Mô Kim Quyết - Quỷ Môn Thiên Sư
Tuyền béo lăm lăm trong tay cây súng săn tự chế, muốn cho con tiểu quỷ
trước mặt một viên kẹo đồng thẳng mặt, nào ngờ cả súng lẫn đạn đều đã bị ngấm nước sông, đúng cái lúc quan trọng lại tậm tịt không bắn được. Còn súng lục thì đã sớm hết sạch đạn từ lúc đối phó với đám sơn bạt kia,
còn chưa kịp thay băng khác vào. Tôi bảo cậu ta chớ có nôn nóng, việc gì phải phí đạn như thế? Dù gì cái xác khô này cũng đã chết hơn nghìn năm
rồi, có bắn thêm mấy chục phát đi chăng nữa thì cũng có để làm gì đâu?
Nếu như đứa bé đồng nữ này thật có đạo hạnh, thì một cây súng săn cổ lỗ
sĩ từ đời nảo đời nào rồi cũng làm gì được nó chứ. Tôi cảm thấy lai lịch của cái xác này rất là mờ ám, nó có ý tốt hay không còn chưa biết, nếu
như không tìm ra được chân tướng rõ ràng của chuyện này, tương lai tất
sẽ xảy ra hậu hoạn khó lường! Vì vậy, tôi liền bảo Tuyền béo thu thập
lại chỗ lương khô, pin dự phòng, bật lửa bị tung ra lúc nãy nhét cả vào
balo, vạn nhất rơi xuống sông ngầm thì có muốn khóc cũng không được. Tôi lại đưa đèn pha cho Tiêm Quả cầm, chùm ánh sáng hướng thẳng vào cái xác đồng nữ, đồng thời móc balo lấy ra một băng đạn, tra vào ổ súng lục.
Tôi nhanh chóng xắn tay áo lên cao, thanh quân đao nắm chặt trong tay,
hít một hơi dài đánh bạo tiến đến trước mặt cái xác, tôi là muốn xem xem rốt cuộc tại sao một cái xác khô nghìn năm như nó lại có thể cử
động, bám theo sau chúng tôi được?
Tuyền béo ở phía sau nói: “Cậu cứ cẩn thận đấy, đừng để cái con tiểu quỷ kia nó bóp cho gãy cổ!”
Tôi đáp: “Đứa bé này cùng lắm mới chỉ ba, bốn tuổi, còn tôi sớm đã lên núi
đao xuống biển lửa hừng hực sức trai, đi khắp trời cao đất rộng rèn
luyện ý chí, sóng to gió lớn nào mà chưa từng thấy qua, những ngần này
tuổi rồi còn sợ quái gì bọn trẻ con miệng còn hôi sữa mẹ này?”
Tuyền béo nói ngay: “Ngần này tuổi của cậu là bao nhiêu? Ba mươi còn chưa
đến! Tên tiểu quỷ này chết không dưới nghìn năm, chỉ sợ đã sớm đắc đạo,
cậu vẫn chớ nên coi thường!”
Không cần Tuyền béo nhắc nhở, tôi
cũng không dám nóng vội mà hành động khinh suất, mặc dù trong lòng chẳng hề muốn mặt đối mặt với khuôn mặt lốm đốm thuỷ ngân kia một chút nào,
nhưng tình huống lúc này không cho phép tôi được lùi bước, thôi thì đành nhắm mắt liều mình mà đưa chân, trước cứ lôi võ miệng ra đối phó thử
đã, tôi hướng về phía cái xác, nói: “Không biết tên chuột đất kia nghĩ
gì mà lại mang người theo từ trong mộ ra đây, ma xui quỷ khiến thế nào
lại để cho chúng ta gặp nhau, có thể nói là giữa chúng ta xem như cũng
có chút duyên phận đi, lúc ở trong động tuẫn táng cũng may nhờ có ngươi
hiện thân chỉ dẫn, chúng ta mới có thể tìm được lối ra. Xem ý này của
người có lẽ muốn theo chúng ta ra ngoài, bằng vào bản lĩnh này của ngươi chứng tỏ đạo hạnh cũng không thấp, nhưng mà ngươi có điều không biết,
ngươi vốn được chôn trong mộ cổ đã nghìn năm, bên ngoài sớm đã có biết
bao nhiêu biến cố long trời lở đất, kinh thiên động địa xảy ra, không
còn như lúc người còn sống đâu. Ta nói cho ngươi nghe một tin tốt nè,
giai cấp vô sản trên toàn thế giới đã cùng nhau vùng lên đấu tranh,
phỏng chừng người xuất thân cũng từ gia cảnh bần hàn, mệnh khổ số khổ,
nếu không cũng không đến nỗi phải làm đồ tuẫn táng bên cạnh chủ mộ. Hôm
nay, ba ngọn núi lớn đè nén trên đầu dân chúng nghèo khổ đã bị sụp đổ,
ngươi sống khôn thác thiêng, cũng đã có thể yên tâm mà nhắm mắt xuôi tay được rồi! Không bằng nghe ta khuyên một câu, nhân lúc còn sớm chớ có ra ngoài, nhân sinh vô thường, nếu đã chết rồi thì nên buông bỏ mọi thứ
chấp niệm, trần quy về trần, thổ quy về thổ, nên lên trời thì lên trời,
nên xuống đất thì xuống đất, có ra ngoài thì cũng chẳng có chỗ nào dành
cho ngươi cả, có chăng thì là người ta đưa ngươi vào viện bảo tàng, rồi
lại ụp một cái lồng kính lên trên, làm sao mà thoải mái bằng được trong
này! Thuốc đắng thì giã tật mà lời thật thì khó nghe, chúng ta vất vả
lắm mới gặp được nhau, tính tình đôi bên cũng hợp, cho nên ta mới muốn
khuyên người vài câu, nghe lời ta thì không sao, còn nếu cả gan làm bậy, cả ba chúng ta quyết không tha cho ngươi đâu. Bản lĩnh của ngươi dù cho có lớn đến đâu đi chăng nữa, đối phó với ba chúng ta thì được, chứ làm
sao đấu lại tám trăm vạn quân giải phóng!”
Tuyền béo thật không
nghe nổi những gì tôi nói: “Ông nội bốc phét vừa vừa phai phải thôi chứ, từ lúc nào mà biên chế quân đội chúng ta lại có đến hơn tám trăm vạn
quân thế?”
Tôi khoát tay bảo Tuyền béo chớ nên ngắt lời, tôi phí bao nước bọt từ nãy đến giờ chẳng qua cũng chỉ là muốn hù doạ con tiểu
quỷ này mà thôi, không doạ cho nó một trận, nó chắc gì đã chịu từ bỏ ý
đồ? Thế nhưng cái xác vẫn cứ nằm trơ trơ tại chỗ, mặc cho tôi ba hoa
chích choè suốt cả nửa ngày cũng không thèm có lấy nửa điểm phản ứng
lại. Tuyền béo nói: “Nhất này, có phải cậu tính sai rồi không, nãy giờ
cậu nói tôi thấy tám phần là tự mình doạ mình, không bằng dứt khoát
nhanh nhẹn, một cước đạp bay nó xuống sông làm mồi cho cá!”
