Trong số những người con của thần Zeus được vinh dự đứng vào hàng ngũ
mười hai vị thần tối cao, ta phải kể trước hết: Apollon. Apollon là con
của thần Zeus và nữ thần Léto (thần thoại La Mã: Latone). Cuộc đời của
vị thần này được bao phủ bằng những chiến công chói lọi mà chúng ta
không sao kể xiết được. Hầu như khắp nơi ở thế giới Hy Lạp chỗ nào cũng
có đền thờ thần Apollon. Thế nhưng vị thần danh tiếng ấy lại cất tiếng
khóc chào đời trong một tình cảnh mà kể lại không ai là người không xót
xa, thương cảm. Léto là con gái của Titan Koios và Titanide Phoébé. Thần Zeus chẳng rõ gặp Léto từ bao giờ nhưng đã đem lòng thầm yêu, trộm nhớ. Và với Zeus thì, như mọi người đã biết, thần chẳng chịu kéo dài cái
cảnh thầm nhớ, trộm yêu. Thần đã tìm đến với Léto. Cuộc tình duyên của
họ khá thắm thiết, thắm thiết cho đến ngày Léto có mang thì Zeus, vì sợ
Héra, nên đành phải “cao chạy xa bay”.
Zeus thôi nhưng Héra không thôi. Biết chuyện, Héra vô cùng tức giận và nàng
như sự “thường tình nhi nữ” và như những lần trước, lại trút tất cả sự
căm uất của mình vào người thiếu nữ bị Zeus, sau khi thỏa mãn dục vọng,
bỏ rơi. Héra, vị nữ thần bảo hộ cho sự sinh nở, bảo hộ cho các bà mẹ và
trẻ sơ sinh được vuông tròn, lần này trả thù Léto bằng một hành động vô
cùng bất nhân, độc ác. Nàng ra lệnh cho khắp nơi trên mặt đất từ đảo
hoang cho đến rừng già, từ làng quê cho đến xóm chợ... không đâu được
chứa chấp Léto, không đâu được giúp đỡ Léto. Nàng Léto bất hạnh đi lang
thang hết nơi này đến nơi khác cầu xin một nơi trú ngụ nhưng đáp lại chỉ là một ánh mắt ái ngại hoặc thương cảm chứ không phải là hành động săn
sóc chân tình đối với một bà mẹ sắp đến ngày sinh nở. Léto đi hết ngày
này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác mà vẫn không sao cầu xin
được một tấm lòng hiếu khách vốn là truyền thống thiêng liêng của đất
nước Hy Lạp. Cuối cùng có một hòn đảo nhỏ, đúng hơn là một mẩu đất, số
phận cũng lang thang bất hạnh như Léto, đón tiếp Léto với những tình cảm chân thành nhân hậu. Đó là hòn đảo Ortygie75 đất đai cằn cỗi chẳng sinh sôi được hoa thơm quả ngọt do đó cũng chẳng có một bóng người. Ortygie
xưa kia vốn là tiên nữ Astéria, con của Titan Koios và Titanide Phoébé,
nghĩa là em ruột của nàng Léto đang đi tìm nơi nương tựa. Chồng Astéria
là Persès và con gái nàng là Hécate, một vị nữ thần rất khủng khiếp mà
chúng ta đã nghe kể trong đoạn nói về vương quốc của thần Hadès. Sắc đẹp của Astéria đã không thoát khỏi con mắt hiếu sắc đa tình của Zeus. Để
trốn tránh thần Zeus, Astéria phải biến mình thành con chim cun cút.
Nhưng xem ra như thế cũng chưa yên. Astéria lại phải lao mình xuống biển biến thành một hòn đảo, một mảnh đất be bé, xinh xinh thì mới thật hoàn toàn tai qua nạn khỏi. Vì lẽ đó hòn đảo Ortygie có số phận thật là hẩm
hiu. Trong khi các hòn đảo khác đều có nơi cư trú ổn định, an cư lạc
nghiệp thì Ortygie vẫn cứ trôi nổi nay đây mai đó trên mặt biển bao la.
Ortygie đã đón tiếp Léto bất chấp lệnh ngăn cấm của Héra. Và may thay,
ngay sau đó thì Léto chuyển dạ, đau đớn, Léto chuyển dạ mà không một vị
nữ thần nào đến với nàng cả. Héra không đến. Cả đến Ilithyie, vị nữ thần Hộ sinh cũng không đến. Léto đau hết cơn này đến cơn khác mà không một
lời thăm hỏi, một bàn tay giúp đỡ. Nàng đau đớn quằn quại, vật vã, gào
thét, rên la suốt chín ngày đêm. Đến ngày thứ mười, nữ thần Ilithyie
không thể cầm lòng được đành chịu tội với Héra, bay xuống trần đỡ cho
Léto, Léto sinh đôi, một trai một gái. Trai là Apollon, gái là Artémis.
