Lúc Nam Kinh huyên náo vì việc lập tân đế, lưu tặc và Ngô Tam Quế lại kịch chiến tại Nhất Phiến Thạch ròng rã năm ngày rồi.
Cách đây sáu ngày, Lý Tự Thành suất lĩnh mười vạn lưu tặc tinh nhuệ tiến về Vĩnh Bình, hội hợp cùng hơn vạn tàn binh của Lý Quá, Lý Nham, rồi
chia binh làm hai đường, hai vạn quân do cháu trai Lý Song Hỷ dẫn đầu
đánh nghi binh Sơn Hải Quan, mà bản thân y thì lĩnh gần mười vạn đại
quân tấn công mãnh liệt Nhất Phiến Thạch.
Nhất Phiến Thạch là cửa ải của Trường Thành phía bắc Sơn Hải Quan, dù
sao Lý Tự Thành cũng là lão tặc khấu thân kinh bách chiến, về mặt chiến
thuật cực kỳ già dặn. Chiến thuật của y rất đơn giản, chính là trước
tiên đột phá cửa ải Nhất Phiến Thạch có phòng ngự tương đối yếu kém, sau đó từ Quan Ngoại hình thành thế gọng kìm đối với Sơn Hải Quan. Một
chiêu này không thể nghi ngờ rất là lợi hại, bởi vì lưu tặc có ưu thế
tuyệt đối về binh lực.
Tuy nhiên, Ngô Tam Quế càng không phải là dạng lương thiện, thông qua sự quan sát với lưu tặc trước mặt Sơn Hải Quan, y đoán được chính xác ý đồ của lưu tặc, tập kết trọng binh ở cửa ải Nhất Phiến Thạch, không phân
cao thấp. Ngày hôm sau đại quân lưu tặc đồng thời phát động tấn công với Sơn Hải Quan và Nhất Phiến Thạch, nhưng lại chạm trán với đợt đón đầu
công kích của quân Quan Ninh.
Sau khi kịch chiến năm ngày, hai quân đều tử thương nghiêm trọng. Quân
Quan Ninh tuy có Trường Thành hiểm yếu có thể dựa vào, nhưng đại quân
lưu tặc thì giờ đã khác xưa, mười vạn lưu tặc chẳng những thân kinh bách chiến, mà còn trang bị hoàng mỹ, trong trận hình có kỵ binh, cung tiễn
thủ, trường thương binh, đao thuẫn thủ được bố trí hoàn thiện, thậm chị
còn kéo đến mười mấy khẩu Hồng Di đại pháo từ thành Bắc Kinh đến.
Cánh cổng của cửa ải Nhất Phiến Thạch rất nhanh đã bị oanh kích nát vụn, đại quân lưu tặc ùa lên, hai quân bắt đầu chém giết nhau ở cổng thành.
Trong năm ngày, trong ngoài cổng thành đã chất đống gần vạn thi thể, thi thể của tướng sỹ hai quân hầu như đã lấp đầy cửa ải, xác chết mục rữa
phát ra mùi hôi thối đến nỗi cách đó ngàn bước cũng khiến người ta buồn
nôn.
- Ầm ầm ầm…
Ngay sau mười mấy tiếng pháo nổ, là một trận rung chuyển kịch liệt của
núi Địa Hồn, thi thể chất đống ở cổng thành thoáng chốc đã bị đạn sắt
của Hồng Di đại pháo bắn cho thịt bay tứ tung, tường thành đơn giản do
quân Quan Ninh suốt đêm bồi đắp lên cũng bị nổ tung thành một đống hoang tàn. Hơn mấy chục tướng sỹ quân Quan Ninh đứng dười tường thành trong
tức khắc bị chôn sống dưới đống gạch đá.
Trong tiếng hò hét đinh tai nhức óc, đại quân lưu tặc chen chúc nhau
xông lên, phát động một đợt tiến công mãnh liệt về phía cửa ải Nhất
Phiến Thạch!
Trên lỗ châu mai của cửa ải Nhất Phiến Thạch, Ngô Tam Quế trợn trừng con mắt đỏ rực, hung tợn nhìn chằmc hằm vào đám lưu tặc đang mãnh liệt xông đến như thủy triều, hai hàm răng cắn chặt, y đã không ngủ ngon liên tục sáu ngày trời rồi, từ lúc lưu tặc đánh đến Nhất Phiến Thạch, y đã không có lấy một giấc ngủ ngon!
Nhưng, Ngô Tam Quế không cảm thấy khổ, mà ngược lại y còn cảm thấy một sự phấn khởi biến thái!
Sự dũng mãnh của lưu tặc nằm ngoài dự đoán của Ngô Tam Quế rất xa. Năm
ba năm trước đây, đám lưu tặc này chẳng quả chỉ là đám ô hợp không chịu
nổi một kích, khi đó, tùy tiện đưa đội quan quân Đại Minh nào đó cũng có thể đánh cho bọn chúng hoa rơi nước chảy, mà quân Quan Ninh là đội quân có sức chiến đấu mạnh nhất trong quan quân của Đại Minh triều nắm giữ,
khi lưu tặc có là gì chứ?