Cậu
ta nói sao mà nghe đơn giản quá, một cước đá chẳng may đá không trúng,
lỡ bị nó cắn cho một cái thì biết làm thế nào đây? Đồng nữ tuẫn táng vẫn không chịu cử động, nhưng rõ ràng chính nó đã kéo cái balo của Tuyền
béo lại, không muốn để cho chúng tôi phát hiện nó đang trốn ở phía sau
mọi người, chuyện này quá là kỳ quái! Huống chi khúc gỗ mục bập bềnh lên xuống giữa dòng nước, ba người lớn chúng tôi đều phải nửa nằm nửa quỳ,
trong khi đó đứa bé đồng nữ tuẫn táng lại chỉ là cái xác khô, làm sao có thể đứng thẳng mà không ngã? Tôi thầm nghĩ, những gì cần nói đều đã nói hết cả rồi, coi như cũng đã tận tình tận nghĩa, lại lịch của cái xác
không rõ ràng, không đem nó ném bỏ xuống sông, sớm muộn gì nó cũng tác
oai tác quái!
Quyết định chủ ý này xong, tôi tra lại thanh quân
đao vào trong vỏ, hai tay nắm chặt lấy cán đao, chọc chọc vào người cái
xác, muốn đem nó đẩy xuống dưới sông. Vào giờ phút này, không chỉ mình
tôi nín thở hồi hộp, mà Tuyền béo cùng Tiêm Quả ở phía sau cũng rất khẩn trương căng thẳng, không ai dám thở mạnh. Tiêm Quả vẫn luôn chiếu đèn
pha vào mặt đứa bé, Tuyền béo bên kia cũng đã sớm lên nòng súng lục, tuỳ thời có thể nổ súng, một tay lăm lăm xẻng công binh. Lúc này, vỏ đao
trong tay tôi cũng đã đưa tới, sở dĩ tôi dùng vỏ đao chứ không dùng lưỡi đao là vì muốn lưu lại cho ba người một con đường sống, không muốn tổn
hại thi thể của đứa bé, người xưa vẫn có câu - tiểu quỷ khó chiều, một
khi bị tiểu quỷ quấn thân, cho dù không chết thì cũng phải lột da trả
lại nó mới coi như xong chuyện. Vỏ đao vừa đưa quả, khuôn mặt khô đét
kia đột nhiên giật giật, hai mắt trợn trừng!
Dưới ánh sáng đèn
pha, hai con mắt nó hệt như hai cái hắc động, từ trong mắt bắn ra hai
đạo quang mang. Tuy tôi đã có chuẩn bị từ trước, nhưng vẫn không ngờ
rằng, cái xác đồng nữ tuẫn táng kia được chôn trong cổ mộ đã hơn nghìn
năm, trên mặt lốm đốm những vết ban thuỷ ngân, da dẻ khô đét xám xịt,
thân thể so với tiền đồng còn cứng hơn, ấy thế mà hai mắt vẫn có thể mở
ra? Trong lúc tôi đang bị doạ cho ngây người, cái xác đồng nữ liền giơ
tay bắt lấy vỏ đao, móng tay của nó rất dài, cào lên thành vỏ phát ra
những tiếng ken két chói tai!
Tôi chửi thầm trong bụng một tiếng “Bỏ mẹ rồi", cương thi không giống với sơn bạt, càng mọc ít lông thì
càng lợi hại. Từ xưa đến nay, vẫn thường hay nói đến hắc hung, bạch
hung, “hung” là tên dân gian để gọi những cỗ tử thi mọc ra lông dài, thứ này tương đối dễ gặp, trăm năm thành hung nghìn năm hoá sát, một khi
đạo hạnh đã tích luỹ đủ nghìn năm trở lên, mới có thể hiện ra nguyên
hình, mặt mũi không khác gì người sống cả, hơn nữa còn có thể nói được
tiếng người, thật khó có thể tin nổi!
Tử thi cùng với quan tài
có trong toà Liêu mộ này không dưới một trăm thì cũng phải tên tám chục, tại sao chỉ có mình đồng nữ tuẫn táng này là có đạo hạnh? Nó có điểm gì đặc biệt chăng? Tôi từng nghe tổ phụ nói qua “cương thi nghìn năm trong mộ da thịt tựa như đồng giáp", súng săn súng máy gì cũng đều không thể
tổn thương được nó, phải dùng đạo pháp mới có thể hàng phục! Đạo pháp là cái gì? Đạo môn có nhiều cách để đối phó với cương thi, tỷ như vẽ bùa
niệm chú, hay dùng chén mực chu sa úp ngược lên đỉnh đầu cương thi,
ngoài ra còn nghe nói dân trộm mộ có một món pháp bảo là âm dương ô có
thể hàng phục được cương thi. Dân gian tục truyền rằng, cương thi cũng
rất sợ đinh đóng quan tài, chính là loại đinh sắt lớn dài hơn một thước, niên đại càng lâu càng tốt, cương thi trăm năm sợ đinh quan tài nghìn
năm, cương thi nghìn năm thì lại sợ đinh quan tài một nghìn hai trăm
năm, cứ mỗi một đinh đâm trúng, cương thi lại bị rút mất trăm năm đạo
hạnh, đinh thứ nhất khu phách, đinh thứ hai diệt hình, cho nên dân trộm
mộ đều mang theo bên người một hai chiếc đinh quan tài cũ, đen sì sì. Đi ngoài đường mà gặp kẻ nào mang theo đồ nghề như thế, không cần phải hỏi cũng có thể khẳng định chắc chắn hắn ta là một tên chuột đất chuyên đào mồ quật mả. Lúc ở nông trường số 17, chúng tôi chẳng may gặp phải bão
tuyết cùng với bầy sói hoang, con hồ ly già dẫn theo chúng tôi vào trong huyệt mộ, dọc theo mộ đạo liền phát hiện ra xác của một tên chuột đất,
trên người hắn không chỉ có ngọc câu hộ thân mà còn có một chiếc đinh
quan tài, xem ra chuyện này cũng không phải là đồn đại vớ vẩn. Tôi lúc
này mới hối hận tại sao không rút lấy một hai chiếc đinh đóng quan tài
bên trong mộ thất, có thứ đó rồi há còn phải sợ cái xác đồng nữ này nữa? Tôi không có chén chu sa hay đào mộc kiếm, cũng không biết vẽ bùa niệm
chú, một khi bị cương thi vồ tới, làm sao có thể chống đỡ được đây?
Tôi vội vàng túm chặt vỏ đao kéo ngược lại, nhưng nó vẫn không chịu nhúc
nhích. Khúc gỗ mục dập dềnh trên mặt nước, Tuyền béo ở phía sau lại bị
tôi chắn mất tầm nhìn cho nên không dám tuỳ tiện nổ súng. Cậu ta nhất
thời nóng lòng xông lên phía trước, cũng túm lấy vỏ đao, hai người ra
sức lôi kéo, lúc này mới giật trở lại được, tuy nhiên do cả hai dùng sức quá mạnh, không kịp thu tay, thanh quân đao theo đà rơi tõm xuống sông
ngầm, cả người cũng chao đảo suýt ngã theo. Tuyền béo xoay mình lên,
súng lục trong tay ngắm thẳng vào đầu cái xác đồng nữ, khẩu Browning
M1900 không phải chỉ dùng để trêu mèo doạ khỉ, loại súng này dùng đạn
7.65mm, cho dù có là cương thi đạo hạnh nghìn năm đi chăng nữa, một khi
ăn trúng mấy viên “táo đen" vào đầu, cũng sẽ biến thành cái mặt tổ ong!
