qua vùng hươu tụ tập, nhưng mà
nơi đó lại là ở tận sâu trong rừng, sợ là săn được thì cũng không mang
về được, cho nên quyết định thôi không nổ súng nữa, bất quá địa hình
đường đi nơi đó chúng tôi đều thuộc hết rồi, chờ mùa xuân sang năm, mang theo nhiều người hơn đến đấy, tha hồ mà mang về cải thiện bữa ăn!”
Bốn người xếp củi lại thành từng bó, ước chừng nhiều củi như này sẽ đủ cho
chúng tôi sống qua được mùa đông dài đằng đẵng ở Bắc Đại Hoang. Nguy cơ
thiếu củi để sưởi ấm rốt cuộc đã được giải quyết xong, lo lắng trong
lòng tôi cũng biến mất. Mắt thấy diên vân (Trans: Mây đen, dày, khiến
người ta cảm giác đám mây này rất nặng) từ Tây Bắc càng ngày càng dày,
nội trong hai ba ngày nữa thể nào cũng có tuyết rơi, chúng tôi phải tận
lực hạn chế đi ra ngoài, chuẩn bị trốn vào trong địa oa tử tránh rét.
Địa oa tử nông trường số 17 này tổng cộng được chia làm ba dãy trước,
giữa và sau, hai dãy phía sau không có người ở, bốn người chúng tôi cùng tiểu hắc cẩu đều ở dãy trước. Mỗi dãy từ trái sang phải theo thứ tự lần lượt có năm gian nhà, gian đầu tiên bên trái dùng để cất súng máy đạn
dược và các loại cuốc xẻng nông cụ làm việc. Tôi cùng Tuyền béo và Lục
Quân, ba người ở gian thứ hai, nồi niêu xoong chảo bếp núc thì để chung ở một gian thứ ba, còn gian thứ tư là của Tiêm Quả, cuối cùng gian thứ
năm thì đặt máy điện đài thông tin, các đồ dự trữ để sống qua mùa đông
cũng đều ở chỗ này.
Ngoài ba dãy nhà phía sau vẫn còn có một kho chứa thóc nữa, bên trong chất đầy rơm rạ cỏ khô cao như núi, vốn là
cũng muốn mang củi khô vào đây cất, nhưng lại thấy địa oa tử cùng kho
thóc này cách nhau một đoạn khá xa, một khi trời nổi bão tuyết, rất khó
để tới đây lấy củi về đốt, liền đem dãy thứ hai làm thành lán trữ củi.
Lục Quân là người lắm mưu nhiều kế, ngay hôm đó đem đống củi dự trữ ra
đánh số kí hiệu, án theo số lượng củi đốt tiêu tốn mỗi ngày mà phân
chia, để tránh Tuyền béo cứ bạ đâu đốt đấy không đếm xem đã dùng bao
nhiêu rồi. Nhưng mà qua một ngày kiểm tra lại, thật là thấy quỷ rồi,
đống củi đã xếp hôm trước giờ lại thiếu mất đâu một chồng nhỏ. Lục Quân
đổ tại chắc chắn chỉ có thể là do Tuyền béo lại phung phí củi lửa. Tuyền béo giận đến nỗi dậm chân bình bịch, trên đầu mồ hôi chảy ròng ròng,
mồm năm miệng mười hướng Mao chủ tịch mà thề thốt, tuyệt đối không dùng
nhiều củi như vậy!
Nông trường số 17 ở tại vùng hoang nguyên
thậm chí một dấu chân người còn không có, nếu số củi đó không phải là do người dùng, vậy không phải là thấy quỷ rồi sao? Bốn người suy đoán lung tung cả nửa ngày, đều nói đừng tự mình hù doạ mình, nói không chừng chỉ là lầm lẫn mà thôi. Thật không hiểu nổi tại sao, qua hôm sau chúng tôi
đến lán củi xem xét, kết quả là thiếu mất đi chồng củi nữa. Mọi người
trố mắt nhìn nhau, trong lòng đều âm thầm dâng lên một nỗi sợ hãi, củi
khô tại sao lại không cánh mà bay? Chẳng lẽ bị người đánh cắp đi sao?
