Ninh Dịch ngước mắt lên nhìn Phượng Tri Vi. Thiếu nữ đeo mặt nạ, đôi ngươi
khuất sau mây khói, nhìn không rõ thần sắc nơi đáy mắt.
Ánh mắt
hai người giao nhau, rồi ai nấy đều lảng ra. Ánh mắt Ninh Dịch rơi xuống ông tay áo của mình, rồi y bình thản đáp: “Được.”
Y không hỏi là món đồ gì, dường như đã đoán ra.
Phượng Tri Vi mím môi cười, ý cười lành lạnh.
Những người khác không biết hai người đang làm trò gì bí hiểm, đều ngóng nhìn có vẻ sốt ruột. Phượng Tri Vi chỉ vào cổ tay Ninh Dịch, tươi cười nói:
“Mượn tràng hạt của Vương gia dùng một lát.”
Ninh Dịch mặc áo bào bằng tơ tằm màu nguyệt bạch, vạt áo viền vàng, ống tay áo rộng rãi,
thêu lác đác mấy đoá hoa mai năm cánh màu lục nhạt, thanh dật tú nhã,
phong thái loá mắt, nên mọi người đều không nhìn thấy cổ tay y đeo tràng hạt. Thiên Thịnh đế cười bảo: “Lão lục, trẫm chưa từng nghe nói ngươi
là cư sĩ tại gia sao không dưng lại đi tin Phật?”
“Mấy hôm trước
thất đệ mời các huynh đệ đến phủ dự tiệc.” Ninh Dịch cười đáp, “Giữa
tiệc có người tặng con tràng hạt này, nói mùa hè đeo nó sẽ không đổ mồ
hôi, giúp mắt sáng tim khoẻ. Nhi thần sợ nóng mới đeo nó, chứ không định làm cư sĩ gì cả.”
Nói đoạn liền vén tay áo lên, trên cổ tay đeo
một chuỗi tràng hạt màu đen, màu sắc trang nhã, được xương cổ tay tinh
tế như ngọc tôn lên. Rõ ràng là vật trang nghiêm của nhà Phật, mà lại
toát ra vẻ tươi sáng quyến rũ.
Y đưa tay ra, không tự tháo tràng
hạt mà chỉ ngước mắt mỉm cười nhìn Phượng Tri Vi. Dưới rèm mi dài, ánh
mắt y long lanh đầy màu sắc.
Phượng Tri Vi nhìn y.
Y nhìn lại Phượng Tri Vi.
Cổ tay chìa ra giữa không trung, mà không thu về.
Phượng Tri Vi âm thầm cắn răng, chuyện này kéo dài thì càng thêm khó xử, đành
đưa tay ra tháo tràng hạt. Nàng cẩn thận cong ngón tay lên, tránh chạm
vào da thịt y, bỗng nghe Hồ Thánh Sơn bên cạnh cười bảo: “Ngón tay Nguỵ
đại nhân cong lên theo thế lan hoa chỉ, quả là có nét kiều diễm của nữ
nhi.”
Mọi người cười rộ lên, Phượng Tri Vi cũng ngượng ngùng cười nói: “Tại hạ là đứa con trai đầu tiên trong gia đình, bên trên có mấy
huy trưởng chết yểu. Cha mẹ sợ không nuôi được, nên thuở nhỏ nuôi như
con gái, để các vị đại nhân chê cười rồi.”
Nói rồi tay cũng tháo
nhanh hơn, đầu ngón tay lướt qua lòng bàn tay Ninh Dịch, chợt thấy ngón
tay Ninh dịch cuộn lại, nhẹ nhàng gãi lên lòng bàn tay nàng.
Cái
gãi này nhẹ như lông vũ, muốn run lại ngừng. Phượng Tri Vi giật nảy
mình, vô thức rút tay về, suýt nữa thả tràng hạt rơi xuống đất, chỉ cảm
thấy mặt mình nóng bừng, thầm nghĩ không xong rồi, chỗ nào đeo mặt nạ
thì không sao, chứ mang tai nhất định đã đỏ ửng.
