– Gắng lên! Đừng để…
không bị nấu chín… lại bị chết cóng! – Lỗ Nhất Khí vừa thở hổn hển vừa
thều thào, song cậu không biết mình và Thuỷ Băng Hoa có thể gắng gượng
được bao lâu nữa.
Cuối cùng, Thuỷ Băng Hoa đã không còn đủ sức để vận động nữa. Cô ta loạng choạng hai bước tới trước mặt Lỗ Nhất Khí,
vừa thở hổn hển, vừa nhìn Lỗ Nhất Khí với ánh mắt tràn đầy bất lực, tiếc nuối, tuyệt vọng và xen lẫn cả sự vỗ về an ủi. Lỗ Nhất Khí cũng dừng
lại, cậu đã nhìn thấy ánh mắt lạ kỳ của Thuỷ Băng Hoa, và nhìn thấy hai
giọt nước mắt trong suốt lăn ra từ khoé mắt. Song nước mắt còn chưa kịp
lăn tới gò má, đã đông cứng lại trên khuôn mặt trắng nhợt.
Thuỷ
Băng Hoa đổ người về phía trước, ôm chầm lấy Lỗ Nhất Khí. Cậu cũng vòng
tay ôm lấy cô ta. Hai người ôm chặt lấy nhau, đứng im lìm bất động như
pho tượng đá.
Không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, xung
quanh họ đột nhiên im ắng trở lại. Song chỉ một lát sau, từ khe tường
bỗng có gió ấm thổi vào.
Hai giọt nước mắt đóng băng dưới mắt
Thuỷ Băng Hoa lập tức tan ra, lăn xuống hai gò má, giọt xuống cổ Lỗ Nhất Khí. Nhiệt độ trong ám thất lại trở về trạng thái bình thường. Song chỉ là tạm thời. Họ hoàn toàn không biết rằng nơi đây nóng lạnh luân phiên, tuần hoàn không ngừng nghỉ.
– Giờ đây vẫn chưa đến lượt chúng ta chết! – Thuỷ Băng Hoa nói xong, liền buông tay khỏi Lỗ Nhất Khí, rút
dao găm ra, đi tới bên vách tường, cạo xuống một mảng rêu ở đó.
Đúng vậy, vẫn còn những người khác, như Quỷ Nhản Tam, lão mù, Phó Lợi Khai…
Họ đều là người thân, là anh em tốt của cậu, họ coi trọng mạng sống của
cậu hơn cả chính mình. Nếu bây giờ cậu buông xuôi, không những có lỗi
với bản thân mà còn có lỗi lớn với họ. Nhưng giờ đây họ đang ở đâu? Liệu họ có giống như cậu lúc này, sống không bằng chết, đang khắc khoải chờ
cậu đến cứu? Bởi vậy cậu không thể chết! Cậu phải nghĩ cách thoát khỏi
nơi đây, đi tìm những người anh em của mình, hoàn thành đại sự mà tổ
tiên để lại. Nghĩ tới đây, ánh mắt Lỗ Nhất Khí sáng bừng, vẻ mặt lại
toát lên vẻ kiên định và điềm tĩnh vốn có.
Thuỷ Băng Hoa đưa cho Lỗ Nhất Khí một mảng rêu, rồi nói:
– Ăn đi! Đây là nấm sợi rêu. Tuy trông giống rêu xanh, song kỳ thực chính là nấm. Ăn nhiều vào, rồi uống thêm một chút nước! Không biết sẽ bị kẹt trong đây bao lâu nữa, không ăn gì sẽ không thể trụ nổi!
Lúc này Lỗ Nhất Khí mới cảm thấy bụng đói cồn cào như dao cứa, lập tức cầm lấy mảng rêu, cho cả vào miệng nhai ngấu nghiến.