Nhưng cũng đúng vào lúc này, dòng sông ngầm bỗng nhiên chảy xiết trở lại,
khúc gỗ mục đâm phải một khối nham thạch lồi ra trên mặt nữa, “răng rắc" một tiếng, cả một mảng gỗ to bị vỡ ra. Ba người chúng tôi đều không kịp đề phòng, ngay cả cái xác đồng nữ cũng bị hất tung lên giữa không
trung. Tuyền béo giương súng đang định bắn cương thi nghìn năm, đột
nhiên bị hất văng lên, suýt nữa rơi tòm xuống sông, đành phải vứt bỏ
khẩu súng lục đang cầm trong tay, rồi dùng xẻng công binh ngoắc vào một
cái chạc cây, nửa thân dưới đã bị rơi vào trong nước. Tôi cùng Tiêm Quả
trông thấy tình huống nguy cấp của Tuyền béo, vội nắm lấy balo sau lưng
cậu ta, liều mạng kéo cậu ta lên. Khe nứt đến đây chợt thắt lại như nút
cổ chai, dòng chảy đột ngột chuyển hướng, nước xiết vô cùng. Ba chúng
tôi ổn định thân hình, lại dùng đèn pha chiếu qua, chỉ thấy cái xác đồng nữ vẫn đang ở phía sau đối diện với mọi người, móng tay cắm chặt vào
khúc gỗ mục, chậm rãi bò về hướng chúng tôi.
Ba người mặt đối
mặt với đồng nữ tuẫn táng, sau lưng là phần đục khúc gỗ mục, thân mình
ai nấy đổ nghiêng, nắm chặt lấy chạc cây không dám buông lỏng. Tuyền béo nhận lấy khẩu súng lục từ tay Tiêm Quả, bắn liền hai phát, khoảng cách
song phương tuy gần, nhưng do khúc gỗ đang bị dòng nước xiết cuốn lấy
thành ra lắc lư kịch liệt, hai viên đạn không biết đã lạc đi nơi nào.
Trong ánh đèn pha chập chờn, khuôn mặt lốm đốm thuỷ ngân ban kia đã dí
sát ngay trước mặt tôi! Lòng tôi phát lạnh, nhưng chỉ biết ôm chặt khúc
gỗ không dám buông tay, sau lưng là Tuyền béo cùng Tiêm Quả, không có
chỗ để cho tôi tạm thời né tránh, vội bảo Tuyền béo đưa tôi chiếc xẻng
công binh của cậu ta. Xẻng vừa tới tay, tôi liền tiến lên nhắm ngay vào đầu đồng nữ tuẫn táng mà đập xuống. Nào ngờ nó lại lao lên, nhảy qua
đỉnh đầu tôi. Tôi nhận ra nó muốn đánh về phía Tiêm Quả, một tay dùng
xẻng công binh ngoắc vào chạc cây, một tay vươn lên, bắt lấy được cái
chân của thây khô. Đôi chân nhỏ xíu của đồng nữ tuẫn táng xỏ trong đôi
hài “như ý vân đầu lý", đây là một loại giày thêu của cung nữ, tại mũi
giày có hoa văn trang trí hình mây cuộn, giống như chân đạp tường mây
vậy, tuy nhiên do bị chôn trong mộ cổ đã trăm nghìn năm, giày thêu đã
sớm mốc đen, văn sức bên trên đều không nhìn ra, sờ lên chỉ thấy thô
ráp, dùng sức bóp một cái cũng sẽ vỡ vụn.
Mưa to như trút nước,
những sợi dây leo của bảo tương hoa cũng không thấy phát sáng lại nữa,
ánh sáng duy nhất bên trong sông ngầm giữa lòng khe nứt phát ra từ chiếc đèn pha trong tay Tiêm Quả, lúc ẩn lúc hiện, xung quanh một mảnh đen
tuyền. Tôi đưa tay bắt được cái chân nhỏ, thầm nghĩ: Ông đây bắt được
mày rồi nhé! Lập tức thuận thế kéo xuống một cái thật mạnh, muốn đem cái xác khô này ném xuống sông ngầm. Sông ngầm càng vào sâu càng chảy xiết, khắp nơi đều là xoáy nước. Đại La Kim Tiên ngã xuống cũng đừng hòng
ngoi lên được. Bất quá người xưa mê tín có nói, cương thi chôn trong mộ, ngũ hành thuộc “thổ", thổ có thể khắc thuỷ, lão Long Vương dưới sông
cũng không đấu lại được nó, thậm chí còn bị nó quay ngược lại hút hết
thuỷ mạch.
Trong lúc tình thế nguy cấp, tôi không nghĩ được
nhiều như thế, dốc hết sức quăng nó xuống, nhưng mới được nửa chừng,
chợt cảm thấy nhẹ bẫng, trên tay chỉ còn lại chiếc giày thêu cùng bộ y
bào, đồng nữ tuẫn táng sử dụng một chiêu ve sầu thoát xác, xoay người
lộn một vòng, dừng lại ngay trước mặt tôi, một tay bám chặt thành gỗ,
tay còn lại đưa lên đỉnh đầu xé toạc một cái không thương tiếc, da mặt
liền bị lột xuống. Ba người chúng tôi không ngờ cái xác khô nghìn năm
lại còn một chiêu như vậy, trong lòng không khỏi kinh hãi, ánh sáng đèn
pha vẫn luôn chiếu lên mặt đối phương, chỉ thấy dưới lớp da khô đét là
một lão già, mặt mũi quái dị, nhăn nheo như vỏ cây, hai mắt sáng quắc dị thường, thân cao không bằng đứa bé ba tuổi. Lão ta bị ánh sáng đèn pha
làm cho chói mắt, đành phải đưa hai tay lên ngăn cản luồng sáng chiếu
tới, trong lòng bàn tay rõ ràng có một bát ấn ký hình bát quái, vẽ bằng
mực chu sa đỏ chót.
Đến lúc này tôi mới chợt hiểu ra mọi chuyện, kẻ vẫn lén lút bám theo phía sau chúng tôi suốt chặng đường, căn bản
không phải là đồng nữ tuẫn táng, mà là một tên chuột đất! Trước đó có
hai tên thợ săn, giả làm anh em, một người kêu Đại Hổ, người còn lại là
Nhị Hổ, Nhị Hổ đích xác là một tên trộm mộ, còn Đại Hổ là hành thi hắn
mang theo để che mắt mọi người. Hắn ta hành tung lén lút, luôn đeo một
cái túi da hươu to trên lưng, tôi còn tưởng đó là đồ nghề của hắn, nhưng thực ra bên trong chính là lão chuột đất này, lão ta hẳn phải là sư phụ hoặc trưởng bối của Nhị Hổ, chắc chắn phải có kinh nghiệm phong phú
hoặc bản lĩnh hơn người, Nhị Hổ trước sau đều nghe theo lời lão. Bất quá lão chuột đất này vóc người thấp bé, hơn nữa tuổi cũng đã cao, lại
không muốn bị người ta nhận ra khuôn mặt thật, vì vậy luôn trốn ở trong
túi, để cho Nhị Hổ cõng lão trên lưng đi khắp nơi.