Qủa nhiên Ninh Dịch cười nói: “Nguỵ đại nhân đúng là người chu đáo, tháo tràng hạt cũng tỉ mỉ đến vậy.”
Mọi người bật cười, lần này cười không như lần trước, có người vẫn hồn nhiên vô tư, có người đáy mắt lại loé sáng.
Một tiểu tử xuất thân nhà nông, hình như không nên có cử chỉ này…
Phượng Tri Vi nhìn vào mắt thoáng ý cười lạnh lùng của Ninh Dịch, bình thản
cười nói: “Nguỵ Tri xuất thân nhà nghèo, giờ may mắn được gặp thiên
nhan, lại lọt vào mắt xanh của Vương gia và các vị các lão, nhất thời
vừa vui mừng vừa run sợ, cư xử bồng bột, xin Vương gia rộng lượng bỏ
qua.”
“Không sao đâu.” Ninh Dịch mỉm cười, “Ta gặp ngươi cũng rất vui mừng, vui đến phát sợ luôn.”
Mọi người bật cười ha hả, bấy giờ tâm tư của Thiên Thịnh để còn đặt lên kế
sách thuần sói của Phượng Tri Vi. Cơn sóng ngầm cuồn cuộn này, tuy khiến lòng ông thoáng rung động, nhưng cũng không suy nghĩ sâu xa.
“Bệ hạ.” Phượng Tri Vi nhanh chóng chuyển đề tài, tiến một bước dâng tràng hạt lên, “Hai kế thuần sói, nằm ở đây cả.”
Thiên Thịnh đến ngắm nghía tràng hạt, thấy hoa văn trên viên ngọc trông hơi phức tạp kỳ dị, lờ mờ hiểu ra, “Đạo Hô Khắc Đồ?”
“Dạ phải.” Phượng Tri Vi không muốn nấn ná thêm một khắc nào nữa, bèn nói
thật nhanh, “Đại Liêu xuất thân là bộ tộc ở thảo nguyên, họ có chung một nguồn gốc với bộ tộc Hô Trác bây giờ, đều theo tín ngưỡng Trường Sinh
Thiên của đạo Hồ Khắc Đồ. Sau này bộ tộc chia rẽ, trở thành thù địch,
Đại Liêu mở nước ở bên ải phía Bắc, đạo Hô Khắc Đồ dần dần suy vi, bị
đạo Tát Mãn sinh sau đẻ muộn lấn át, nhưng những quý tộc thượng lưu nước Liêu đa phần vẫn theo tín ngưỡng này. Vi thần nghĩ, ta nên thử chút thủ đoạn, mở rộng đạo này ở nước Liêu.”
“Tại sao?”
Vì ba cái
lợi. Thứ nhất, lạt ma Hồ Khắc Đồ có hai giới luật: một, tăng nhân không
được cưới vợ sinh con; hai, tăng nhân không được tham gia sản xuất.Một
khi thanh niên trai tráng đua nhau đi tu hành, thì nhân khẩu và sức
chiến đấu sẽ suy giảm.Dù thời chiến họ có hoàn tục thì cuộc sống tụng
kinh gõ mõ lâu ngày cũng sớm bào mòn bản tính khát máu. Thứ hai, giáo lý Hô Khắc Đồ đề cao lục đạo luân hồi, đời này tu hành khổ hạnh để cầu
kiếp sau được hưởng phúc an lành, tín đồ sẽ có tâm lý an cư lạc nghiệp.
Thứ ba, nhập giáo ắt phải có chùa, nhiều chùa chiền có thể kéo dân du
mục xuống khỏi lưng ngựa, định cư ở một mảnh đất nào đó.
“Vậy còn kế sách thứ hai?” Nàng nói đã nhanh, Thiên Thịnh đế còn tiếp thu nhanh
hơn, hơi rướn người ra trước. Nếu không cố kỵ thể diện Đế vương, xem ra
ông còn muốn chạy xuống tận nơi.