Nhưng mà củi nào phải là thứ gì đáng tiền, thà tới trộm còn không bằng
mình tự đi nhặt lấy, đáng sợ ở chỗ là xung quanh nông trường lại không
có người ở, tại sao có thể có kẻ gian vào trộm củi? Bất luận là ma quỷ
lộng hành hay là có kẻ gian lấy mất, cứ mỗi ngày lại mất đi một đống nhỏ như vậy, nhìn thì cũng không nhiều lắm, nhưng thử nghĩ xem mười ngày,
nửa tháng thì số củi đó lớn chừng nào chứ, mấy người chúng tôi thể nào
cũng không chịu nổi đợt giá rét trăm năm mới gặp một lần này, vậy thật
là bị lão thổ địa gia nhéo cái lỗ tai này — Kéo xuống bùn! (Trans: Tức
là chết)
Chúng tôi dự cảm thấy có gì đó không lành, vội vàng mang củi dời đến dãy nhà thứ nhất, đặt ở trong gian đầu tiên luôn, súng đạn
thì phân phát cho từng người. Tôi thầm quyết định, đêm nay phải đặc biệt chú ý mọi động tĩnh, đem đạn dược cùng súng trường để sát bên người,
lúc ngủ vẫn không quên mở một con mắt, tôi muốn nhìn xem rốt cuộc thứ gì đang tác oai tác quái, đống củi không thể nào tự mọc chân ra mà chạy
được!
Địa oa tử được chia làm năm dãy nhà, dưới nền có hệ thống
nối liền với kháng đất thường được gọi là “địa hoả long”, tuỳ theo vị
trí đốt củi không giống nhau, có thể khống chế nhiệt độ mỗi khu vực
riêng biệt. Nửa đêm hôm đó, chúng tôi sau khi cửa đóng then cài địa oa
tử một cách cẩn thận, liền cùng nhau ngồi vây quay trước bếp lửa mà hơ
tay sưởi ấm. Tiêm Quả đem mấy quả táo đã đông cứng lại ra nướng, rồi đưa cho mỗi người một cái ca lớn, bên trong là nước trà táo đang bốc khói
nghi ngút. Tiếp đến bắt đầu chương trình sinh hoạt văn hoá tư tưởng, Lục Quân lại đem mấy cái cố sự cũ ri cũ rích của đồng chí Lôi Phong ra kể,
không biết đây đã là lần thứ mấy nghìn mấy vạn rồi nữa, chúng tôi sớm
nghe đến phát ngấy. Tôi đành phải bắt đầu kể cho mọi người nghe về “Cánh đồng tuyết bao la”, mặc dù trước kia tôi đã từng xem qua quyển sách
này, nhưng chỉ nhớ có gần một nửa nội dung, thế là bèn cao hứng phát huy tinh thần không nhớ chỗ nào thì ta bịa ra chỗ đó một hồi, nói là “tiểu
phân đội tập kích bất ngờ Nãi Đầu Sơn, Dương Tử Vinh bắt sống con bướm
mê”, căn bản là kể linh kể tinh cả lên không theo thứ tự nào cả, thế mà
cũng hù doạ được ba người Tuyền béo, Lục Quân cùng Tiêm Quả phải ngây ra một lúc. Nói mãi cuối cùng về sau tôi cũng bí từ, không bịa ra được
thêm câu chuyện nào nữa, vì vậy lưu lại Lục Quân ở gian đầu trông coi
củi lửa, còn đâu mỗi người tự về phòng mình nghỉ ngơi.