Lão chuột đất
nói với Nhị Hổ, trong toà Liêu mộ mộ có một loại “trái cây" gì đó, bảo
hắn chui vào quan tài tìm. Lúc ấy vừa vặn tôi cùng Tuyền béo, Trăn Tử
cũng đi vào quách thất. Lão ta thấy có người tới, liền lập tức trốn đi,
không để cho chúng tôi nhìn thấy. Đợi đến khi chúng tôi quay lại chính
điện nơi đặt quan tài, Nhị Hổ đã cõng theo lão chuột đất, trốn vào ám
đạo. Lão nhận thấy lần này có không ít người tiến vào trong mộ, sợ có
người phát hiện ra khuôn mặt thật của mình, trước khi trốn vào ám đạo,
bèn móc ra một cái xác đồng nữ từ trong quan tài chủ mộ, tự mình đóng
giả làm thây khô, vẫn để cho Nhị Hổ cho vào túi rồi cõng ra ngoài. Làm
như vậy là để cho lỡ có ai đó mở cái túi ra, cũng sẽ lầm tưởng chỉ là
một cái xác chết mà thôi. Ba người chúng tôi đuổi theo, thật đúng là bị
lão ta doạ cho một vố, vẫn luôn thắc mắc tại sao tên chuột đất Nhị Hổ
lại mang một cái xác đồng nữ ra làm gì, vì vậy liền đem cái túi đặt trên thạch đài không quan tâm tới nữa. Nhị Hổ này quả là một tên xui xẻo,
chẳng may rơi xuống động tuẫn táng chết tươi đành đạch, lúc sắp chết vẫn còn đang oán trách - Mả cha lão già kia, trong mộ căn bản làm quái gì
có thứ “trái cây” nào! Lão chuột đất giả làm đồng nữ tuẫn táng, bám theo phía sau chúng tôi một đường chạy ra khỏi Liêu mộ, chạy tới khe nứt có
dây leo bảo tương hoa phát sáng này, không ngờ trời mưa to như thác đổ,
nước lũ bất ngờ ập tới, chúng tôi bắt được một khúc gỗ mục, lênh đênh
trên dòng sông ngầm, đến nước này rồi lão ta cũng không thể tiếp tục
trốn tránh được nữa, đành phải xuất đầu lộ diện.
Lúc này nước
sông có vẻ đã hơi hoà hoãn, tôi cắn răng, tay nắm chặt xẻng công binh,
đang muốn một xẻng gạt phăng lão chuột đất xuống sông. Lão ta một bên
giơ tay ngăn cản luồng sáng đèn pha chói mắt, một bên tung hoả mù, nói:
“Chớ có động thủ! Lão phu có một bí mật kinh thiên động địa muốn nói ra
cho các ngươi cùng biết!”
Chúng tôi đối với lão già này thì hận
đến thấu xương, nếu không phải lão muốn vào trong Liêu mộ trộm bảo vật,
xui hai thằng tôi đi hái gốc hoàng kim linh chi mọc bên trên bích hoạ
cửu vỹ yêu hồ, thì Lục Quân đã không phải chết một cách oan uổng như
vậy, những thanh niên trí thức kia cũng sẽ không vì tìm kiếm cậu ta mà
bị lưu sa chôn sống trong mộ, tôi, Tuyền béo và Tiêm Quả sẽ không lạc
vào khe nứt sâu dưới lòng đất này, rơi vào tuyệt cảnh vạn kiếp bất phục, không chết thì cũng rách da tróc vảy. Mà lão chuột đất giả thành đồng
nữ tuẫn táng này chính là nguồn cơn của mọi tai hoạ từ trước đến giờ,
cũng may chúng tôi còn chưa bị lão hù chết, có thù không báo không phải
là quân tử, không đá lão ta xuống sông làm mồi cho cá, sao có thể nuốt
trôi cục tức này! Tôi không cho lão ta có cơ hội giải thích, trực tiếp
vung xẻng công binh, vừa muốn động thủ, lão ta chợt nói với tôi: “Người
năm đó ở trên Lão Thử Lĩnh đả thiên đăng là gì của ngươi?”
Tôi
nghe hắn nói ra những lời này, không kiềm chế được mà ngẩn người, thầm
nghĩ lão ta tại sao lại biết tổ phụ của tôi? Lúc trước tổ phụ tôi đả
thiên đăng trên Lão Thử Lĩnh, lấy được một tấm da huyền hồ, sau đó bị
một tên âm dương bát quái hoả cư đạo xúi giục, đi Quỷ Môn Giang trộm mộ
tầm bảo, trên tay có ấn ký hình bát quái, chắc hẳn cũng là một tên quỷ
môn thiên sư, đó là chuyện của hơn mấy chục năm về trước, cho dù lão
chuột đất thân là quỷ môn thiên sư, có nghe qua chuyện này, cũng không
thể nào vừa thấy mặt đã liền nhắc tới tổ phụ tôi.
Tôi trong lòng thầm giật mình, tên hoả cư năm đó đã cùng tổ phụ tôi kết bái huynh đệ,
đi Quỷ Môn Giang trộm mộ, chẳng lẽ lại là lão ta? Bất quá tên hoả cư đạo đã bỏ mạng ở dưới đáy sông, huống chi theo lời tổ phụ tôi nói, hắn ta
vóc người cao lớn vạm vỡ, mà đây lão chuột đất này lại gầy đét thấp bé,
chẳng khác gì một cái đinh quan tài bằng thịt, làm sao có thể là cùng
một người cho được? Tôi nhất thời không nhịn nổi tò mò, muốn nghe một
chút xem lão ta định nói gì. Nước sông chảy xiết, bốn phía tối đen, có
mọc thêm cánh cũng trốn không thoát, chỉ cần không phải là cương thi
nghìn năm thì tôi việc gì mà phải sợ, nhất là với cái lão già sắp gần
đất xa trời này? Nghĩ xong, tôi chĩa thẳng xẻng công binh vào mặt lão
ta, nói: “Trên Lão Thử Lĩnh đả thiên đăng chính là tổ phụ của ta, nếu
không phải gà rừng không tên, giày rơm không số, ngươi cũng nên để lại
một cái tên!”
Lão ta cười gằn một trận: “Quả thật là con cháu của cố nhân, chẳng trách lại giống đến như thế, xem ra tên tiểu tử nhà
ngươi so với thằng oắt con vô dụng năm đó to gan hơn nhiều. Lão phu là
anh kết nghĩa của tổ phụ ngươi, chiếu theo bối phận mà nói, ngươi còn
phải gọi ta một tiếng gia gia!”
Tôi không thèm tin vào mấy lời
xằng bậy của lão ta, mắng: “Gia gia cái đầu ngươi, tổ phụ ta tuyệt không giao du với cái loại yêu quái trông như cái đinh quan tài thối nhà
ngươi!”
Tuyền béo nói: “Chớ thấy người sang mà bắt quàng làm họ, hôm nay ngươi có rước tổ phụ cậu ta từ Bát Bảo Sơn tới đây thì chúng ta cũng phải tiễn ngươi xuống sông làm mồi cho cá trước đã!” Nói rồi, cậu
ta ghé sát tai tôi, thấp giọng nói: “Ái chà chà, tổ phụ cậu năm đó cũng
giao lưu với không ít thể loại đầu trâu mặt ngựa như này nhỉ! Đến cái
nơi khỉ ho cò gáy như này rồi mà vẫn còn gặp được người quen?”
Tôi cũng đang bực bội trong lòng, tổ phụ nuôi tôi từ nhỏ tới lớn, những
chuyện người trải qua tôi nghe không dưới bảy trăm sáu mươi lần, sao
trước giờ chưa từng nghe nói tổ phụ quen biết một người như này?