“Lông cừu.” Phượng Tri Vi nói,
“Yến gia ở Hoàng Hải quanh năm buôn bán trên biển, họ từng mang về một
loài cừu lông rậm của nước ấy. Loài cừu này có lớp lông two dày, xe tơ
dệt vải cho ra thứ vải mềm nhẹ ấm áp, tốt hơn rất nhiều so với loại vải
bông nặng nề chúng ta vẫn thường mặc vào mùa đông. Nhưng do loài cừu này không thích ứng với khí hậu nóng ẩm phương Nam, vả lại Chức tạo ti của
Hoàng Hải sợ ảnh hưởng đến nghề kéo bông dệt vải bản địa, nên vẫn luôn
ngăn cản Yên gia phổ biến nó. Giờ chớ ngại màng loài cừu này lên nuôi ở
Phương Bắc, nơi có khí hậu đất đai vô cùng thích hợp với nó. Một khi thu được kết quả, thì không chỉ có lợi cho dân nước ta, mà nó còn kiềm hãm
kinh tế Đại Liêu.”
“Còn phương pháp truyền bá đạo Hô Khắc Đồ và
loài cừu này…” Phượng Tri Vi ngửa đầu cười, “Các vị lão tướng đang ngồi
đây đều là những quan lại mẫn cán, ắt phải có kế sách phi thường để chia sẻ nỗi lo cho bệ hạ, Nguỵ Tri sẽ không quá phận.”
Bộc lộ hết tài nặng, mà lại rất biết chừng mực. Ngồi đây đều là những vị quý thần danh giá, trong tích tắc dù phản đối nay ủng hộ nàng, thì trong lòng đều nảy ra câu bình phẩm này.
Thiếu niên kia đứng trên ngự điện hoàng
gia trang nghiêm hoa quý, nơi quyết định việc quân cơ trong thiên hạ,
song vẫn giữ được thần thái phẩn chấn, vẻ mặt cao quý mà không kiêu
căng, khiêm nhường mà không hèn kém như cây ngọc reo vang, vượt qua chín tầng mây.
Mọi người hơi rướn người, vô thức nhìn lên, đáy mắt
lấp lánh hào quang – Kẻ này tài trí siêu phàm, ắt có ngày lên như diều
gặp gió!
-Kẻ này tài năng quá lộ liều, chỉ e sẽ gãy dọc đường!
-Tác phong giấu dốt của nàng bỗng dưng thay đổi mạnh, lẳng lặng đẩy Yên gia lên sài diễn, cẩn thận!
Ý nghĩ cuối cùng, dĩ nhiên là của Sở vương điện hạ cao quý. Y ngồi nghiêm chỉnh tại chỗ, đăm đăm nhìn nữ tử tinh ranh như cáo kia, một nụ cười
ngưng lại bên môi, đẹp mà trầm như đáo mạn đà la yêu mị nở rộ vào đêm.
Tháng Sau năm Thiên Thịnh thứ mười sáu, Ngũ quân Đô đốc Thu Thượng Kỳ nhận
chức Chinh Bắc Tướng quân, dẫn hai mươi vạn quận ngược Bắc.
Cũng
trong tháng ấy, hai bộ Hộ, Công nhận lệnh vua, bí mật thương lượng với
đại diện họ Yên của Hoàng Hải ở kinh thành về việc nhân giống cừu lông
rậm. Đại diện của họ Yên tự nguyện cung cấp cừu lông rậm miễn phí trong
ba năm đàu, ba năm sau mới lấy lãi ba phân. Sự hào phóng của Yên thị
khiến Thiên Thịnh đế rất mừng, ban danh hiệu hoàng thương, cai quản việc buôn bác qua lại giữa các nghề ở Nam Cương với kinh thành.
Hai việc này đều liên quan đến Phượng Tri Vi, nhưng nhìn bề ngoài lại không thấy được.