Tôi ngay
cả quần áo cũng không cởi, cứ thế leo lên giường chui tọt vào chăn ấm,
súng trường bán tự động cùng đèn pin, đều đặt ở cạnh người, chỉ cần đưa
tay qua là cũng lấy được, hai tai dỏng lên nghe ngóng tiếng động xung
quanh. Cuộc sống sinh hoạt ở Bắc Đại Hoang rất nhàm chán khô khan, cái
cảm giác thời gian dài đằng đặc không cách nào xua đi được, nằm suy nghĩ mường tượng về chiến tranh thế giới thứ ba là một trong những thú vui
ít ỏi của tôi. Lúc này lại không nhịn được nằm trong chăn nghĩ ngợi lung tung, tưởng tượng về một ngày trời vừa tờ mờ sáng, mấy triệu quân lính
Liên Xô cuồn cuộn như thiết sa kéo đến, từ khắp mọi hướng vượt qua biên
giới phát động cuộc tiến công nhanh, nông trường số 17 chúng tôi là
những người đứng mũi chịu sào, tiên phong đi đầu, cùng quân Liên Xô mở
ra một trận kịch chiến. Mặc dù tôi anh dũng thiện chiến, dẫn dắt đám
người Tuyền béo tiêu diệt một đợt lại một đợt quân địch, nhưng dẫu sao
thì cuối cùng vẫn là địch nhiều ta ít, Tuyền béo hi sinh oanh liệt, còn
Lục Quân bị chúng bắt làm tù binh, tiểu tử này tham sống sợ chết, không chỉ phản bội đồng đội trở thành phản đồ, còn mang địch nhân chặn đứng
đường lui của chúng tôi. Tôi không thể làm gì khác hơn là dẫn theo Tiêm
Quả đột phá vòng vây, các binh đoàn cùng lính biên phòng dưới sự chỉ huy của tôi, nhanh chóng thi hành chiến lược di dời. Sau khi tụ họp một chỗ cùng với các đơn vị quân khác ở hậu phương, tôi quyết định sẽ dụ địch
tiến sâu vào, rồi nhất cử tiêu diệt sạch quân chủ lực Liên Xô. Tôi miệng ngậm thuốc lá cuốn, đứng trước địa đồ trong bộ chỉ huy quân sự, người
khoác áo choàng dài, hai tay chống nạnh, mặt đầy ngưng trọng, cảnh vệ
viên đem đến một bát canh gà nóng hổi, tôi cũng không có tâm tư mà đi
uống. Cuối cùng, nhờ có sự cơ trí cộng thêm ánh mắt kiên nghị của tôi,
rốt cuộc nhắm trúng dãy Thái Hành Sơn trên địa đồ. Thái Hành Sơn địa thế hiểm trở, từ xưa tới nay được coi là yếu địa chôn vùi xác quân, quân
Liên Xô lấy xe tăng làm lực lượng cơ giới chủ lực, một khi lọt vào đây
sẽ không cách nào triển khai được. Tôi với tư cách chỉ huy quân đội điều động đại binh đoàn từ ba mặt tiến vào vây diệt quân Liên Xô, nhưng
không biết tại sao, Thái Hành Sơn trên địa đồ quân sự khi lọt vào mắt
tôi lại biến thành một con cự long, trong âm dương phong thuỷ gọi là
“sơn mạch ngưng chỉ khởi phục vi long” (Trans: Dãy núi nhấp nhô, ngưng
tàng khí tạo thành rồng). Long giả, giỏi về biến hoá, tuỳ ý biến lớn hoá nhỏ, ẩn sâu hoặc lộ rõ, co được giãn được, có thể bay mà cũng có thể
lặn, Thái Hành Sơn xưa nay vốn được coi là Trung Nguyên long mạch, mai
táng ở đây chỉ đế vương công hầu mới có tư cách, đâu chỉ trăm ngàn…. Tôi vốn là đang suy nghĩ làm thế nào để chỉ huy đại binh đoàn tiêu diệt
quân Liên Xô, nhưng khi địa đồ vừa hiện lên trong đầu, các dãy núi liền
biến thành từng cái từng cái long mạch. Chuyện này cũng không có gì kì
quái lắm, trước kia tổ phụ từng bắt tôi sống chết thế nào cũng phải học
thuộc rồi nhớ kĩ bốn cái tàn quyển kia, giờ có muốn quên cũng không thể
quên được, từng cái long mạch khởi khởi phục phục cứ quanh quẩn trong
đầu không tan. Bất tri bất giác đã đến nửa đêm lúc nào không hay, tôi
nằm trong chăn suy nghĩ linh tinh, Lục Quân ở bên cạnh đã sớm ngủ say
như chết, bên trong địa oa tử dần trở nên lạnh lẽo, loáng thoáng có thể
nghe được tiếng ngáy của Tuyền béo. Tôi biết ngay thằng ôn Tuyền béo lại ngủ con mẹ nó quên mà, lúc này là đến lượt hắn gác đêm thêm củi, đang
muốn đứng dậy gọi hắn cùng đi, chợt nghe gian để củi bên cạnh có tiếng
động rất nhỏ, vừa nghe liền biết ngay là có người đang di chuyển củi đi. Tôi tự nhủ: “Hắc! Con mẹ nó có quỷ thật sao?” Rồi lập tức mở mắt ra,
lấy tay lay Lục Quân một cái, lại đi ra đạp vào đít Tuyền béo một cước,
lặng lẽ chỉ chỉ về phía gian để củi. Hai người bọn họ đều không để ý đến việc mặc quần áo, chỉ lấy cái mũ da chụp tạm lên đầu, cầm theo khẩu
súng trướng K-56, theo sát lưng tôi, rón rén bước ra ngoài, chỉ thấy bên cạnh cửa địa oa tử mở ra một khe nhỏ. Tôi bật đèn pin rồi chiếu vào bên trong, bắt gặp ngay một con hồ ly lông xù to béo, trong miệng ngậm củi
dường như muốn chui ra ngoài. Hồ ly ở trong bóng tối đột nhiên bị ánh
sáng đèn pin chiếu vào, nhất thời nhe ra bộ răng nhọn, cặp mắt phóng ra
hung quang.