Nhưng mà, mới trôi qua mấy năm, sức chiến đấu của lưu tặc liền có sự
nhảy vọt về chất! Trong trận ác đấu ở cổng thành Nhất Phiến Thạch, quân
Quan Ninh tinh nhuệ nhất của Đại Minh triều không ngờ lại chịu thiệt
lớn! Sau năm ngày kịch chiến, lưu tặc chẳng qua chỉ tử trận hơn bốn ngàn người, mà quân Quan Ninh lại tử trận khoảng chừng hơn tám ngàn!
Quân Quan Ninh dựa vào Trường Thành hiểm yếu, tỷ lệ tử trận lại gấp đối
lưu tặc, Ngô Tam Quế vịn tay vào lỗ châu mai, thầm thở dài trong lòng.
Nếu có thể mang mười khẩu Hồng Di đại pháo trên Sơn Hải Quan đến Nhất
Phiến Thạch thì tốt quá, nếu có mười khẩu Hồng Di pháo này, đám lưu tặc
còn dám xông lên không chút kiêng dèn nào hay không?
- Lưu tặc đến rồi!
- Các huynh đệ, hãy giữ vững tinh thần nào!
- Chết tiệt, động tác nhanh lên một chút, vác đống đá tảng kia lên đầu thành đi!
- Nói ngươi đấy, đừng có nằm trên mặt đất giả con mẹ nó chết, cẩn thận lão tử đạp vào trứng của người!
Trên tường thành cửa ải lại phát ra tiếng ồn ào, dân phu bị Ngô Tam Quế
điều động lên hiệp trợ thủ thành bắt đầu khẩn trưởng vận chuyển cây lăn
đá tảng lên tường thành cửa ải. Những cung tiễn thủ của quan Quan Ninh
vẫn nấp trong động Tàng Binh không ra, trường thương binh và đao thuẫn
thủ thì bình tĩnh ngồi dựa vào phía sau lỗ châu mai, tận lực dán chặt cơ thể vào lỗ châu mai.
Mấy tên gia đinh vây quanh, dùng cơ thể chắn trước mặt Ngô Tam Quế, đều giơ thuẫn lớn trong tay lên.
Trước khi đám gia đinh giơ thuẫn, Ngô Tam Quế thấy từ đường chân trời
đằng xa đã xuất hiện một đàn “châu chấu”, đang gào thét tiến về phía cửa ải. Đương nhiên đó không phải là “châu chấu” gì, mà đó chính là mưa tên của cung tiễn thủ lưu tặc! Ngô Tam Quế không thể nào ngờ được, lưu tặc
đáng chết lại có nhiều cung tiễn thủ như vậy.
Kịch chiến năm ngày nay, chính là do những cung tiễn lưu tặc này khiến
cho quân Quan Ninh đau đầu, hơn tám ngàn người tử trận quá nửa chính là
chết dưới làn mưa tên của lưu tặc.
- Ya ya…
- A……
Trong tiếng thét như che trời phủ đất, mấy ngàn lưu tặc chạy đến như dã
thú điên cuồng ngửi được mùi máu tươi, mấy trăm quân lưu tặc tinh nhuệ
thân mặc trọng giáp trực tiếp xông đến cổng thành, cùng mấy trăm quân
Quan Ninh tinh nhuệ đã thủ sẵn ở đây hung hãn va vào nhau, người va chạm nhau thành tiếng, tiếng người bị lưỡi đao sắc bén đâm xuyên qua áo giáp kêu thảm, còn có tiếng gào thét thoáng chốc vang vọng trong ngoài cổng
thành.
Cổng thành chật hẹp đã trở thành cỗ máy xay thịt tanh tưởi nhất!
Ở đây, lưu tặc và quân Quan Ninh căn bản không cần nghĩ nhiều, cũng
không thể nghĩ nhiều, bọn họ chỉ kịp làm một động tác, đó chính là đâm
cương đao và trường mâu trong tay về phía đối thủ. Sau khi làm xong động tác này, mặc kệ ngươi mạnh bao nhiêu, cũng rất khó có cơ hội sống sót.
Đây hoàn toàn là đấu pháp lấy mạng đổi mạng, so sánh tinh thần và ý chí
hai quân, xem ai không sợ chết! Nếu có một bên chịu không nổi kiểu giết
chóc không có cơ hội sống sót này mà bị suy sụp tinh thần, vậy thì
khoảng cách đến lúc tan tác đã không còn xa. Tuy nhiên đến lúc này, quân lưu tặc và quân Quan Ninh vẫn chưa sụp đổ.
Ngoại trừ phát động tấn công mãnh liệt về phía cổng thành, lưu tặc còn
dùng mấy trăm cái thang đơn giản bắt đầu tấn công lên tường thành của
Trường Thành. Cùng với lúc lưu tặc tiến công, mưa tên của cung tiễn thủ
không chút ngơi nghỉ, vẫn từng đợt nối tiếp từng đợt bắn lên tường thành quan ải. Quân Quan Ninh trên tường thành quan ải vừa mới ló đầu ra, đã
bị bắn thành con nhím.
Nhưng cho dù là bị bắn thành con nhím, quân Quan Ninh cũng không dám
chạy xuống dưới tường thành. Thang cũng đã bắc lên, nếu như bọn họ không ló mặt ra phản kích, để cho lưu tặc giết lên tường thành, vậy thì cuộc
chiến này cũng không cần đánh nữa, một khi Nhất Phiến Thạch thất thủ,
Sơn Hải Quan nhất định cũng thủ không được.