Thần Zeus hết sức cảm kích trước nghĩa cử của hòn đảo Ortygie. Để đền
đáp lại tấm lòng nhân hậu của hòn đảo nghèo nàn, ngay từ lúc Léto đặt
chân xuống đảo, thần Zeus đã cho bốn cây cọc khổng lồ từ dưới đáy biển
dội nước lên đóng giữ chặt hòn đảo Ortygie lại, chấm dứt cuộc đời ba
chìm bảy nổi của nó. Zeus còn làm cho đất đai trên đảo trở thành phì
nhiêu để cho quanh năm bốn mùa đều có hoa thơm quả ngọt, cây cối xanh
tươi. Từ đó trở đi một cuộc đời mới đến với Ortygie. Thần Zeus đặt cho
nó một cái tên mới: Délos, tiếng Hy Lạp có nghĩa là “Ngời sáng” hoặc
“Rực rỡ” hoặc “Huy hoàng”. Quả vậy, trong những thế kỷ sau này tuy là
một hòn đảo nhỏ bé trên biển Égée nhưng Délos đã giữ một vị trí thật rực rỡ, thật huy hoàng trong quần đảo Cyclade ở phía Nam vùng biển này.
Người xưa kể lại, khi Apollon ra đời, trên hòn đảo cằn cỗi, trơ trụi vốn chỉ là nơi nương thân cho loài hải âu cánh dài với những tiếng kêu chít chít buồn bã, bỗng nhiên trời sáng bừng hẳn lên. Những luồng ánh sáng
chói lọi, rực rỡ từ bầu trời cao xa tít tắp xuyên qua những đám mây
chiếu rọi xuống hòn đảo, làm cho cảnh vật như đổi sắc, thay da. Vì lẽ đó nên Apollon là vị thần ánh sáng và có tên gọi là Phébus76. ánh sáng của Apollon chiếu rọi khắp thế gian. Nó không hề lẩn tránh hoặc khiếp sợ
trước bóng tối, vì thế Apollon trở thành vị thần Chân lý. Và đã là chân
lý thì phải trung thực, không dung thứ một sự dối trá nào. Các nhà thơ
xưa kia đã ca ngợi thần Phébus bằng những vần thơ hết sức thành kính:
Hỡi thần Phébus từ ngai vàng Chân lý,
Từ cung điện của người ở trái tim dương thế,
Người nói với muôn dân
Như thần Zeus đã từng truyền lệnh.
Lời Người nói chẳng hề đơn sai thiên lệch,
Chẳng hề một bóng tối nào che phủ được cõi Chân lý đó của Người.
Thần Zeus vì danh tiếng cao cả của Người,
Đã ban cho Người một danh hiệu vĩnh hằng: Phébus.
Để muôn dân với một niềm tin vững chắc,
Tin tưởng vào lời nói của Người.
Apollon ra đời. Thần Zeus sai các thần đem xuống cho đứa con trai của mình một
chiếc mũ vàng, một cây đàn lia (lyre) và một cỗ xe do những con thiên
nga kéo. Nữ thần Thémis đem những rượu thánh và thức ăn xuống nuôi chú
bé. Và chỉ mấy ngày sau chú bé vụt lớn lên thành một chàng trai cường
tráng đẹp đẽ. Chàng trai đó lấy ngay ống tên đeo vào người, ống tên và
cây cung do thần Zeus gửi xuống trong cỗ xe thiên nga, rồi một tay cầm
cung một tay cầm cương, chàng đánh xe bay tới xứ sở diễm phúc của những
người Hyperboréens77, một xứ sở ở tận bên kia những xứ sở của gió Borée
là những cơn gió bấc đưa mưa tuyết và băng giá tới. Vì ở vào một nơi xa
tít tắp mù khơi như thế nên những người Hyperboréens chẳng hề biết đến
đêm tối là gì. Ngày của họ dài vĩnh viễn, họ sống chẳng hề biết đến bệnh tật và tuổi già, chẳng hề biết đến túng thiếu, đói khổ và cướp đoạt,
lừa đảo. Quanh năm bốn mùa khí trời ấm áp. Những người Hyperboréens lại
quý người trọng khách, yêu chuộng đàn ca, cho nên khi Apollon tới là họ
mời ngay vào dự tiệc và vũ hội. Apollon đã sống với những người
Hyperboréens một năm ròng. Sau đó chàng trở về quê hương Hy Lạp để bắt
đầu sự nghiệp của mình: sự nghiệp bảo vệ Chân lý, truyền bá Âm nhạc, Thơ ca.
[74] Ngày nay eo biển Bosphore còn được gọi bằng một tên
khác: Eo biển Constantinople. Tuy nhiên địa danh Eo biển Bosphore vẫn
thông dụng. Một số địa danh khác đã thay đổi, thí dụ Biển Đen xưa là
Pont-Euxin; các nhà nghiên cứu cho biết lúc đầu người Hy Lạp gọi là Pont d’Axne nghĩa là “Biển không thân thiết”, sau đổi thành Pont Euxin nghĩa là “Biển thân thiết”. Eo biển Dardanelles xưa là Hellespont. Biển
Marmara xưa là Biển Propontide.
[75] Tiếng Hy Lạp ortýki: chim cun cút.
[76] Tiếng Hy Lạp phébus hoặc phoibos: rực sáng, chói lọi.
[77] Tiếng Hy Lạp hyperboréens: sống ở phương Bắc, bên ngoài gió Borée.