Củi lửa cất trữ ở nông trường số 17, luôn là vô
duyên vô cớ mà ngày càng giảm bớt. Chúng tôi đêm hôm khuya khoắt trước
là muốn đi bắt kẻ gian, ai ngờ khi vừa mở cửa địa oa tư, thứ mấy người
phát hiện lại là một con đại hồ ly đang lén lút trộm củi, ba đứa thoảng
ngần người mất một lúc, rồi lập tức bừng tỉnh, rốt cuộc là chuyện này là như nào, chúng ta hãy còn phải nói đến trước kia.
Đại khái là
hơn một tháng trước, mùa thu ở Bắc Đại Hoang mang theo sắc thái phong
phú, cảnh vật tuyệt vời nhất trong năm, trên đồng ruộng bao la bát ngát từng gốc lúa vàng óng, từng hàng cây xanh mướt, xa xa là dãy Đại Hưng
An Lĩnh cùng rừng rậm nguyên sinh tầng tầng lớp lớp, mây trắng lững
thững trôi trên bầu trời xanh ngắt, khung cảnh này so với một bức tranh
sơn dầu của danh hoạ nào đó khéo còn mê người hơn gấp chục lần. Khi ấy
có mấy nữ thanh niên trí thức ở vùng chăn nuôi đến nông trường của chúng tôi thăm bạn học, theo quy định của binh đoàn, không cho phép người
không thuộc biên chế binh đoàn đến gần khu vực biên giới, nhưng mà nông
trường số 17 này quá là vắng vẻ, núi thì cao hoàng đế thì xa, một năm từ đầu tới cuối cũng chẳng có mấy người tới chơi, cho nên trung đội trưởng đối với chuyện này thì một mắt nhắm một mắt mở. Mấy cô gái kia thấy
cảnh sắc nơi này thật đẹp, không tự chủ được trước phong cảnh mê hồn như tranh vẽ, vô tình đi sâu vào trong hoang nguyên.
Nông trường số 17 này có vị trí khá đặc thù, vừa vặn nằm ở phần nổi bật nhất trên địa
đồ Bắc Đại Hoang, phía Tây Bắc là đường biên giới rất dài, mặt Đông lại
tiếp giáp với khu rừng rậm Đại Hưng An Lĩnh, phía Tây lân cận cùng đại
mạc thảo nguyên, đi về phía Nam toàn là đầm lầy ẩm thấp vô biên vô tận.
Quan hệ Trung - Xô lúc đấy hết sức căng thẳng, chiến tranh thiếu chút
nữa là bùng nổ, bất quá khu vực này tất cả đều là ao đầm lầy lội, đến
người còn không đi qua được, thì xe tăng của Liên Xô càng không phải
nói, chỉ có nước nằm im bất động, cho nên nông trường này cũng không bị
giải tán, chỉ lưu lại có mười mấy người vừa sản xuất vừa trông coi. Mấy
nữ thanh niên từ khu chăn nuôi đến chơi không biết được nguy hiểm của
nơi này, càng đi càng vào phía sâu trong hoang nguyên, sắp đi đến khu
rừng rậm nguyên sinh. May mà mấy người họ mạng lớn số lớn, không gặp
phải chó sói, ngược lại ở một bụi cỏ nào đó tít trong rừng phát hiện ra
hai con tiểu cẩu mới sinh. Tiểu cẩu hai mắt đen nhánh mở to, thấy người
lạ tỏ ra vô cùng sợ hãi. Con gái ai mà chẳng hay mềm lòng, ôm liền hai
con tiểu cẩu không chịu buông, dứt khoát ôm trở về địa oa tử, còn chuẩn
bị để mang đi khu chăn nuôi của họ, không nghĩ tới đã đụng phải một đại
tai hoạ!