Từ lúc vừa bắt đầu, cuộc chiến đã trở nên gay cấn, tên thảo khấu Lý Tự Thành này tự có suy nghĩ kiểu thảo khấu.
Lưu tặc có thể là đã quen sống những ngày thân sơ thất sở, cho nên một
khi có được cung tiễn thủ mạnh mẽ mà còn tinh nhuệ, liền sử dụng một
cách phấn khởi, một chút cũng không có tiết kiệm. Sự coi thường của lưu
tặc đối vơi sinh mạng cũng khiến người ta tức lộn ruột, có mấy chỗ tường thành lưu tặc đã leo lên đầu thành rồi, nhưng mưa tên của cung tiễn thủ lưu tặc vẫn đang bao trùm khắp nơi!
Không ít lưu tặc ngã xuống dưới làn tên của người mình, nhưng quân Quan Ninh ngã xuống lại càng nhiều hơn.
Mắt thấy quân Quan Ninh ngã xuống từng đoàn từng đoàn, Ngô Tam Quế vừa
buồn vừa giận, đấm một quyền thật mạnh vào mỏm đá trên tường thành. Đấu
pháp kiểu này của lưu tặc trong mắt y hoàn toàn loạn xạ, không có một
chút kết cấu.
Giả như do Ngô Tam Quế chỉ huy đại quân lưu tặc tiến công, y sẽ cho cung tiễn thủ và bộ binh luân phiên tiến công, như vậy hiệu quả sát thương
sẽ cao hơn, thương vong của bên ta cũng sẽ càng nhỏ hơn, đồng thời lại
chia đại quân thành mấy tốp, mỗi đợt tiến công chỉ đưa vào một tốp,
trong đó có đánh nghi binh, có cường công. Đánh nghi binh có thể làm lơ
là ý chí của quân phòng thủ, cường công thì có thể giết cho quân phòng
thủ trở tay không kịp, công kích như thế hiệu quả mới tốt hơn được.
Nhưng quân giặc thì hoàn toàn không dùng bộ đấu pháp này, đám tặc khấu
này vừa lên thì đã tấn công mãnh liệt không ngừng, muốn dốc một hơi đánh chết quân Quan Ninh, cũng không có chút thương hại đối với tướng sỹ
dưới trướng. Nhưng chính là đấu pháp không có kết cấu này, đã khiến cho
quân Quan Ninh của Ngô Tam Quế đánh đến hao binh tổn tướng, tử thương
thảm trọng.
- Ôi.
Ngô Tam Quế thở thật dài một hơi, quay đầu lại nhìn về phía Liêu Đông,
thầm nghĩ nếu như Kiến Nô còn không đến, y và quân Quan Ninh thật sự
phải giải thích về việc xảy ra ở cửa ải Nhất Phiến Thạch.
…
Đại quân tiên phong sáu vạn Kiến Nô do đích thân Đa Nhĩ Cổn suất lĩnh đã đến dịch trạm Sa Hà, các Sơn Hải Quan và Nhất Phiến Thạch không đầy
trăm dặm. Tuy nhiên, Đa Nhĩ Cổn vẫn mang một suy nghĩ, Đa Nhĩ Cổn chưa
hoàn toàn tin vào lời của Ngô Tam Quế, y không thể không đề phòng. Vạn
nhất nếu như Ngô Tam Quế và lưu tặc thông đồng diễn một vở tuồng, thì Đa Nhĩ Cổn y không chỉ điều vẻn vẹn có sáu vạn quân tinh nhuệ, mà còn có
tiền đồ và vận mệnh của nước Đại Thanh.
Cho nên, đại quân tiến vào dịch trạm Sa Hà liền dừng lại, Đa Nhĩ Cổn
quyết định đợi sau khi đại quân phía sau đuổi kịp thì sẽ tiếp tục hành
quân, đồng thời phái ra số lượng lớn thám mã thăm dò phía Sơn Hải Quan,
xem thử rốt cuộc ở đó có xảy ra kịch chiến hay không?
Thám mã được phái đi đã trở về vào buổi tối hôm ấy, báo rằng phía Sơn
Hải Quan và Nhất Phiến Thạch đều có tiếng chém giết, đặc biệt là cửa ải
Nhất Phiến Thạch lại càng là chém giết vang trời. Có một thám mã còn
liều lĩnh leo lên một ngọn núi nhỏ gần đó, phát hiện bên trong cửa ải có hai đội quân đang kịch chiến, tử thương la liệt, không giống như là
đang diễn trò.
Nhận được tin tức, Đa Nhĩ Cổn phấn chấn không ngừng, xem ra Ngô Tam Quế
thật sự đã phản bội lưu tặc rồi, việc này đối với nước Đại Thanh mà nói
không thể nghi ngờ chính là tin tức vô cùng tốt.
(Xin nói rõ: Lúc Hoàng Thái Cực tại vị đã đăng cơ xưng đế, cũng đã sửa
quốc hiệu thành “Thanh”, cho nên Kiến Nô tự xưng là Đại Thanh.)
Điều càng khiến cho Đa Nhĩ Cổn mừng rỡ, chính là vào buổi tối hôm ấy Ngô Tam Quế lại chỉ mang theo mười mấy thân binh chạy đến dịch trạm Sa Hà,
trình “Quốc thư” lên cho Đa Nhĩ Cổn, dùng danh nghĩa của quan phủ Đại
Minh chính thức thỉnh quân Thanh vào diệt giặc. Đương nhiên là Đa Nhĩ
Cổn biết “Quốc thư” này là do Ngô Tam Quế ngụy tạo, Sùng Trinh cũng đã
chết, thì lấy đâu ra Quốc thư Đại Minh?