Lão già chuột đất thấy tôi hãy còn chưa tin, lại tuôn ra một tràng. Thì ra
năm đó hoả cư đạo cải trang thành một người âm dương đạo nhân, chuyên vẽ âm dương bát quái trấn trạch trong mộ cho người ta để kiếm miếng ăn qua ngày, lại sở hữu một đôi đạo nhãn, rất rành vọng khí, vậy vọng khí là
gì? Đạo môn có một câu thế này - “Bảo khí đằng không, biện Phong Thành
thần vật” (Trans: Bảo khí bay lên trời, ấy chính là do thần vật tại
Phong Thành xuất thế). Đây là một điển tích, kể rằng trước kia có người
biết chút đạo pháp, trông thấy giữa Đẩu Ngưu (Trans: Tên hai ngôi sao là sao Ngưu và sao Đẩu) có làn khí màu tím tuôn ra, liền khẳng định trong
Phong Thành có chôn bảo vật, sau này thực sự đào được một hộp đá phía
dưới nền đất, mở ra phát hiện quang khí dị thường, trong hộp đặt một đôi kiếm, trên thân kiếm có khắc tên, một thanh là “Long Tuyền", một thanh
là “Thái A", bảo kiếm còn chưa xuất thổ, người có đạo nhãn đã có thể
nhìn ra.
Hoả cư đạo vì sao lại có bản lĩnh này? Muốn nói rõ ràng thì phải quay ngược về thời xa xưa, chuyện này cũng có liên quan tới
Quỷ Môn Giang. Tương truyền Vũ Vương trong một lần đi vi hành đã lệnh
cho quan quân đào ra con sông này, dùng để điều tiết nước cho Hoàng Hà,
sông được đào sâu vào trong núi, thông với sơn cốc, sông ngầm, chỗ rộng
nhất phải hơn mười trượng, trải dài mấy trăm dặm, sâu không thấy đáy,
nước sông chảy xiết, mạch ngầm có rất nhiều xoáy nước nguy hiểm. Ban đêm trên mặt sông thường có những tiếng động khác thường vang lên, có lúc
tựa như thiên quân vạn mã, lúc lại như âm binh mở đường.
Bởi vì
dòng chảy thông với Hoàng Hà, trong nước thường có cá lớn qua lại, xưa
kia, có một người bắt cá, sống nhờ cả vào việc bắt cả trên Quỷ Môn
Giang, nói đến săn bắn người ta sẽ thường nghĩ ngay tới săn thỏ bắt gấu, nhưng người bắt cá này lại là săn cá, trên đời quả thực không có người
thứ hai. Trước nay vẫn có câu “thợ mộc dài, thợ rèn ngắn”, ý muốn nói,
nếu thợ mộc làm quá dài thì có thể sửa lại thành ngắn, nhưng không thể
biến ngắn thành dài; còn thợ rèn thì ngược lại, phôi sắt nung nóng kéo
dài thì dễ, nhưng để rèn ngắn lại thì khó; cũng giống như đầu bếp, có
thể gia giảm mặn, ngọt tuỳ theo món ăn. Tóm lại, mỗi nghề đều có quy củ
cũng như các bí quyết kinh doanh riêng. Vậy người bắt cá này săn cá bằng cách nào? Chính là thả thuyền đến giữa lòng sông, thấy chỗ nào cá lớn
tụ tập thành đàn, liền giương cung lắp tên bắn xuống, cá chết mang theo
mũi tên nổi lên mặt nước, chỉ cần lấy móc kéo lên thuyền là xong, sau
khi làm sạch, xách ra trấn nhỏ để bán lấy tiền mua gạo muối, tổ tông tám đời nhà hắn đều là kiếm ăn bằng cách này.
Bắt cá cũng là nghề
do cha mẹ truyền lại, ngoài ra còn có hai thứ khiến người khác không thể so bì với hắn. Thứ nhất, gọi là phân thuỷ tiễn, đây nói không ngoa
chính là một kiện bảo vật trấn tông, được lấy ra từ trong miếu Phân thuỷ Long Vương, ba mũi tên cùng một cây cung đều chế tạo từ huyền thiết, từ phần đuôi tên tới mũi tên đều được làm nguyên khối liền mạch, nặng gấp
mười lần so với những mũi tên thông thường, uy lực vô cùng, không gì
sánh bằng. Muốn kéo được cung bắn được tên thì người cầm cung nhất định
phải có lực cánh tay hơn người, nếu dây cung kéo không căng, uy lực cũng bị giảm đi nhiều, mà đây là cây cung được làm từ huyền thiết, hai cánh
tay không đủ lực đừng hòng kéo được, cho nên từ lúc vừa mới chập chững
biết đi, liền phải rèn luyện lực cánh tay. Ngoài ra còn phải luyện được
chính xác, ban đêm cho thắp một nén nhang, một người cầm lấy rồi di
chuyển lung tung, còn mình thì dùng ánh mắt đuổi theo đầu nhang đang
cháy, luyện đến khi nào con ruồi bay qua trước mắt cũng có thể phân biệt được là đực hay là cái thì mới thôi. Còn thứ hai là bản lĩnh nhìn được
cá bơi dưới tận đáy sông của hắn. Sau khi bắt được cá lớn, mang lên
thuyền mổ bụng moi ruột, nếu may mắn sẽ tìm được ngư châu, ngư châu
không phát ra được ánh sáng như dạ minh châu, chẳng đáng mấy tiền, nhưng ăn vào có thể bổ mắt, cho nên nhãn lực của người bắt cá này hơn hẳn
người thường. Hắn ta tuy có bản lĩnh bực này, nhưng một ngày chỉ bắn hết ba mũi tên là dừng, chưa bao giờ bắn nhiều hơn dù chỉ một mũi. Bởi
người xưa làm gì cũng chú ý lưu lại cho mình một đường sống, hắn cũng
vậy, ngày ngày đều phải trông cậy vào con sông này mà kiếm miếng cơm,
nếu như chỉ vì tham mấy đồng tiền lẻ trước mắt, bắn sạch hết cá dưới
sông, sau này lấy gì mà sống tiếp? Cho nên hắn một ngày chỉ bắn ba mũi
tên, mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ, cùng đời vô tranh,
cuộc sống mỗi ngày đều trôi qua hết sức tiêu diêu tự tại.
Có một đêm, người bắt bỗng dưng một thấy một giấc mộng kỳ lạ, trong mơ có
người gõ cửa, hắn liền chạy ra xem thử, chỉ thấy đi vào là một đại hán
mặt đen, người mặc hắc bào, chân đi hắc ngoa, nổi bật trên khuôn mặt là
bộ râu rậm, thoạt trông đen bóng rắn rỏi, chẳng khác gì một vị La Hán.
Người bắt cá hoảng sợ vô cùng, chẳng lẽ là cường đạo tới cướp của? Đang
nghĩ xem phải làm thế nào mới có thể bảo toàn được tính mạng, không nghĩ tới vị đại hán mặt đen kia chẳng nói chẳng rằng bỗng quỳ mọp xuống đất, miệng kêu: “Ân công cứu mạng!”
Người bắt cá mờ mịt không hiểu,
hỏi lại: “Vị tráng sĩ này, ngài có phải nhận lầm người rồi hay không?
Tôi chỉ là một kẻ biết dùng cung bắt cá, kiếm chút tiền mọn nuôi gia
đình sống tạm bợ qua ngày, ngoài ra không có bản lĩnh gì khác, làm sao
có thể cứu được ngài?”