Toàn bộ người trong nông trường số 17 gộp lại chỉ được
một tiểu đội, nhưng lại biên chế theo kiểu một trung đội, trung đội
trưởng là một quân nhân, dẫn đầu nhóm chúng tôi tới Bắc Đại Hoang tham
gia khẩn hoang cùng canh phòng biên giới, lão đối với những chuyện xảy
ra tại vùng hoang nguyên này và cả khu rừng rậm nguyên sinh kia đều rất
quen thuộc, nghe được tin tức mấy cô gái kia đem hai con chó nhỏ về, lập tức sợ hết cả hồn, cho rằng chúng là hai con sói con, vội vã chạy
tới nhìn thử. Thì ra không phải là sói con, dĩ nhiên cũng không phải là
chó nhỏ gì cả, mà là hai con tiểu hồ ly, nhìn bộ dạng xem ra mới được
sinh ra chưa lâu. Trung đội trưởng trong lòng hơi có chút hồi hộp lo
lắng, ra lệnh cho những nữ thanh niên kia mau chóng đem hai con tiểu hồ
ly trả về ổ của chúng, nhặt ở đâu thì trả lại đúng chỗ đấy! Ai ngờ họ
năn nỉ nhõng nhẽo một thôi một hồi với trung đội trưởng, hứa là sẽ nhất
định nuôi dưỡng hai con tiểu hồ ly này thật tốt, đợi tới khi chúng lớn
lên rồi thì sẽ thả lại về rừng. Lão trung đội trưởng không thèm để ý,
khuôn mặt giận dữ trầm xuống, đem mấy người các nàng đi ra ngoài, nói rõ sự tình này có quan hệ lợi hại như thế nào. Hồ ly không phải chó, không thể nuôi như thú cưng được, lại nói tiểu hồ ly sau khi bị bắt mất đi,
thì hồ ly mẹ nhất định sẽ đi tìm, tìm không được thì sẽ quay ra trả thù. Hồ ly không chỉ có lòng báo thù mạnh mẽ mà còn vô cùng xảo quyệt, ngàn
vạn lần chớ nên tự mình đi tìm phiền toái. Trung đội trưởng còn hù doạ
họ, nói là nếu như không đem hai con tiểu hồ ly về lại chỗ cũ, lão đành
phải báo cáo lên cấp trên xử lí. Mấy nữ thanh niên trí thức cảm thấy uỷ
khuất, nước mắt rơi lã chã, nhưng cũng đành phải chuẩn bị đem tiểu hồ ly trở về, nào ngờ đâu, khi vừa mới bước vào địa oa tử, mới nhìn thấy bọn
chúng đã chết từ lúc nào, có thể là do bị kinh sợ, cũng có thể do không
thích ứng được với điều kiện hoàn cảnh ở đây. Trung đội trưởng thấy vậy, cũng cảm thấy hết cách, đem hai con thú hoang mới đẻ nhốt vào trong địa oa tử thì không chết mới là lạ. Chuyện cho tới bây giờ đã không thể
tưởng tượng được nữa, không còn cách gì hơn là cho người đem hai cái xác chôn ở nơi xa xa.
Mấy nữ thanh niên sau khi nghĩ rằng đã giải
quyết sau tai hoạ thì liền rời đi, nhưng mà là hoà thượng chạy được miếu thì không, đại hồ ly liền để mắt tới nông trường của chúng tôi chuẩn bị báo thù, nó thông qua mùi hương mà nhận định, hung thủ giết hại hai con hồ ly con của nó, chính là những người ở trong địa oa tử này!