Tuy nhiên, Quốc thư là thật hay giả cũng không cần lo lắng, điều quan
trọng hơn là cuối cùng quân Thanh có lý do để tiến vào quan ải. Có lời
thỉnh cầu của Ngô Tam Quế, quân Thành vào quan đã trở thành tiêu diệt
lưu tặc, mang tiếng là “Đội quân nhân nghĩa” báo thù cho Sùng Trinh Đế,
mà không còn như mấy lần tiến vào quan ải lần trước, là đội quân man di
bắt người cướp của.
Một khi có cái mũ là “Đội quân nhân nghĩa” này, sự phản kháng sau khi
quân Thanh vào quan sẽ giảm thiểu đi nhiều, bình định Trung Nguyên cũng
không còn là mộng tưởng xa vời nữa. Nhờ hai tên Hán gian trụ cột Phạm
Văn Trình và Ninh Hoàn Ngã, cùng với Hồng Thừa Trù đến sau, Đa Nhĩ Cổn
cũng tương đối hiểu được văn hóa Hán.
Theo cách nhìn của Đa Nhĩ Cổn, văn hóa Hán là một văn hóa bệnh hoạn, bọn họ quá mức coi trọng những cái hình thức màu mè gọi là “Tam cương ngũ
thường, lễ nghi liêm sỷ”. Về mặt này, biểu hiện nhất quán của người Hán
chính là tính toán chi li, một bước cũng không nhường, còn đối với một
chút lợi ích trên thực tế thì lại thường tỏ vẻ rất khẳng khái.
Nói cách khác, những tên quan hủ bại của Minh triều đã cãi nhau ầm ĩ rất nhiều năm về việc rốt cuộc là Đại Thanh sẽ trở thành thuộc quốc của Đại Minh hay là cùng vai cùng vế với Đại Minh. Bọn họ muốn tranh giành cái
quyền làm chủ, vì thế không tiếc tấn công Khẩu Thủy Trượng mười mấy hai
mươi năm, nhưng quay đầu lại, quân Đại Thanh vào quan vừa cướp bóc lượng lớn tài sản cùng vừa bắt bớ mấy chục vạn bách tính Đại Minh, bọn họ lại có thể trơ mắt ra mà nhìn, coi như không có gì.
Đa Nhĩ Cổn thầm xem thường cái thứ văn hóa Hán bệnh hoạn này.
Trong con mắt của Đa Nhĩ Cổn, bất kể là dân tộc nào, văn hóa nào, đều
phải giống sói, ai mạnh thì người đó là vua, đường đường một Đại Minh
triều, đến quốc gia mình, con dân của dân tộc mình cũng không bảo vệ
được, còn tranh giành danh phận đại quốc cái rắm gì nữa chứ? Cho dù là
giành được danh phận đại quốc, không có vũ lực mạnh mẽ làm hậu thuẫn,
người ta muốn xâm lược thì xâm lược, thì có tác dụng quái gì?
Tuy nhiên, Đa Nhĩ Cổn cũng hiểu rõ, Đại Minh là một đế quốc rộng lớn,
rộng lớn hơn nhiều so với trí tưởng tượng của y, dân tộc Hán cũng là dân tộc lớn, số lượng người Hán ước tính gấp một ngàn lần người Mãn. Nếu
Đại Thanh muốn nhập chủ Trung Nguyên, thì chỉ có lợi dụng văn hóa Hán
bệnh hoạn để tăng cường khống chế đối với người Hán, cho nên, lời thỉnh
cầu của Ngô Tam Quế đối với quân Thanh mới quan trọng đến bực đó!
Bởi vì thứ mà Ngô Tam Quế đại biểu chính là lập trường của cố Minh, có
lời mời từ “Quan phủ” của Ngô Tam Quế, trong lòng những sỹ lâm còn sót
lại của Đại Minh sẽ không bài xích quân Thanh nữa, vì theo bọn họ thấy,
giờ đây quân Thanh không còn là kẻ xâm lược, mà là đội quân nhân nghĩa
giúp Đại Minh giải quyết quốc nạn. Đây chính là cơ sở để Mãn Thanh thống trị Trung Nguyên.
Trong cửa ải Nhất Phiến Thạch, đại doanh lưu tặc.
Lý Tự Thành đang triệu tập các quan văn, võ tướng dưới trướng như Lý
Hữu, Lý Thông, Lưu Tông Mẫn, Mã Duy Hưng, Hạ Trân, Tiêu Văn Lâm, Tống
Hiến Sách, Cố Quân Ân, Điền Kiến Tú, Lý Quá, Lý Nham đến nghị sự. Ngô
Tam Quế vừa phái người mang chiến thư đến, tuyên bố ngày mai quân Quan
Ninh sẽ bày trận ở ngoài phía đông cửa ải Nhất Phiến Thạch, quyết chiến
cùng nghĩa quân.
Đôi mắt sáng quắc của Lý Tự Thành liếc nhìn đám quan văn võ tướng trong trướng, trầm giọng hỏi:
- Các ngươi thấy thế nào?
- Là chuyện tốt.
