Lô Lăng huyện, Dự Chương quận là thành phố Cát An, tỉnh Giang Tây ngày nay.
Trong lịch sử, có hai nơi được giới phong thủy mệnh danh là dương trạch lý
tưởng nhất. Một là Khổng Phủ, tọa lạc dưới chân núi Thái Sơn tỉnh Sơn
Đông, nơi còn lại chính là Trương Thiên Sư Phủ, tọa lạc tại Long Hổ Sơn
tỉnh Giang Tây. Long Hổ Sơn ở thành phố Ưng Đàm, tức Nam Xương, cách Lô
Lăng khoảng ba trăm cây số, đây là khoảng cách ngày nay, còn hiện tại
giao thông chưa phát triển, nhiều đoạn đường chưa xuất hiện nên khoảng
cách có lẽ xa hơn một chút. Dạ Dao Quang hạ quyết tâm, nhất định phải
đến Long Hổ Sơn một chuyến, Long Hổ Sơn nổi tiếng nhờ Trương Thiên Sư:
Đan thành nhi long hổ hiện (2). Đây là một mảnh đất phong thủy quý báu
từ xưa đến nay.
Còn ngọn núi nổi tiếng nhất ở Lô Lăng, thời nay
thuộc Thanh Nguyên Sơn, Thanh Nguyên Sơn được nhà thơ Dương Vạn Lý thời
Nam Tống mệnh danh là: “Sơn xuyên đệ nhất Giang Tây cảnh” (3). Dương Vạn Lý là người Giang Tây, phát biểu được câu này, có thể thấy phong cảnh
Thanh Nguyên Sơn đẹp đến mức nào.
Dạ Dao Quang ra khỏi nhà, đi
nửa vòng là có thể lên thẳng núi. Phong cảnh thanh tú, núi non trùng
điệp, cổ thụ rậm rạp, leo đến lưng chừng núi phóng tầm mắt ra xa quang
cảnh lại càng kỳ vĩ hơn, non xanh nước biếc, mỗi cảnh mỗi vẻ thi vị.
Nơi này rất giống Thanh Nguyên Sơn nhưng lại có đôi nét khác biệt, không
biết có phải do trải qua sự biến thiên hơn một ngàn năm lịch sử nên thần thái có giống nhưng diện mạo lại khác. Tuy nhiên, sông núi tự nhiên nơi đây đẹp hơn gấp trăm ngàn lần so với Thanh Nguyên Sơn cô đi vào mấy năm trước.
Trên đường đi, Dạ Dao Quang thấy rau dại nhổ được thì
tiện tay nhổ lên nhưng vẫn tập trung quan sát địa thế hơn, người ta nói: Ba năm tìm rồng, mười năm tìm huyệt. Long mạch từ xưa đã được mệnh danh là cái “nhất” trong trắc họa và phong thủy. Độ khó từ xưa đến nay đều
cực cao, Dạ Dao Quang không vọng tưởng chỉ một ngày là có thể nhìn ra
được gì, huống hồ hiện tại trên tay cô không có bất kỳ công cụ nào, ít
nhất cũng phải có la bàn mới tính tiếp được.
La bàn, theo tài liệu ghi chép, xuất hiện vào thời Tống.
Sớm nhất là ghi chép của Tăng Tam Dị trong “Nhân thoại lục”: Địa loa hoặc
hữu tử ngọ chi chính. “Địa loa” ở đây tức địa la, cũng chính là la bàn,
trong “Mộng khê bút đàm” của Thẩm Khoát thời Bắc Tống cũng có ghi chép.
Không biết triều đại diễn sinh ra này sẽ phát triển đến lúc nào, cũng không
biết có la bàn hay không nhưng dù có hay không, Dạ Dao Quang cũng quyết
định tự tay làm một cái, đầu tiên, phải tìm được một miếng gỗ tự nhiên
loại tốt.
Do đó, dọc đường đi, hầu như cây nào Dạ Dao Quang cũng
đều xem xét kỹ một lượt nhưng tất cả chất liệu đều rất bình thường, nếu
đã làm thì không thể làm qua loa, ngoại vi đều là những loại cây thông
thường, ngay cả cây long não tốt một chút cũng không có.