Về việc lựa chòn chủ soái chinh Bắc, trong triều cũng cãi vả gay gắt, bởi
chuyến này đi nhất định phải đại thắng, thắng rồi lại phải vỗ về, cho
nên chủ tướng không những phải dũng mãnh thiện chiến, mà còn phải lão
luyện chín chắn. Đây gần như là hai điều kiện trái ngược, mà sau ngày
Thiên Thịnh lập quốc, Thiên Thịnh đế đa nghi cực nặng hoặc bãi chức hoặc giết sạch các lão tướng khai quốc, gần như không còn một ai. Tranh cãi
đến cùng, Thiên Thịnh đế vẫn lệnh cho Thu Thượng Kỳ lấy công chuộc tội,
lại phong Thuần Vu Hồng làm Phó soái, cũng coi như cân bằng mấy luồng
thế lực.
Kẻ chịu tội xuất chinh, rất khó ôm đầy hào tình. Lòng
Thu Thượng Kỳ thấp thỏm không yên, mới tha thiết nhờ Phượng Tri Vi “hậu
duệ thế giao”, sau khi ông rời kinh hãy trong nom đến Thu phủ một chút.
“Thế điệt.” Chỉ mong mấy ngày nay máy đầu Thu Thượng Kỳ đã thêm vô số sợi
bạc. Ông nước mắt lưng tròng nắm tay Phượng Tri Vi, khẩn khoản dặn dò,
“Thế cục trong triều phức tạp, mấy vi huynh đệ của cháu không hiểu
chuyện, việc trong ngoài phủ phải phiền cháu trong nom nhiều.”
Đôi mắt già nua của Thu Thượng Kỳ đau đáu nhìn Phượng Tri Vi – bấy giờ là
Nguỵ Tri. Tuy hai kế diệ Đại Liêu còn chưa có hiệu quả, tạm thời cũng
không tiện phong thưởng, nhưng ai cũng nhìn ra bệ hạ vô cùng thích thú
thiếu niên anh kiệt này, thăng qua tiến chức chỉ là chuyện ngày một ngày hai. Mà mấy vị công tử Thu gia đều không được xuất sắc, trước kia Thu
gia dựa vào thế lực của Ngũ hoàng tử sống cũng khá yên ổn, giờ Ngũ hoàng tử bị trục xuất trá hình khỏi Đế Kinh, vây cánh Ngũ hoàng tử cũng nín
thở sợ hãi. Giờ này còn không mau mau leo lên cây đại thụ khác, Thu
Thượng Kỳ sợ một khi mình rớt đài bỏ mạng, để lại một gia nghiệp lớn
nhường ấy, thì họ biết xoay sở thế nào? Cho nên mới ra sức giao hảo,
trông chờ Nguỵ tiên sinh niệm tình xưa nghĩa cũ, tương lai sẽ để mặt
nhiều hơn đến Thu phủ.
“Thế thúc yên tâm.” Phượng Tri Vi thành
khẩn nói, “Thu phủ chính là nhà cháu, con em Thu phủ đều là huynh đệ của cháu. Hễ cháu còn, thì họ cũng còn.”
Lại lấy ra một túi gấm, đặt vào tay Thu Thượng Kỳ: “Thế thúc đến sông Xương Thuỷ ở thảo nguyên gần biên cảnh thì hãy mở nó ra.
Thu Thượng Kỳ cả mừng – Nguỵ Tri thông minh, khắp triều đều biết, đây ắt là túi gấm chứa diệu kế! Ông ta vội vàng trân trọng cất túi vào ngực, rồi
lưu luyến từ biệt Phượng Tri Vi.
Đại quân xuất phát, thăm thẳm
đường xa, cuối cùng khi gần đến biên cảnh cách xa nghìn dặm, Thu Thượng
Kỳ không nén nổi tò mò, lén mở túi gấm.