Lưu Tông Mẫn lớn tiếng nói:
- Thằng cháu chắt Ngô Tam Quế này không chống cự nổi, muốn được thoải mái.
Chúng tướng còn lại đều gật đầu, tỏ vẻ đồng ý với cách nhìn của Lưu Tông Mẫn, chỉ có bộ tướng Lý Nham đưa ra ý kiến bất đồng:
- Bẩm Đại Vương, Ngô Tam Quế đột nhiên đưa ra chủ ý cùng quân ta lui ra mười dặm quyết chiến, trong đó ắt có trá!
- Có trá?
Lý Tự Thành trầm giọng hỏi:
- Ngươi nói xem, Ngô Tam Quế có thể chơi hoa chiêu gì?
- Đúng vậy, Ngô Tam Quế có thể có hoa chiêu gì chứ?
Lưu Tông Mẫn phụ họa thêm:
- Đến Nhất Phiến Thạch y còn không giữ được, còn có thể có hoa chiêu gì
hả? Mai phục? Dụ địch? Vậy phải xem y có thực lực này không mới được.
Chỉ bằng hai ba vạn tàn binh bại tốt của y, còn có thể dùng hoa chiêu
sao?
- Bẩm Đại Vương.
Lý Nham không để ý đến Lưu Tông Mẫn, nói với Lý Tự Thành:
- Đừng quên rằng Quan Ngoại còn có Kiến Nô!
- Kiến Nô?
Lưu Tông Mẫn cười lạnh một khinh thường, nói:
- Một đám man di, có thể có bao nhiêu người, lại có thể có bao nhiêu sức chiến đấu?
- Đai Vương ngàn vạn lần đừng xem thường Kiến Nô.
Lý Nham nói:
- Mạt tướng lúc ở Đại Đồng từng giao thủ với Kiến Nô một lần, hơn năm
vạn đại quân, không đến nửa canh giờ đã bị không đến một vạn kỵ binh
Kiến Nô đánh cho tán loạn, lúc ấy nếu không phải Tổng binh Đại Đồng
Vương Phác xuất binh tương trợ, nghĩa quân Thiểm Tây hẳn đã toàn quân bị diệt rồi!
- Vậy thì sao?
Lưu Tông Mẫn nói:
- Sau đó ở Đại Đồng, chẳng phải cũng bị năm ngàn người của Vương Phác
thu thập hơn năm vạn người y như vậy sao? Lại nói nghĩa quân Thiểm Tây
của ngươi lúc đó là quân đội gì chứ, phải gọi là đám ô hợp! Quân đội của Đại Vương ngày nay là quân đội như thế nào, đó gọi là đội quân tinh
nhuệ, có thể đánh đồng sao?
Lý Nham nói:
- Nói tóm lại, mạt tướng cho rằng Đại Vương nên cẩn thận nhiều hơn, Kiến Nô không giỏi đánh công kiên, nhưng dã chiến thì cực kỳ lợi hại.
- Phó quân sư.
Lý Tự Thành nhìn về phía Tống Hiến Sách, hỏi:
- Ý của ngươi thế nào, tên cháu nội Ngô Tam Quế này có thể đầu hàng Kiến Nô không?
- Khó mà nói.
Tống Hiến Sách nói:
- Nếu như Ngô Tam Quế thật sự dám đầu hàng Kiến Nô, vậy thì y sẽ phải
mang tiếng xấu muôn đời. Nhưng nếu y không đầu hàng Kiến Nô, thì chắc
chắn y sẽ chết không thể nghi ngờ, y quý trọng sinh mạng của mình hơn
hay là quý trọng thanh danh của mình hơn, thật sự là vẫn không thể kết
luận được.
Bỗng nhiên, mạc liêu tâm phúc Cô Quân Ân bước ra khỏi hàng nói:
- Bẩm Đại Vương, thuộc hạ cho rằng Ngô Tam Quế tuyệt không có khả năng sẽ cấu kết với Kiến Nô.
- Hả?
Lý Tự Thành nói:
- Nói rõ lý do của ngươi đi.
Cố Quân Ân nói:
- Quân Đại Thuận ta vào Kinh mới được hơn một tháng, còn Ngô Tam Quế
phản bội lại không đến mười ngày, quãng thời gian ngắn như thế, Ngô Tam
Quế sao có thể cấu kết với Kiến Nô chứ? Trước đó, Ngô Tam Quế và Kiến Nô vẫn còn là quan hệ đối địch, cho dù Ngô Tam Quế có lòng hàng giặc, Kiến Nô còn không dám tin nữa là.
Phân tích của Cố Quân Ân có một đạo lý nhất định của nó, chiếu theo lý
thì đích xác là như vậy. Cho dù là Ngô Tam Quế có lòng hàng giặc, trước
tiên phái người tiếp xúc với Kiến Nô, sau đó Kiến Nô lại phái người hồi
âm, trước xác lập lòng tin chính trị lẫn nhau, sau lại đến xác lập quan
hệ hợp tác, việc này cần một khoảng thời gian, tuyệt không thể bắt tay
nhau trong thời gian ngắn được.
Nhưng đây chỉ là lý lẽ bình thường, thế gian có nhiều việc không thể
chiếu thể lẽ thường mà làm, nhất là những người có sự quyết đoán và có
thủ đoạn, mọi chuyện bọn họ làm đều không thể nghĩ theo lẽ thường được!