Nhìn vào rừng sâu, vì sinh mạng nhỏ bé của mình Dạ Dao Quang không vào sâu thêm. Trong rừng sâu dã thú gì cũng có, khả năng hiện tại của cô không đủ để
ứng phó, tạm thời đến đây thôi, nếu thực sự cần la bàn gấp, cũng có thể
đến chợ đồ gỗ mua, do đó nghĩ đi nghĩ lại, thứ hiện tại thiếu thốn nhất
vẫn là tiền!
Đeo trên lưng mớ rau dại vừa nhổ được, Dạ Dao Quang
trở về nhà, hướng đi xuống có thể nhìn rõ cảnh toàn thôn làng, không thể phủ nhận mảnh đất này quả thật là một mảnh đất phong thủy quý báu thiên nhiên, có núi xanh bao quanh, đất trống mênh mông, phía trước nơi ở
cũng có dòng sông chảy ngang. Chỉ cần thay đổi một chút là có thể tạo
thành một trận “ngọc đới hoàn yêu” (4) tuyệt vời, tạo phúc cho toàn bộ
người trong thôn.
Dân số Đỗ Gia thôn so với các thôn khác có phần nhiều hơn, tuy người từ nơi khác đến cũng không ít nhưng hầu như đều
chất phác lương thiện, cũng rất quan tâm chăm sóc cô và Ôn Đình Trạm,
sau này chờ đến khi vị tiểu hôn phu của cô có danh vọng, cô cũng rất sẵn lòng đền ơn bằng cách này cho dân làng, huống hồ đây cũng được xem là
việc công đức.
Đi đến ngã rẽ của ngọn núi, Dạ Dao Quang đột nhiên dừng bước, tiếp tục đi xuống là đường về nhà, quẹo phải sẽ là nơi chôn
cất phu phụ Liễu thị, mặc dù khoảng cách không xa lắm. Dạ Dao Quang
ngẩng đầu lên xem mặt trời, cảm thấy vẫn còn sớm nên chọn con đường bên
phải.
Phần mộ cũng là một loại văn hóa lớn của huyền học, dương
trạch ảnh hưởng cả nhà, âm trạch ảnh hưởng mấy đời, từ đó có thể thấy
được tầm quan trọng của âm trạch.
Phần mộ của phu phụ Liễu thị
trong trí nhớ của Dạ Dao Quang đều có vị trí khá tốt nhưng để tránh bất
trắc Dạ Dao Quang vẫn đích thân đi xem thêm một lần, phát hiện ngoài một số khuyết điểm nhỏ nhặt không quan trọng, dù là vị trí địa lý hay cách
an táng, tổng thể đều khá ổn, cô bèn vui vẻ trở về nhà.
Vì vừa đi xem phần mộ của phu phụ Liễu thị nên Dạ Dao Quang đã đi một con đường
khác, xuống đến chân núi đúng ngay vị trí trung tâm của thôn, vừa vào
đến thôn đã nhìn thấy mọi người liên tục chạy về phía cuối thôn, lúc này đáng lẽ phải là lúc nhà nhà nấu cơm tối mới đúng chứ?
“Đúng là tạo nghiệp mà, ta đã nói người nhà Đỗ Đức đó vừa nhìn đã biết không phải người đứng đắn mà.”
“Thì đó, ngày thường cũng không giao tiếp gì với chúng ta, có chuyện lại một mình đi tìm nam nhân nhà khác.”
“Đỗ Đức vẫn còn nằm trên giường, cả ngày diêm dúa lòe loẹt, có ai không
nhìn thấu tâm tư của ả chứ, ta đã sớm nhắc nhở mẫu thân Đỗ Đại Ngưu phải trông chừng thật kỹ người con dâu này, bà ấy cứ không chịu nghe, bây
giờ thì có chuyện rồi đó!”