Đại hán mặt đen nói: “Ân công hãy nghe tôi nói, ngày mai ngài ra sông bắt cá, sẽ bắt gặp một xoáy nước lớn, thứ đó chính là oan gia đối đầu của tôi, ân công chớ nên hỏi nhiều, chỉ cần
hướng vào xoáy nước bắn liền ba mũi phân thuỷ tiễn, là có thể cứu vớt
tôi một mạng.” Vừa dứt lời liền không thấy tung tích đâu cả, người bắt
cá cả kinh, giật mình tỉnh dậy mới biết đây chỉ là một giấc mộng Nam
Kha, lòng thầm cảm thấy kỳ quái. Đến sáng ngày hôm sau, hắn ta lại lên
thuyền ra sông bắt cá như mọi ngày, giữa ban ngày trời trong mây lặng,
đột nhiên một trận mưa giông mù mịt kéo tới, giữa lòng sông quả thật
bỗng xuất hiện một xoáy nước lớn. Người bắt cá rùng mình một cái, nhớ
tới giấc mơ đêm qua, không chút do dự, lập tức lấy từ trong ống ra ba
mũi tên, chuẩn bị tư thế giương cung, tay trước khom lưng siết chặt cánh cung, tay sau dùng sức kéo căng dây cung, phân thuỷ tiễn ngắm thẳng vào giữa xoáy nước, cây cung uốn cong tựa như trăng đầu tháng, mũi tên
phóng ra vun vút tựa như sao băng, nói ra thì chậm nhưng sự việc lại
diễn ra rất nhanh, “vèo, vèo, vèo", ba mũi tên liên tục rời cung lao
thẳng vào xoáy nước.
Nói ra thì cũng kỳ quái, chỉ trong thoáng
chốc, mưa gió gào thét liền đã rút đi, trả lại một bầu trời quang mây
tạnh như lúc ban đầu, ánh nắng nhô lên cao, xoáy nước đã chẳng còn thấy
đâu nữa. Người bắt cá trở về nhà với một bụng đầy những nghi vấn, đêm đó lại nằm mơ thấy vị đại hán mặt đen kia, vừa vào cửa liền dập đầu khấu
tạ đại ân. Người bắt cá đầu óc mơ hồ, đứng dậy đáp lên, hỏi đối phương
rốt cuộc là người nào? Đại hán mặt đen nói: “Ba ngày sau vào lúc canh
ba, mời ân công đến bên bờ sông chờ, tôi tất có trọng báo!” Dứt lời lập
tức biến mất không một dấu vết hệt như lần trước.
Người bắt cá
tò mò, đúng hẹn ra đến bờ sông, tuy là nửa đêm canh ba, cũng may có vành trăng sáng treo trên cao, tạm có thể nhìn ra đường đi lối lại, bỗng
nhiên một đám mây đen kéo đến che kín ánh trăng, vị đại hán mặt đen từ
trong lòng sông đi tới, hướng người bắt cá mà quỳ lạy. Hắn ta thấy thế
sợ đái ra quần, lòng tự hỏi người này là ai? Làm sao có thể đi lên từ
giữa sông, hơn nữa sau khi lên bờ, trên người ngay cả một giọt nước cũng không có, phải chăng là thần tiên! Nghĩ vậy, hắn liền đánh bạo hỏi:
“Các hạ là người phương nào?”
Đại hán mặt đen nói: “Ân công đã
cho hỏi, tôi thực không dám không nói, lúc trước còn chưa nói ra ấy cũng là vì sợ làm cho ân công kinh hãi. Thực không dám giấu diếm, tôi là
thủy quỷ, thân xác đã nằm dưới đáy sông nhiều năm.”
Người bắt cá
vừa nghe tới hai chữ “thủy quỷ", sợ đến nỗi tóc tai dựng hết cả lên,
quay đầu định chạy. Đại hán mặt đen liền vội vàng nói: “Ân công chớ nên
sợ hãi, tôi sao dám hại ngài, tôi bấy lâu nay vẫn ở dưới đáy Quỷ Môn
Giang tu luyện, không biết vì sao kiếp nạn kéo đến, giăng ra thiên la
địa võng, cái xoáy nước giữa lòng sông hôm đó, chính là lão Long do trời cao phái xuống, cũng may có ân công tiễn nghệ cao cường, dùng ba mũi
tên bắn chết lão Long, mới giúp tôi tránh qua được một kiếp nạn này!” Vừa nói dứt lên, đại hán mặt đen ngoắc tay, từ dưới lòng sông lại đi
lên ba con thủy quỷ, đem chiếc thuyền của người bắt cá đẩy đi, chỉ một
nén nhang sau là quay lại, trên thuyền lúc này đã chất đầy kim châu ngọc bảo.
Đại hán mặt đen nói: “Xin ân công hãy nhận lấy chút lòng thành này của tôi, tận hưởng một đời vinh hoa phú quý!”
Người bắt cả cả nửa ngày vẫn chưa kịp hoàn hồn, liếc nhìn số kim châu ngọc
bảo này một cái, nhưng rồi lại dứt khoát xua tay từ chối. Hắn bây giờ
hối hận biết nhường nào cơ chứ, sớm biết tên đại hán mặt đen là thủy
quỷ, hắn tuyệt đối sẽ không bắn ra ba mũi tên kia, nếu nói chỉ bắn ba
mũi tên kia thôi thì không sao, nhưng đằng này hắn lại bắn chết cả lão
Long do trời cao phái xuống, giúp cho tên kia thoát được một kiếp, báo
ứng sớm muộn gì rồi cũng sẽ ập lên đầu hắn. Mấy đời nhà hắn kiếp sống
bằng nghề bắt cá trên con sông này, chẳng ham danh đoạt lợi, tuy rằng
không được vinh hoa phú quý, quan cao lộc dày, nhưng lúc nào cũng có cơm ăn, an ổn sống qua ngày này tháng khác, nào ngờ đến đời hắn lại gặp
phải tai hoạ như này, bắn chết lão Long, tội này nặng đến bực nào? Nói
không chừng đến một ngày nào đó, trời cao nổi giận, cho thiên lôi giáng
xuống đánh mình chết tươi!
Tên đại hán mặt đen thấy người bắt cá nhất quyết không chịu nhận lấy chỗ vàng bạc châu báu đó, cũng hiểu
nguyên do tại sao, trong lòng tự thấy hổ thẹn không thôi, đành phải tìm
cách khác để báo đáp, nói rằng năm đó, từ trong quỷ môn có một con linh
quy trên lưng cõng theo một chiếc hòm bằng đá bò ra, bên trong có một
quyển vô tự thiên thư, nào ngờ đâm phải một con thuyền lớn, rùa chết
thuyền vỡ, cùng chung số phận chìm sâu xuống đáy Quỷ Môn Giang, quyển vô tự thiên thư ấy hiện giờ vẫn còn. Đại ân đại đức không thể không báo
đáp, tôi xin xuống dưới đáy sông đem quyển thiên thư đó lên, thiên thư
tuy không có chữ, nhưng quả thật chính là một bảo vật vô giá có một
không hai trên đời, có thể tạc đá thành núi, vẽ đất thành sông, dời ngày đổi tháng, hô mưa gọi gió, phi thiên độn thổ, thấu rõ mọi phương, minh
tường tương lai, rạch ròi quá khứ, tuy nhiên không được phép mở hòm đá
cũng như đọc nội dung bên trong vô tự thiên thư, bằng không báo ứng sẽ
còn khủng khiếp hơn so với việc bắn chết lão Long! Bởi vì kẻ nào dám
nhìn trộm thiên cơ, ắt gặp thiên báo, bằng vào người trần mắt thịt phúc
ngắn mạng mỏng, tất không thể gánh nổi. Ân công hãy mang quyển vô tự
thiên này về cung phụng trong nhà, hằng năm cứ nhằm ngày mùng 3 tháng 8
thì xõa tóc giả điên, miệng ngậm dao nhọn, leo lên nóc nhà, bái vọng Bắc Đẩu Thất Tinh, thề rằng chưa từng coi trộm thiên thư, đảm bảo con cháu
ba đời sẽ được bình an vô sự.