Nhưng điều hiển nhiên là Lý Tự Thành đã bị Cố Quân Ân và Lưu Tông Mẫn
thuyết phục, hoặc giả nói là quá mức tự tin đối với mười vạn quân lưu
tặc tinh nhuệ dưới trướng của mình rồi. Y dựa vào hơn nửa đời người cực
khổ, sau đó một đêm trở thành người sống trong phú quý, cho rằng tiền
kia ở trong tay có thể làm tất cả mọi chuyện trên thế gian, Lý Tự Thành
thật sự vẫn chưa để Kiến Nô ở Quan Ngoại vào trong mắt.
Ngày hôm sau, quân Quan Ninh quả nhiên đã lui về phía sau mười dặm bày trận.
Ngô Tam Quế đã chia quân Quan Ninh còn không đầy bốn vạn thành mười mấy
phương trận hình chữ nhật, chạy dọc theo Trường Thanh tạo thành nhất tự
trường xà trận, ở giữa trường xà trận là phương trận hỗn hợp do trường
thương binh và đao thuẫn thủ tạo thành, ba hàng phía trước là trường
thương binh, phía sau là đao thuẫn thủ, hai cánh phương trận còn lại là
thiết kỵ Quan Ninh.
Tin rằng quân Quan Ninh đã rút toàn bộ ra khỏi cửa ải, đại quân lưu tặc bắt đầu đi xuyên qua Trường Thành.
Mượn cổng thành quan ải và mấy trăm chiếc thanh, sau không đến hai canh
giờ, sáu vạn bộ binh lưu tặc toàn bộ đều đã vượt qua khỏi Trường Thành.
Đến đúng ngọ, gần hai vạn kỵ binh lưu tặc cũng vượt qua cửa ải. Gần tám
vạn kỵ bộ lưu tặc triển khai trường xà trận không lồ dọc theo Trường
Thành. Hai cánh cũng là kỵ binh, ở giữa cũng là trường thương binh và
đao thuẫn thủ, tuy nhiên hậu trận của lưu tặc còn có hai vạn cung tiễn
thủ!
Sau ba hồi trống, Lý Tự Thành ngồi trên lưng ngựa đứng trước trận rút
đao trên hông chỉ về phía trước, gần tám vạn đại quân kỵ binh lập tức
cuốn về phía quân Quan Ninh như hồng thủy xô vỡ đê. Tên thảo khẩu Lý Tự
Thành này đã đưa chiến thuật “Không có kết cấu gì” độc đáo do y sáng tạo ra đến một mức độ nhuần nhuyễn.
Theo lý thuyết, chiến thuật hiệu quả nhất để phá giải nhất tự trường xà
trận của quân Quan Ninh phải là hai cánh kiềm chế rồi tập kết binh lực
ưu thế đột phá ở giữa, hoặc là dùng binh lực ưu thế đánh tan một cánh
của quân địch trước. Nhưng Lý Tự Thành không biết những chiến thuật kinh điển này, cứ bất chấp tất cả mà tấn công mãnh liệt.
Đây cũng là tác phong nhất quán của lưu tặc, đánh thắng thì sẽ đánh cho
người không còn manh giáp, đánh cho tè ra quần, đành không thắng thì lão tử chạy.
Tuy nhiên, từ sự phong phú về kinh nghiệm chiến đấu của lưu tặc, cùng
với lượng lớn tân binh trở thành lão binh, thêm vào sự cải tiến của
trang bị, đã rất ít có quân đội nào có thể đứng vững trước đợt tấn công
mãnh liệt của lưu tặc.
Luận về tố chất của từng binh sỹ, lưu tặc của Lý Tự Thành và quân Quan
Ninh của Ngô Tam Quế có thể nói là một chín một mười, Kiến Nô ở Quan
Ngoại có lẽ sẽ mạnh hơn một chút, nhưng ưu thế này không rõ ràng. Sức
chiến đấu của ba đội quân này trên cơ bản nằm ở cùng một trình độ, nhưng về mặt tran bị, quân Quan Ninh lại kém nhất.
Thêm vào ưu thế binh lực đông gấp đối, trận kịch chiến không đến nửa
canh giờ, quân Quan Ninh đã ắt đầu cảm thấy ăn không tiêu. Tuy rằng
trường xà trận phòng ngự chính diện dài, thêm vào đánh vu hồi, nhưng do
trận hình kéo quá dài, binh lực của mỗi phương trận ít ỏi, nên dưới đợt
tấn công mãnh liệt của lưu tặc đã đứng bên bờ sụp đổ.
Quân Quan Ninh đã tiến đến bờ vực sụp đổ, Kiến Nô thì lại vẫn chưa có
bất cứ động tĩnh gì, Ngô Tam Quế vừa nôn nóng vừa giận dữ, trong bụng đã đem mười tám đời tổ tông của Đa Nhĩ Cổn thăm hỏi mấy lần. Đương nhiên
là y biết Đa Nhĩ Cổn có chủ ý gì, Đa Nhĩ Cổn định để cho quân Quan Ninh
tiêu hao hết nhuệ khí của lưu tặc, rồi mới ngồi làm ngư ông đắc lợi!
Trên thực tế, sáu vạn đại quân Kiến Nô do Đa Nhĩ Cổn suất lĩnh sớm đã
lặng lẽ di chuyển ra phía sau triền núi ở phía bên trái của quân Quan
Ninh.