Người đi ngang đều đang dị nghị, Dạ
Dao Quang thoáng chốc cũng đã hiểu ra là ý gì, đối với những chuyện này
cô không lấy gì làm tò mò, vốn dĩ trong thôn đã ít trò tiêu khiển, hiếm
khi xảy ra những chuyện này, cũng khó trách mọi người đều chạy về hướng
đó. Hơn nữa đây cũng không phải chuyện thường, mà nó liên quan đến danh
dự của cả Đỗ Gia thôn, mọi người đương nhiên đều phải đến đó, không
chừng lát sau còn phải mở buổi họp từ đường.
“Nha đầu Dao Quang,
ta thấy Trạm ca cũng đến chỗ đó rồi, nha đầu về nhà làm gì? Cùng đến đó
xem thử đi.” - Dạ Dao Quang không muốn đinhưng không ngăn nổi những
người nhiệt tình.
Người kéo cô là một phụ nữ trung niên, trang
phục tuy cũ nhưng sạch sẽ, đầu tóc cũng buộc gọn gàng, vẻ mặt vui vẻ,
không quan tâm Dạ Dao Quang muốn hay không, cứ vậy kéo Dạ Dao Quang đi
về phía cuối thôn. Người phụ nữ này họ Hà, vì người họ Hà gả đến thôn
này cũng có vài người nên mọi người gọi cô là Hà Tam Tẩu, phu quân của
cô xếp thứ ba trong nhà.
Hà Tam Tẩu rất nhiệt tình, thích đi thăm viếng người khác, miệng hay ba hoa nhưng lòng dạ lương thiện.
Dạ Dao Quang nghe tin Ôn Đình Trạm cũng ở đó có chút bất ngờ, cậu ta trông không giống người có tính tò mò. Cô không biết là do Ôn Đình Trạm thấy
cô ra khỏi nhà cũng đã lâu chưa về, lo lắng cô xảy ra chuyện ngoài ý
muốn nên ra ngoài tìm, nhưng đã đi tìm một vòng ngọn núi cô hay đi mà
không gặp cô nên sau đó bèn đến cuối thôn tìm thử, cô nương gia đình Lý
Thiết cuối thôn rất thân với Dạ Dao Quang, vậy nên vừa hay gặp phải sự
việc này.
Khi Dạ Dao Quang và mọi người đến nơi, nhà Đỗ Đức đã bị vây kín, khu vườn rộng rãi cũng không còn chỗ đứng, bên ngoài cũng có
mười mấy người tụ tập, lý chính (5) Đỗ Hậu Lâm cũng đã đến, ngay cả Đỗ
lang trung và một số người lớn tuổi tương đối đức cao vọng trọng trong
thôn cũng đều có mặt.
Dạ Dao Quang không chen được vào, cũng không muốn chen vào, ngược lại lùi về phía ngoài đám đông.
Nghe thấy tiếng khóc thỏ thẻ, cô mới quay đầu về phía chân tường, nhìn thấy
một cô bé khoảng sáu bảy tuổi, toàn thân dính đầy bùn đất đang dựa vào
tường, ôm đầu khóc nức. Mặc dù không thấy rõ mặt, nhưng với dáng người
quen thuộc, Dạ Dao Quang vẫn nhận ra đó chính là trưởng nữ Đỗ Quyên của
Đỗ Đức.
“Đừng khóc nữa, phụ thân muội sẽ không để mẫu thân xảy ra chuyện gì đâu.”
Nếu đã nhìn thấy cũng không thể xem như không nhìn thấy, Dạ Dao Quang đành an ủi một câu.
***
(1) Vỗ chân núi: Chân núi có bọt nước từ con sông bên cạnh bắn vào.
(2) Đan thành nhi long hổ hiện: Luyện đơn thành công, long hổ hiện thân.
(3) Sơn xuyên đệ nhất Giang Tây cảnh: Cảnh sông núi nơi đây (Thanh Nguyên Sơn) đẹp nhất Giang Tây.
(4) Ngọc đới hoàn yêu: Thuật ngữ phong thủy. Chỉ một kiến trúc nào đó được
sông suối hoặc đường xá bao quanh theo vòng tròn, nửa vòng tròn hoặc
hình cánh cung.
(5) Lý chính: Còn gọi là lý quân, lý doãn, lý tể, lý hữu ty... là người đứng đầu một lý thời xuân thu chiến quốc Trung
Quốc, đến thời Minh được gọi là lý trưởng.