Bắt đầu hành động trả thù, con hồ ly mẹ thường xuyên lởn vởn xung quanh địa oa tử, ba ngày đầu liên tục quấy rối, đem mấy con gà đẻ trứng trong
nông trường cắn chết toàn bộ. Trung đội trưởng cũng gấp, lão biết rằng
thù này vướng mắc rất khó gỡ bỏ, chỉ cần con hồ ly mẹ không chết, thì sẽ không ngừng tiến hành trả thù. Tuy rằng nông trường số 17 này thường
ngày vắng vẻ, nhưng cũng không phải là hoàn toàn vắng bóng dấu chân
người ngoài, mà thỉnh thoảng sẽ có đám dân du mục Mông Cổ, hoặc mấy tay
thợ săn Ngạc Luân Xuân săn bắn trong rừng đi qua. Mà vô luận là dân du
mục hay là đám thợ săn, đối với hồ ly đều hết sức kính sợ, ngu phu ngu
phụ (Trans: Chỉ những người quê mùa, kém hiểu biết, hay mê tín dị đoán)
thấy hồ ly, thường thường sẽ hướng về phía nó mà quỳ mà bái. Trung đội
trưởng thấy mấy chuyện đấy đều là mê tín dị đoan, bất quá binh đoàn có
kỷ luật phải tôn trọng phong tục tập quán địa phương, cho nên từ trước
tới giờ lão đều không cho phép săn bắt hồ ly. Hôm nay không còn cách nào khác, đành phải mượn của mấy tay thợ săn Ngạc Luân Xuân trên Đại Hưng
An Lĩnh về hai con chó săn, mang theo súng trường cưỡi ngựa nhằm vây bắt con hồ ly mẹ này. Liên tiếp truy đuổi ba ngày ba đêm không nghỉ, súng
trường cùng chó săn hành cho con hồ ly mẹ lên bờ xuống ruộng, chạy thục
mạng hết lần này đến lần khác, cuối cùng cũng không rõ là còn sống hay
đã chết, dù sao thì nó cũng đã biến mất sâu trong hoang nguyên, lại cũng không thấy xuất hiện ở xung quanh nông trường nữa.
Mọi người
tưởng là chuyện này cứ thế rồi sẽ qua đi, không ngờ rằng con hồ ly này
thừa dịp người trong nông trường rời đi tránh rét, phòng bị lơi lỏng
liền lập tức lén lút quay trở lại! Nó dường như biết được sự lợi hại của súng trường bán tự động, không dám trực tiếp xuất hiện trước mặt chúng
tôi, mà âm thầm đem từng cây từng cây củi mọi người dự trữ để trong lán
tha đi, chỉ cần chúng tôi phát hiện chậm mất mấy ngày thôi, đến khi gió
lớn cùng bão tuyết kéo đến, chắc chắn sẽ phải trơ mắt chờ chết. Đều nghe người ta nói hồ ly là loài xảo trá âm hiểm, nhưng không ai có thể nghĩ
tới bọn chúng lại xảo quyệt khôn khéo đến mức này, thật không biết tại
sao hồ ly lại nghĩ ra được là mấy người trong địa oa tử chúng tôi phải
dựa vào củi đốt sưởi ấm để sống qua mùa đông giá rét này, không có củi
toàn bộ mọi người sẽ chết cứng!
Mấy suy nghĩ này vừa loé lên
trong đầu tôi, mới ngẩn người ra có một lúc ngắn, con hồ ly già giống
như trên lưng mọc ra đôi cánh vậy, “vèo” một tiếng, phóng vọt qua ba cái đỉnh đầu của chúng tôi chuồn mất. Dáng người nó tuy lớn, nhưng lại vô
cùng nhanh nhẹn linh hoạt. Đợi đến khi chúng tôi tinh thần bừng tỉnh,
con hồ ly đã không một tiếng động, đáp xuống phía sau chúng tôi mấy
trượng.