Sau đó hai mươi vạn đại quân chợt thấy chủ soái nhà mình hét to một tiếng, miệng trào máu tươi, ngã xuống khỏi lưng ngựa.
Gió cuốn theo mẩu giấy nhỏ trong túi gấm thong thả bay lên, rồi rơi vào
lòng sông Xương Thuỷ. Nét chữ thanh tú trên mẫu giấy từ đó bị chôn vùi, không ai còn được thấy.
“Thu ơhur chính là nhà cháu, con em Thu
phủ là huynh đệ của cháu, phu nhận cậu là mợ cháu, cậu là cậu cháu, từ
nay về sau những gì của cậu cũng là của cháu, chúc mừng chúc mừng, đa tạ đa tạ.”
“… Phượng Tri Vi cúi lạy.”
Từ phủ Nguỵ Học sĩ đến phủ Thu Đô đốc, chi cách nhau vẻ vẹn mấy chục bước chân.
Phượng Tri Vi lấy bước chân của mình thong thả đo quãng đường kia, bước nhẹ
nhàng tựa mấy gió, tựa như khoảng cách mấy trượng này thực sự có thể đi
một cách dễ dang nhường ấy.
Như thể không bị đuổi ra khỏi phủ,
không có đêm tuyết bơ vơ kia, không nương thân nơi kỹ viện, không bị vu
oan trên phố, không bị truy sát ở Thanh Minh, không nhờ gió cuốn mây vầ, trong vụ án phản nghịch của hoàng triều thuận thế leo lên rồi đứng
vững.
Theo sau nàng là Yên Hoài Thạch và Thuần Vu Mãnh. Yên Hoài
Thạch xem ra còn hăng hái hơn nàng, chuyện giới thiệu lông cừu đã thương lượng xong xuôi với bộ Hộ. Hôm qua hắn gửi một phong thư về Hoàng Hải,
Yên gia lập tức cho vài vị trưởng bối địa vị cao đến kinh, hẳn sẽ hết
lời khen ngợi hắn. Chân mày khoé mắt của Yên công tử, chỉ hận không thể
viết đầy bốn chữ “Đời này viên mãn.”
Gần đây Thuần Vu Mãnh nhận
chức Kỵ tào tham quân ở Sách vệ thuộc Trường Anh vệ. Trong ba vệ “Huân,
Vũ, Sách” của Trường Anh vệ, thì Sách vệ là thân tín nhất, đóng gần
hoàng cung đại nội nhất, có thể ngủ lại trong nội đình. Đáng ra hắn còn
không vào được Sách vệ, nhưng sau cơn loạn lạc, Trường Anh vệ bị thanh
lọc, còn trống rất nhiều ghế. Cha hắn đã được phong làm Chinh Bắc phó
soái, thiếu gia nhà Thuần Vu vớ được một công việc béo bở là chuyện khỏi phải bàn.
Trải qua cơn biến động này, Thuần Vu Mãnh nhờ được
Phượng Tri Vi giữ lại, trì hoãn chuyến đi Trường Anh vệ báo danh mà
thoát khỏi một vụ phiền phức, nên hắn phục Phượng Tri Vi sát đất, cam
nguyện làm tôi tớ tiền hô hậu ủng.
Cố Nam Y đứng ngoài ba thước bên cạnh nàng, tuy không gần, nhưng chỉ cần duỗi tay ra là với tới.
Mấy người vừa dừng lại thì đã nghe một loạt tiếng bước chân dồn dập, cửa
chính của Thu phủ ầm ầm rộng mở, hai đội nô bộc vội vàng chạy ra, đứng
nghiêm trước cửa. Đại quản gia Thu phủ tươi cười chờ sẵn ngoài cửa, khom người rất thấp trước Phượng Tri Vi: “Nguỵ đại nhân, phu nhân nhà tôi có lời mời.”