Đại hán mặt đen nói xong, lệnh cho ba con thủy quỷ xuống dưới đáy sông nâng chiếc thuyền chìm năm xưa lên, sau đó tự mình đi lấy hòm đá giao cho người bắt cá. Tuy nói là hòm đá
nhưng hình dáng bên ngoài lại giống như một khối đá hoàn chỉnh, góc cạnh vuông vắn, không có nắp cũng chẳng có khe hở, toàn thân đen bóng toát
ra hàn quang, phía trên khắc chi chít các loại phù lục khó hiểu. Người
bắt cá cầm lấy, khẽ lắc thử, bên trong quả thực có đồ. Cứ thế theo lời
tên đại hán mặt đen, nửa tin nửa ngờ đem hòm đá về nhà cung phụng.
Truyền thuyết này được lưu truyền trong dân gian với cái tên “quỷ môn
đắc đạo”, vì vậy lại đem vô tự thiên thư gọi thành “quỷ môn thiên thư”.
Người bắt cá ở bên bờ Quỷ Môn Giang đoạt được thiên thư, vẫn nguyện sống thanh bần, hàng ngày vẫn chỉ kiếm ăn bằng nghề bắt cá trên sông, cũng
chưa từng mở hòm đá ra, sau này thọ đến tám mươi tuổi, không bệnh không
tật, cứ thể bình yên ra đi. Từ đó trở đi, “quỷ môn thiên thư” bên trong
hòm đá vẫn luôn được con cháu người bắt cá truyền từ đời này qua đời
khác, đây là chuyện về sau, không đề cập tới nữa.
Lại nói đến
hoả cư đạo sau này, hắn vốn là một tên ăn xin trong thành Lạc Dương,
chẳng may gặp phải năm hoa màu mất mùa, người ta đến lương thực trong
nhà còn chẳng đủ ăn nói gì đến việc đem đi bố thí, thành ra hắn suốt mấy ngày trời chẳng có miếng cơm nào vào trong bụng, đói đến hoa cả mắt,
chỉ có thể đào giun bắt dế, ăn các loài trùng độc kéo chút hơi tàn, dần
dần hai mắt kết thành lớp kén mờ đục, chẳng nhìn thấy gì được nữa. Hai
mắt mở to còn chẳng có miếng cơm mà ăn, huống chi kẻ mù loà như hắn bây
giờ, cứ thế vạ vật cũng sống qua được mấy năm, mấy lần suýt nữa chết
đói. Cuối cùng lão ta hạ quyết tâm, tự tay cắt bỏ màng kén trên mắt,
không ngờ mắt hắn giờ đã trở thành một đôi đạo nhãn, có thể nhận ra được bảo vật giữa đống đồng nát. Lại bởi vì cơ duyên xảo hợp, lão ta không
biết bằng cách nào nhìn lén được hai, ba trang “quỷ môn thiên thư", từ
đây thông hiểu đạo pháp, liền giả trang thành một vị Âm dương Bát quái
Hoả cư đạo, hành tẩu khắp nơi, tìm kiếm cơ hội đoạt bảo phát tài.
Cho đến một năm kia, lão nhận ra trong nhà đại thiếu gia có giấu một món
bảo vật, có thể giúp mình làm nên đại sự, liền cùng đại thiếu gia kết
bài huynh đệ, cùng nhau đi đến Quỷ Môn Giang tầm bảo, nào ngờ sẩy chân
thất thủ, rơi xuống đáy sông. Đại thiếu gia cho rằng Hoả cư đạo lần này
có đi mà không có về, vô luận thế nào cũng không sống nổi. Ngàn vạn lần
không nghĩ tới trên người hắn ta vẫn mặc bộ áo làm từ bộ da huyền hồ của đại thiếu gia, đó chính là một kiện bảo y có thể tị thuỷ, giúp cho hắn
ta tìm được một đường sống giữa muôn lối chết, lại từ đáy sông bơi lên.
Người vừa ngoi lên khỏi mặt nước, liền trúng một loại cổ chú đã bị thất
truyền từ lâu, gọi là “súc thi chú". Người trúng phải cổ chú này, thân
thể sẽ từ từ thu nhỏ, đến khi không thể nhỏ hơn được nữa, mạng cũng coi
như đứt!
Hoả cư đạo nghĩ đủ mọi cách để kéo dài thời gian phát
tác của cổ chú, lại bằng vào việc nhìn trộm qua hai, ba trang “quỷ môn
thiên thư", cho thu nhận rất nhiều môn nhân, tự phong mình làm “Quỷ môn
lão tổ". Các thủ hạ dưới trướng xưng là thiên sư, lấy việc vẽ bùa niệm
chú, hàng yêu tróc quỷ làm lá chắn che dấu cho mục đích thật sự của bọn
chúng là đào mồ quật mả, từ đây trên đời mới có cái gọi là quỷ môn thiên sư, chứ từ trước không hề có. Nhưng qua mấy chục năm, thân hình của quỷ môn lão tử càng ngày càng thu nhỏ, xương cốt toàn thân co rút lại khiến lão ta hết sức thống khổ, thật có thể nói là sống không bằng chết.
Sau đó không biết lão ta từ đâu nghe nói trên đời này có tồn tại một loài
phật hoa, vốn đã xuất hiện từ thời thượng cổ, có thể lan toả khắp thập
phương thế giới, thứ trái cây do phật hoa kết ra, có thể khiến con người ta thoát ra khỏi vòng tròn sinh lão bệnh tử, đám dân trộm mộ ngày xưa
trên tay phần lớn đều có “lăng phổ", mộ của ai chôn ở núi nào, trong
lăng có chôn thứ gì, đều được ghi chép tỉ mỉ. “Lăng phổ” có cái là thật
có cái là giả, không thiếu những chuyện bịa đặt giả tạo, nội dung bên
trong không thể tin hết, nhưng đối với quỷ môn lão tổ mà nói, thì chẳng
khác gì bắt được cọng rơm cứu mạng. Căn cứ theo những gì được ghi chép
lại trong “lăng phổ", bên trong ngôi mộ Thái hậu của nước Đại Liêu có
một loại phật hoa, bất quá toà Liêu mộ kia lấy núi làm lăng, huyền cung
nằm sâu trong núi, ẩn sâu giấu kĩ, khiến cho đám trộm mộ không biết hạ
thủ từ đâu, lại bởi vì niên đại rất xưa, thành ra không ai có thể tìm
thấy. Sau giải phóng, lão chuột đất vì tránh đầu sóng ngọn gió của cách
mạng văn hoá, liền trốn trong rừng sâu núi thẳm, không dám ra ngoài.
Cho tận mãi đến năm 1968, binh đoàn nông khẩn và trấn thủ số 17 gặp phải
bầy sói hoang tấn công, lại đúng đợt bão tuyết trăm năm mới gặp một lần
kéo tới, tôi cùng Tuyền béo, Lục Quân, Tiêm Quả bốn người đều rơi vào
tuyệt lộ, để cho con hồ ly già dẫn tới một ngôi mộ cổ, gạch mộ viên nào
viên nấy đều có hình vẽ bảo tương hoa, cũng có một bức bích hoạ cửu vỹ
hồ ly, hơn nửa phía trên bích hoạ còn mọc ra một gốc hoàng kim linh chi. Chúng tôi ở trong mộ thất mấy ngày, may mắn tránh thoát được kiếp nạn
này, sau khi thoát ra ngoài lại vô tình để lộ tin tức. Đồn qua đồn lại
cuối cùng chuyện này cũng truyền đến tai lão chuột đất, lão liền nghe ra nơi này có nhiều điểm kỳ quái, theo như táng chế Đại Liêu, Thái hậu
ngang hàng với cửu ngũ chí tôn, phải được chôn trong cửu thất huyền
cung, có thể thấy gian mộ thất có bức bích hoạ cửu vỹ hồ ly khả năng cao không phải là huyền cung thật sự, đoán rằng phía sau tất có huyền cơ.