Mắt thấy quân Quan Ninh của Ngô Tam Quế sắp chống cự không nổi, Đa Nhĩ
Cổn liền ra lệnh một tiếng. Năm ngàn thiết kỵ gồm Chính Hồng Kỳ, Chính
Lam Kỳ làm tiên phong, hai vạn Bát Kỳ Triều Tiên và hai vạn Bát Kỳ Hán
Quân là chủ lực, bắt đầu tiến công quân đoàn kỵ binh của cánh hữu lưu
tặc. Đa Nhĩ Cổn ít nhiều gì cũng có chút coi thường lưu tặc, nhận thức
của y đối với lưu tặc vẫn còn dừng lại ở đám ô hợp ở ngoài thành Đại
Đồng.
Theo tính toán của Đa Nhĩ Cổn, trước tiên dùng năm vạn thiết kỵ Chính
Hồng, Chính Lam Lưỡng Kỳ xông vào quân đoàn kỵ binh cánh hữu của lưu
tặc, sau đó dùng bốn vạn Bát Kỳ Triều Tiên và Bát Kỳ Hán Quân đánh vu
hồi vào sườn của trung quân lưu tặc, hiệp đồng với quân Quan Ninh bắt
đầu phản kích, một kích đánh bại lưu tặc. Có như thế, Đa Nhĩ Cổn liền có thể dùng cái giả nhỏ nhất để đổi lấy thắng lợi lớn nhất.
Kỵ binh cánh hữu của lưu tặc khoảng tám ngàn kỵ, chủ tướng lãnh quân là Lý Quá và Lý Nham.
Tuy rằng đã cùng thiết kỵ Quan Ninh hỗn chiến nửa canh giờ, nhưng kỵ
binh chủ lực của lưu tặc vẫn còn, nhuệ khí chưa mất. Năm ngàn kỵ binh
của Chính Hồng Kỳ và Chính Lam Kỳ đột nhiên xông ra, trên mặt chiến
thuật tương đối có tính bất ngờ, nhưng điều khiến Đa Nhĩ Cổn thất vọng
là kỵ binh lưu tặc ở đối diện lại không dễ dàng sụp đổ!
Trên thực tế, kỵ binh nổi sát tính đã khiến cho lòng tin tăng vọt, chẳng những không dễ dàng sụp đổ, trái lại còn đánh cho năm ngàn kỵ binh
Chính Hồng, Chính Lam Lưỡng Kỳ chỉ có thể chống đỡ, vô lực hoàn thủ! Bốn vạn Bát Kỳ Triều Tiên và Bát Kỳ Hán Quân kế tiếp do kỵ binh chặn trước
trận nên không thể tiến công, lại vì hai quân cùng ở một chỗ nên không
cách nào dùng cung tiễn chi viện, đành phải bày trận rồi giương mắt
nhìn.
Lúc này Đa Nhĩ Cổn mới chấn động, khẩn trương điều chỉnh bố trí, hạ lệnh cho Bát Kỳ Triều Tiên và Bát Kỳ Hán Quan6 chi viện cho trung quân của
quân Quan Ninh. Sau đó xuất ra hết hai vạn thiết kỵ của năm kỳ còn lại
là Chính Bạch, Tương Bạch, Chính Hoàng, Tương Hoàng, Tương Hồng, bất đầu tấn công với thế như Thái Sơn áp đỉnh!
Ngoài ra, Đa Nhĩ Cổn còn lệnh cho kỵ binh Mông Cổ quấy rầy cánh tả của
quân đoàn lưu tặc, khiến cho đầu đuôi không có thể liên hệ nhau.
Lý Quá, Lý Nham mắt thấy tình thế không ổn, khẩn trương cầu viện Lý Tự
Thành, Lý Tự Thành đưa cung tiễn thủ đi chi viện, đáng tiếc chiến tuyến
kéo quá dài, cung tiễn thủ hành động chậm chạp. Đợi lúc một vạn cung
tiễn thủ lưu tặc chạy đến, quân đoàn kỵ binh cánh hữu của lưu tặc đã tan tác. Một vạn cung tiễn thủ mất đi sự bảo hộ rất nhanh đã bị thiết kỵ
Kiến Nô tàn sát hầu như không còn.
Quân đoàn kỵ binh cánh hữu tan tác, quân đoàn kỵ binh cánh tả thì lại bị kỵ binh Mông Cổ cuốn lấy không cách nào phối hợp tác chiến, bộ binh lưu tặc ở trung tuyến lập tức lâm vào thế tiền hậu giáp kích của quân Quan
Ninh và Kỳ Binh Kiến Nô, sau gần nửa canh giờ miễn cưỡng chống cự, cuối
cùng đã không chịu nổi mà tan tác. Đến đây đã lộ ra sự thâm độc khi Ngô
Tam Quế lui ra phía sau mười dặm quyết chiến với lưu tặc, bởi vì quân
Quan Ninh chủ động lui mười dặm, chiến trường quyết chiến ở bên ngoài
Trường Thành, một khi lưu tặc an tác, cổng thành quan ải chật hẹp liền
trở thành tuyệt lộ của bại binh lưu tặc!
Cuối cùng, Lý Tự Thành chỉ dẫn hơn tám mươi kỵ và hơn hai ngàn tàn binh
bại tướng trốn thoát qua cửa ải, đám lưu tặc còn lại hoặc là bị giết,
hoặc là bị bắt, hoặc là chạy đến rơi xuống biển, hoặc là trốn trong núi
rừng sâu thẳm là dã nhân rồi.