Phượng Tri Vi liếc xéo hắn, ngày đó nàng bị đuổi ra
khỏi phủ, tuy ngoài miệng phu nhân nói là “ra ngoài tránh tạm”, nhưng
mọi người đồng loạt “quên” thu xếp nơi ăn chốn ở lượng thực lộ phí cho
nàng, đuổi nàng ra khỏi cửa với hai bàn tay trắng. Khi ấy vị đại quản
gia này đang ngồi vắt chân xỉa răng trong phong bảo vệ, phun một sợi
thịt giắt răng qua đêm vào chân nàng.
Mà giờ này hắn đang khom lưng trước mặt nàng, trán suýt đụng mặt đất.
Mỉm cười nhàn nhạt, một bụng căm phẫn trước kia, giờ nàng cũng chẳng thèm
đòi lại từ hạng người này nữa. Phượng Tri Vi chẳng buồn liếc hắn lấy một cái, đi thẳng vào trong, vừa đi vừa nói: “Phu nhân mời ta à? Ngươi hãy mời hai vị công tử này vào sảnh trước dâng trà, để ta tự mình vào hậu
viện. Thu phủ là nhà thế thúc thì cũng coi như là nhà của ta, mọi người
chớ khách khí.”
Quản gia ngớ người, cảm thấy làm vậy không hợp lễ nghĩa, còn toan ngăn cản thì Cố Nam Y đã đi lướt qua người hắn.
Ánh mắt y buông xuống, không nhìn đến bất cứ ai; mà quản gia lại đột ngột
cảm thấy trước mặt mình như dựng lên một bức tường, cuống cuồng lùi lại
vài bước, suýt nữa đã gục ngã trên bức tường chắn trước cửa.
Phượng Tri Vi đầu không ngoảnh lại, đã dẫn Cố Nam Y đi vòng qua bức tường.
Nàng không đi thẳng đến chỗ ở của phu nhân trong hậu viện, lại lựa một khúc
hành lang vắng người, gỡ mặt nạ xuống. Sau tấm mặt nạ, là lớp hoá trang
da vàng mi rủ mà nàng đã dùng bao năm. Từ khi nhìn thấy dung mạo của
Công chú Thiều Ninh, nàng liền biết gương mặt thật của mình vĩnh viễn
không thể để lộ một cách dễ dàng.
Rồi nàng đi thẳng tới tiểu viện nằm ở góc Tây Bắc của Thu phủ.
Vừa đi qua một khúc hành lang uốn lượn, phía trước đã xuất hiện vài người
bưng mấy món như chén trà và điểm tâm, xem ra họ đang đưa điểm tâm từ
nhà bếp lớn lên nhà chính.
Phượng Tri Vi vừa thấy mấy người kia, liền mỉm cười.
Quả nhiên tái ngộ không bằng ngẫu ngộ, mà ngẫu ngộ cũng quá khéo. Mấy người này, chẳng phải chính là mấy bà thím đại náo nhà bếp hôm đó? Đi trước
dẫn đầu, chẳng phải chính là An đại nương thân yêu từng thưởng nàng một
cái tát sao?
Lúc này đám người An đại nương cũng đã nhìn thấy
nàng, ai nấy đều thoáng ngẩn ra, rồi lập tức phải ứng, cười bảo: “Ái
chà, xem ai đến kìa, đây chẳng phải là Phượng đại tiểu thư nhà chúng ta
sao?”
An đại nương vẫn dè dặt, trước tiên còn đảo mắt qua người
Phượng Tri Vi một lượt để quan sát. Phượng Tri Vi mặc một bộ trường bào
bằng tơ tằm dệt gai sợi nhỏ màu lam nhạt, đây là loại vải mùa hè kiểu
mới, mặc vào thông thoáng dễ chịu, toát lên sắc nước nhàn nhạt, do giá
thành rất cao nên bấy giờ mới chỉ được dâng làm cống phẩm. Bộ đồ này của Phượng Tri Vi vừa được Thiên Thịnh đế ban thưởng hai ngày trước, trong
kinh thành còn chưa có nhiều người mặc.