Vì thể lão sai một tên chuột đất, giả trang thành tay thợ săn Nhị Hổ, đến
thượng nguồn Hắc Thuỷ Giang tìm chúng tôi nhờ dẫn đường. Còn người thợ
săn Nhị Hổ kia, chính là một thợ săn trên dãy Trường Bạch Sơn, bị tên
chuột đất hãm hại, biến thành hành thi sẵn sàng làm bù nhìn cho hắn
thoát thân. Nào ngờ tôi với Tuyền béo không bị mắc mưu, tên chuột đất bẽ mặt, đành phải đến hạ nguồn Hắc Thuỷ Giang đi tìm Lục Quân, hứa hẹn sẽ
cho cậu ta rất nhiều chỗ tốt, rồi lại tìm cách khiến cho Tiêm Quả bị rắn cắn. Bình thường Lục Quân là người rất cơ trí, nhưng không hiểu sao lần này lại bị tên chuột đất doạ sợ, cho rằng gốc hoàng kim linh chi bên
trong mộ cổ có thể cải tử hồi sinh, vì muốn giữ lấy tính mạng của Tiêm
Quả, mới chạy tới thượng nguồn gọi tôi và Tuyền bèo cùng quay lại Hắc
Sơn Đầu, vào mộ Thái hậu Đại Liêu.
Mấy người chúng tôi ở phía
trước vừa đi, tên chuột đất đã cõng theo quỷ môn lão tổ trên lưng, một
đường bám theo phía sau. Nhưng bọn chúng nào biết bên trong toà Liêu mộ
này cũng chẳng có bảo tương hoa, sở dĩ có những hoa văn trang trí kia,
là vì phía dưới huyền cung có một cái khe nứt, trong đó có rất nhiều
nham bích, mô tả “mặt trời toái phiến". Nham bích có niên đại không dưới nghìn năm, không biết là tác phẩm của cổ nhân thời đại nào, hơn nữa khe nứt này rất sâu, người xuống đó khó lòng trở lên. Sau này có chín toà
huyền cung đều bị lưu sa chôn vui, tên chuột đất Nhị Hổ rơi xuống động
tuẫn táng chết tươi. Lão chuột đất thấy không còn đường ra, không thể
không trốn ở sau lưng ba người chúng tôi, một mực đi sâu vào trong khe
nứt, tôi đến tận sông ngầm mới phát hiện ra lão.
Lão ta lại nói, không ngờ rằng, thứ nhất, khe nứt này lại sâu đến như vậy, thứ hai,
không nghĩ tới bảo tương hoa lại lớn đến thế kia, phần gốc của nó sinh
trưởng tít tận phía cuối địa mạch. Sinh tử giàu sang, ai cũng có mệnh,
mấy người chết trước đó xem ra cũng là do số phận đã an bài. Người xưa
có câu “oan gia nên giải chớ nên kết", tổ phụ tôi cùng lão vốn là huynh
đệ kết nghĩa, hai bên lại cùng mắc kẹt bên trong khe nứt sâu không thấy
đáy, nếu như đối đầu chỉ có thể dẫn đến lưỡng bại câu thương, không bằng cùng đồng tâm hiệp lực may ra còn có một con đường sống, cần gì phải
sống chết đối chọi với nhau? Tuy lão trúng phải súc thi chú, thân hình
thấp bé không tiện hành động, lại đã lớn tuổi rồi, nhưng dù gì cũng đã
từng làm chuột đất nhiều năm, cái danh xưng quỷ môn lão tổ này cũng
không phải là hữu danh vô thực, nếu như ba người chúng tôi vứt bỏ hiềm
khích lúc trước mà nghe lão chỉ điểm, khe nứt tuy có sâu nhưng cũng
không thể vây khốn chúng ta. Không chỉ thoát ra được, nói không chừng
vẫn có thể có cơ hội tìm được bảo tương hoa, gặp chỗ tốt bốn người cùng
chia!
Tôi trong lòng biết rõ, lão chuột đất cùng đường mới phải
nói ra những lời này, những kẻ ăn chén cơm của người chết này, từ trước
tới nay đều là thấy lợi quên nghĩa, trước mặt thì nói ngon nói ngọt,
nhưng lại lén đâm người ta một dao phía sau, nếu như tin lời lão ta, đến lúc chết cũng không biết mình chết thế nào! Huống chi song phương đã
kết tử thù, chuyện này liên quan tới biết bao nhiêu mạng người, mâu
thuẫn này không thể nào hoá giải được nữa, chưa kể năm đó lão cùng tổ
phụ tôi kết bái, còn không phải là vì nhắm tới bộ da huyền hồ mà tổ phụ
tôi săn được hay sao?
Trong lúc hai bên nói chuyện, sông ngầm
bất chợt đổ về một khe nứt lớn hơn, thế nước tương đối đối trầm ổn. Tôi
thấy thời cơ cuối cùng đã tới, không muốn nghe lão ta giả thần giả quỷ
lải nhải thêm nữa, làm gì lão chẳng biết chúng tôi sẽ không chịu buông
tha, nói ra những lời này chỉ là muốn câu giờ mà thôi, hơn phân nửa là
muốn chờ cơ hội để giở trò đối phó, lúc này tôi nháy mắt ra hiệu cho
Tuyền béo, cả hai đều cầm xẻng công binh, tiến lên muốn bắt lão chuột
đất. Lão ta hỏi: “Các ngươi thật sự muốn bắt lão phu sao?”
Tuyền
béo đáp lại: “Lão già nhà ngươi nếu không muốn làm mồi cho cá, nhân lúc
còn sớm hãy mau quỳ xuống xin tha, sau đó thúc thủ chịu trói, bọn ông
đây từ bi sẽ đem ngươi nhét lại vào balo, mang theo ra ngoài cũng không
phải là không thể.”
Hai mắt lão chuột đất gian xảo loé lên, nói: “Quỷ môn lão tổ đạo pháp thần thông, há có thể bị bọn ngươi bắt sống!”
Tôi cùng Tuyền béo không thèm coi lời lão nói là cái thá gì nữa, giờ lão ta đã như cá nằm trên thớt, sao có thể chạy thoát được nữa? Đúng vào lúc
này, lão ta giơ tay lên ném ra một vật. Tôi vội vung xẻng công binh lên
đỡ, “keng" một tiếng, tôi liền nhận ra đó là miếng ngân bài đeo trên cổ
đồng nữ tuẫn táng, đối phương nhân cơ hội này nhảy lên cao một cái, lại
không thấy hạ xuống. Ba người chúng tôi quay đầu tìm kiếm khắp bốn phía, nhưng không hề phát hiện được tung tích của lão ta đâu nữa. Chợt nghe
giữa không trung truyền tới một trận cười gằn, Tiêm Quả vội vàng dùng
đèn pha chiếu về phía đó, ba người ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy lão
chuột đất đang treo người lơ lửng trên chỗ cao, sau lưng mọc ra hai đôi
cánh trong suốt, giống như một con chuồn chuồn lớn, từ trong khe nứt bay ra càng lúc càng cao.