Sau khi Lý Tự Thành hội hợp cùng hơn vạn tặc binh của Lý Song Hỷ, không
đợi thở ra một ngụm, dưới sự bức bách của đại quân Kiến Nô và Đa Nhĩ
Cổn, Ngô Tam Quế liền dẫn hơn hai vạn tàn quân Quan Ninh và hai vạn Bát
Kỳ Hán Quân đuổi theo sau đuôi. Dưới cơn giận dữ Lý Tự Thành lại triển
khai tư thế quyết chiến cùng Ngô Tam Quế.
Ngay sau khi Lý Tự Thành sắp thắng lợi, đại quân Kiến Nô của Đa Nhĩ Cổn lại đánh tới, lưu tặc lại bại.
Sau khi bị đánh bại, Lý Tự Thành không tiếp tục tham chiến nữa, giao gần vạn tặc binh cho Lý Nham, ở lại đoạn hậu, bản thân thì dẫn theo Lưu
Tông Mẫn, Tống Hiến Sách, Cố Quân Ân và thân tín trực tiếp chạy về Bắc
Kinh.
Hai trận đánh này có ảnh hưởng trí mạng đến sỹ khí của lưu tặc, từ đây
về sau, đối với đội quân Hán gian của Ngô Tam Quế, lưu tặc khi nào cũng
có thể đánh được chiến tích như thế, chỉ khi gặp đại quân Bát Kỳ của
Kiến Nô, lưu tặc chưa đánh đã sợ thua, thậm chí chỉ cần nghe đến tiếng
vó ngựa của kỵ binh Kiến Nô thì sẽ chạy vắt giò lên cổ.
Nam Kinh.
Sau khi Giảng quan Đông Cung Vương Đạc giáp mặt xác nhận, quan viên Nam
Kinh không còn tiếp tục hoài nghi nữa. Dưới sự chủ trì của Binh bộ
Thượng thư Sử Khả Pháp, năm đó, vị Thái Tử mười bốn tuổi Chu Từ Lãng
thuận lợi lên ngôi, nhưng đại lễ đăng cơ chính thức lại cần Lễ bộ chọn
ngày lành tháng tốt để cử hành, cho nên hiện tại trên danh nghĩa Chu Từ
Lãng vẫn chỉ là Giám quốc, vẫn dùng niên hiệu Sùng Trinh như cũ.
Khi Chu Từ Lãng thuận lợi lên ngôi, việc tái phân phối không thể tránh khỏi dấy lên nhật trình nghị sự.
Chính trị trước giờ chính là trò chơi dơ bẩn nhất, mà chính trị gia lại
là những người chơi dơ bẩn, cho đến nay giữa những chính trị gia không
có ôn hòa, chỉ có lợi ích trần trụi. Vì có công cứu giá, hộ giá, cha con Tôn Truyền Đình, Vương Phác đã trở thành người thu lợi lớn nhất từ Thái Tử ban cho, tràng tái phân bố quyền lực này đương nhiên cũng do hai
người làm chủ.
Tham gia tràng tái phân bố quyền lợi chủ yếu có bốn thế lực: thế lực
phương bắc do cha con Tôn Truyền Đình, Vương Phác đại diện chiếm địa vị
chủ đạo; tập đoàn quan liêu cố Minh do Sử Khả Pháp, Mã Sỹ Anh, Cao Hoằng Đồ dẫn đầu, cùng với thế lực quân phiệt địa phương do Lưu Trạch Thanh,
Cao Kiệt, Lưu Lương Tá, Tả Lương Ngọc làm đại diện cũng là người tham dự vào cuộc đua quyền lợi này; thế lực sỹ lâm phương nam căn cơ thâm hậu
do phục xã Đông Lâm đại diện, nhưng bởi vì Chu Tiêu ở trên đại sảnh đổi
trắng thay đen, khiến cho thanh danh của phục xã Đông Lâm giảm đi nhiều, nên trở thành kẻ thua cuộc trong tràng tranh giành quyền lợi này!
Vấn đề trước mắt của cha con Tôn Truyền Đình, Vương Phác là làm sao để phân phối quyền lợi này?
Độc chiếm quyền lực không màng đến ba thế lực thế lực hiển nhiên là
không sáng suốt. Tập đoàn Tôn Vương có căn cơ, mạng lưới quan hệ ở Giang Nam cũng còn nông, không có đủ thực lực giữ quyền to một mình, vì vậy,
lựa chọn sáng suốt nhất chính là lôi kéo một hoặc hai thể lực, đả kích
phân hóa một hoặc hai thế lực còn lại.
Tôn Truyền Đình là một trung thần, năng thần, lương thần, nhưng cho đến
bây giờ lão không phải là chính trị gia xuất sắc, bởi vì lão không đủ vô sỷ, không đủ ác độc. Chân Hữu Tài đủ vô sỷ cũng đủ ác độc, nhưng y
không có cái nhìn đại cục, về mặt chiến lược thiếu đi cái nhìn xa trông
rộng, cho nên hai người đó đều không giúp gì được cho Vương Phác.
Ngay khi Vương Phác đóng kín cửa cân nhắc nên tiến hành phân phối quyền
lợi như thế nào, thì Trần Viên Viên dẫn theo Liễu Như Thị vào phòng của
hắn.