Tuy nói là tổ thượng nhà chúng tôi nhờ vào nghề săn bắt
hồ ly mà phát tích, nhưng tôi từ bé đã không tin gì mà có hồ ly thành
tinh với chả thành yêu, nhưng mà con hồ ly này thật sự đúng là sắp thành tinh thật con mẹ nó rồi, lại có thể nghĩ ra cách chui vào địa oa tử lấy trộm củi, đây là cố ý muốn lấy mạng của bốn người chúng tôi a! Nếu như
để nó ung dung thoát thân, từ nay về sau không biết chừng sẽ còn xảy ra
biến cố gì nữa! Tôi vừa mới nghĩ tới đây, Tuyền béo đã đột nhiên quay
người lại, nâng súng trường lên dường như muốn nổ súng, kết quả là vội
quá hoá quên, chốt an toàn còn chưa có kéo ra, hắn luống ca luống cuống
kéo lại chốt.
Hồ ly vừa thấy súng trường trong tay Tuyền béo, bị doạ cho kinh hồn bạt vía, nhìn chúng tôi bằng ánh mắt căm hận tột cùng, rồi ôm đầu chạy như bay. Tôi, Tuyền béo và Lục Quân, ba người vừa tức
vừa gấp, nhưng cũng không thể làm gì hơn, bởi vì con hồ ly thoát đi quá
nhanh, đợi chúng tôi lên cò xong thì đối phương đã sớm chạy mất tăm. Lão trung đội trưởng kinh nghiệm, bản lĩnh đầy mình như vậy, vừa dùng súng
lại vừa cưỡi ngựa đuổi theo suốt mấy ngày còn không bắn chết được nó, có thể thấy độ linh hoạt cơ động của nó không hề tầm thường. Nó nghĩ ra
được chiêu này để đối phó với những người sống trong nông trường số 17,
thật là không thể tưởng tượng nổi, khiến cho người khác khó lòng phòng
bị! Hôm nay để con hồ ly này thoát được, tưởng chừng như không có gì,
nhưng xem ra mùa đông này của chúng tôi sẽ không dễ dàng đây!
Đúng lúc này, trong màn đêm đột nhiên nhảy ra một bóng đen. Chúng tôi mượn
ánh trăng sáng nhìn thử, rõ ràng là một con đại hắc cẩu, trên đỉnh trán
mọc ra một đạo hồng văn, đầu và mặt tựa như đầu con gấu, tiếng như hổ
gầm, nghiêng mình bổ nhào về phía con hồ ly, há to miệng như muốn cắn,
lộ ra hàm răng sắc nhọn như đao. Con hồ ly kia chỉ chú ý đến việc báo
thù những người trong nông trường, còn con hắc cẩu lại là từ hướng đầu
gió đột nhiên vọt tới, bất ngờ tấn công tập kích khiến con hồ ly không
kịp đề phòng, lập tức bị hắc cẩu lao đến trực diện, nhưng con hồ ly già
này cũng là loại xảo quyệt tột cùng, thân thể nhanh nhạy, sau khi ngã
xuống đất cũng không vội đứng dậy, bởi vì chỉ cần đứng lên sẽ lập tức bị con hắc cẩu thuận thế đè lại, nó liên tục lăn lộn tại chỗ, đợi đến khi
con hắc cẩu cắn hụt một cái, nó đã phóng người chạy mất. Con hồ ly nhận
thấy hắc cẩu kia hung ác dị thường, mình tuyệt đối không phải là đối thủ cùa nó, liền không chút do dự chạy như điên hòng thoát thân.
Đại hắc cẩu cắn hụt một phát, gầm lên một tiếng, lại lần nữa nhảy về phía
trước, thế như mãnh hổ. Con hồ ly ứng biết rất nhanh, phát giác tình thế có vẻ không đúng, nhanh như chớp quẹo một cái, khiến cho con hắc cẩu
tiếp tục vồ hụt vào hư không. Mấy hồi động tác này thật quá nhanh nhẹn
mau lẹ, sinh tử chỉ như một đường chỉ mỏng, khiến ba đứa chúng tôi há
mồm trợn mắt kinh ngạc. Tiêm Quả nghe thấy bên ngoài có tiếng động, cũng xách theo cây gậy chạy ra kiểm tra, thấy tình cảnh như vậy, đồng dạng
cũng kinh hãi không thôi. Ánh trăng xuyên qua khe hở giữa các đám mây
đen dày đặc, chiếu xuống hoang nguyên mênh mông vô tận, đại hắc cẩu cùng hồ ly tiến hành một cuộc truy đuổi kinh tâm động phách, một mất một
còn!