Chính vì quá ít người
mặc, nên dù là ma ma nhà giàu, An đại nương cũng nhìn nhầm, cứ tưởng là
loại vải đay sợi nhỏ bình thường. Bộ y phục này trong con mắt bà ta tuy
không phải dạng rẻ tiền, nhưng cũng chẳng quý giá, trông không giống áo
gấm về làng. Nghĩ vậy, bà ta cũng yên tâm hơn nhiều, bèn tỏ thái độ mập
mờ không rõ: “Xem ra Phượng đại tiểu thư đã phát tài ở đâu đó rồi nhỉ?
Nhìn bộ y phục nam chẳng ra nam nữ chẳng ra nữ này, không phải cô được
vị công tử ở hàng quán nào đó tặng đấy chứ?”
Mấy bà thím đều che
miệng cười, ánh mắt khinh khỉnh. Phượng Tri Vi nghiêng đầu nhìn An đại
nương, mỉm cười hỏi: “Đại nương dạo này có khoẻ không? Trông đại nương
có vẻ càng ngày càng sung sức ấy nhỉ?”
“Đại tiểu thư khỏi cần lân la kết thân với già này làm gì.” An đại nương nhướn mắt, cười nhạt,
“Già này khoẻ lắm, phu nhân đồng ý cho ta về nghỉ ngơi rồi, gần đây còn
thưởng bạc cấp nhà cho ta nữa. Cả đời già này quyết một lòng dốc sức vì
Thu phủ đến chết mới thôi.”
Mấy bà thím vội vàng a dua nịnh nọt
lấy lòng, An đại nương đứng giữa một rừng tâng bốc, liếc qua Phượng Tri
Vi, lại tiếp: “Bây giờ đại tiểu thử hẳn là sống khá khẩm lắm mới quay về thăm phu nhân đúng không? Phu nhân sắp phải đón tiếp khách quý, đợi
khách đi rồi, có muốn già này giúp cô cầu xin phu nhân gặp cô một lần
không? Nhưng đừng đến đây ăn vạ, Thu phủ tuy có quyền có thế, có điều
với hạng thân thích hạ đẳng thì cũng chẳng ứng phó nổi đâu!”
Phượng Tri Vi vẫn mỉm cười, chắp tay đứng giữa hành lang, nhìn chằm chặp An
đại nương với vẻ hứng thú. An đại nuong đang dương dương đắc ý, thì bỗng chạm phải ánh mắt nàng.
Ánh mắt ấy tĩnh mà sâu, chẳng những
không chứa ý cười, mà ngay cả những cảm xúc đáng ra phải có như giận dữ
xấu hổ cũng đều không thấy. Ánh mắt ấy lặng lẽ như vực thẳm, nhìn từ
trên xuống, như thiên thần đứng cuối biển mây nhìn xuống chúng sinh hối
hả ngược xuôi, thấy sao mà nực cười.
Cảm giác này khiến người ta hiểu ra, nàng không giận chỉ vì chuyện này không đáng để nàng giận.
An đại nương giật mình ớn lạnh, bỗng nhớ lại ánh mắt của Phượng Tri Vi khi bị bà ta tát một cái, nhớ lần đó nàng cũng mỉm cười rất đỗi dịu dàng
như thế, rồi đi lướt qua người bà ta, ghé tai nói một câu khiến bà ta
rơi vào ác mộng mấy đêm liền.
Bà ta hơi rụt người lại, nhưng thấy sau lưng Phượng Tri Vi không có tuỳ tùng, nhớ lại sau khi Phượng Tri Vi ra đi cũng không nghe ai kể về tình cảnh của nàng, lá gan lập tức to
lên, cười nhạt: “Đúng là không có phép tắc gì cả, đứng đó ngàng đường
làm gì? Đừng để chúng ta trễ giờ dâng điểm tâm cho khách quý của phu
nhân!”
“Phải rồi, đứng đó ngáng đường làm gì?” Phượng Tri Vi cười khẽ, nghiêng đầu bảo Cố Nam Y vẫn không hề nhúc nhích, “Này, thiếu gia, có người vừa mắng tôi.”
Cố Nam Y nhìn sang với ánh mắt nghi ngờ - xin thứ lỗi cho Cố thiếu gia, y thật sự chưa từng nghe kiểu chửi người
văn vẻ câu nào câu nấy sắc lẻm như dao trong những nhà giàu. Trong nhận
thức của y, phải chỉ tay vào mũi hay động đao kiếm mới là thái độ gây
hấn, mới cần bị xử lý.
Phượng Tri Vi ghé vào tai y, nói: “Bọn họ đã tát tôi một cái…”
Lời còn chưa dứt, Cố thiếu gia đã đột ngột hành động, lướt vèo tới. Đám
người An đại nương chỉ cảm thấy cái bóng màu xanh nhoáng lên trước mắt,
thì đã nghe một tràng bôm bốp liên thanh, rồi trên má đau đớn đến bỏng
rát.
“Rầm!”
Mặt đất ngổn ngang những chén bát ly tách rơi
vỡm rơi xuống cùng lúc còn có bảy cái răng máu me đầm đìa. Bảy người,
bảy cái răng cửa, không thiếu cái nào.
Tiếng kêu la rền rĩ hoà
vào nhau, Phượng Tri Vi chớp chớp mắt ra chiều vô tội, bấy giờ mới nói
nốt nửa câu còn lại, “… mấy tháng trước.”
Cố Nam Y đứng giữa đống mảnh vỡ và máu tươi, y ngại bẩn, bèn bình tĩnh giẫm chân lên người bảy bà thím vừa ngã xuống mà đi…
Thế là An đại nương vừa mới bò lên được một nữa, giơ ngón tay run rẩy định
mắng Phượng Tri Vi, thì mắt đã trợn trừng, tiếp tục bị giẫm ngã xuống…
Thế là có ba bà hầu bị giẫm bẹp ngực…
Phượng Tri Vi cười khẽ bước lại gần, ống tay áo phất phơ bước qua mấy bà hầu
nằm la liệt dưới đất, tiện chân lua nước trà dính trên giày lên mặt An
đại nương, động tác tinh tế ôn nhu, lau cực kỳ cẩn thận, lau hết mặt
phải rồi sang mặt trái, lau mặt giày lại lau đến đế giày, vừa lau vừa
điềm đạm nói: “Thím xem, ngáng đường là không đúng đâu, nằm xuống ngáng
đường lại càng không đúng, chó ngoàn cũng không ngáng đường như thế, còn không mau đứng lên? Khách quý của phu nhân còn đang chờ thím dâng điểm
tâm đó.”
“Ngươi…” An đại nương giận đến xanh cả mắt, nghiêng đầu
hùng hổ cắn mũi giày nàng; tiếc là mũi giày Phượng Tri Vi đều động bông, làm sao cắn nổi. Phượng Tri Vi mỉm cười nhìn bà ta, thừa cơ đá mũi
chân, hàm răng An đại nương cắn “phập” phải đầu lưỡi máu lại tuôn ra xối xả.
Phượng Tri Vi bình thản nói: “Chúc mừng đại nương. Lãi từ cái tát kia, thím đã trả đủ.”
Nàng không hề liếc mắt nhìn bà ta, ống tay áo phất phơ bước qua mấy bà hầu
nằm la liệt dưới đất, bỏ lại đằng xa đám người đang khóc mếu rầm trời.
Lên ngày một cao, đất trời sẽ ngày một xa, mấy bà hầu y như tử thù trong
Thu phủ năm xưa, giờ nhìn lại khác nào con sâu cái kiến. Cuộc đời của
nàng sẽ còn vương cao hơn, đi xa hơn nữa, những kẻ này chẳng qua là một
vệt bụi dĩ vãng, không thể lưu lại dấu vết trong thế giới của nàng.