Mùi vị của nấm sợi rêu không quá khó ăn, chỉ hơi chát như cỏ. Lỗ Nhất Khí
ăn liền vài mảng lớn, sau đó tới bên vũng nước vốc nước lên uống. Song
mùi vị của nước khó uống hơn nấm sợi rêu rất nhiều, khiến cậu suýt sặc.
Ăn uống xong xuôi, hai người không ai nói câu nào. Lỗ Nhất Khí ngồi xếp
bằng, song không thể định thần nổi. Thuỷ Băng Hoa nằm co quắp ở một góc
nhà, mắt nhắm nghiền không biết đang suy nghĩ điều gì.
Càng lúc
Lỗ Nhít Khí càng bứt rứt không thể ngồi yên. Rồi đột ngột, cậu tựa như
phát điên, chạy bổ tới bên tường, cạy liền mấy mảng rêu, bỏ vào miệng
nhai nuốt nhồm nhoàm.
Thuỷ Băng Hoa chau mày thót tim, song cô ta cũng không biết phải làm thế nào, chỉ biết cầu trời phù hộ.
Sương mù loáng thoáng bay vào trong ám thất, dòng nước cũng bắt dầu chảy đi
chầm chậm. Nhiệt độ trong mật thất đang tăng dần. Lỗ Nhất Khí vừa đấm
thùm thụp vào vách tường, vừa lảm nhảm như mê sảng:
– Nóng quá! Khó chịu quá! Ta phải thoát ra! Ta sẽ cho nổ tung chỗ này ra! Nổ tung chỗ này ra!
Thuỷ Băng Hoa giật mình kinh hãi, vội vàng chụp lấy chiếc túi vải có đựng lựu đạn của Lỗ Nhất Khí giấu ra sau lưng.
Ám thất càng lúc càng nóng nực, Lỗ Nhất Khí điên cuồng cởi bỏ quần áo vứt xuống nền nhà, miệng lầm bầm không ngớt:
– Ta sẽ cho nó nổ tung! Ta sẽ cho nó nổ tung! – Rồi quay người đi tìm chiếc túi.
Không thấy túi vải dâu nữa. Lỗ Nhất Khí quét mắt một vòng trong ám thất, rồi ánh mắt dừng lại trên người Thuỷ Băng Hoa.
Lỗ Nhất Khí lừ lừ bước lại gần, vung tay chụp lấy cánh tay Thuỷ Băng Hoa, lôi cô ta ra khỏi góc tường.
Thuỷ Báng Hoa tay đấm chân đá, chống cự quyết liệt. Cô ta biết cho nổ lựu
đạn ở nơi này là hạ sách, chắc chắn sẽ hại đến bản thân.
Song cô
ta làm sao có thể kháng cự nổi Lỗ Nhất Khí đang trong cơn điên loạn. Cậu đã giằng dược chiếc túi đựng lựu đạn, hằm hằm bước tới bèn tường. Thuý
Băng Hoa lồm cồm bò dậy, nhặt ngay lấy khẩu súng trường vô dụng đang
chỏng chơ dưới đất, giơ cao báng súng, giáng thẳng cánh xuống đầu Lỗ
Nhất Khí. Lỗ Nhất Khí lập tức đổ gục xuống đất giống như thân cây bị đốn ngang.
Khi Lỗ Nhất Khí tỉnh lại, cậu thấy mình đang nằm trên nền nhà, gối đầu lên đùi Thuỷ Băng Hoa. Cô ta đang đưa đôi tay lạnh cóng và run rẩy chà xát trên cơ thể cậu. Đầu cậu đau như búa bổ, nỗi đau đớn
khiến cậu nhớ lại hành động ngu xuẩn mà mình suýt nữa đã gây ra.
– Xem ra chúng ta phải chết trong hai tầng băng lửa này rồi… – Thuỷ Băng Hoa ngoảnh đầu sang một bên, đờ đẫn mà nói.
Tuy Lỗ Nhất Khí đã bình tĩnh hơn, đầu óc củng đã tỉnh táo trở lại, song
cùng với động tác chà xát của đôi bàn tay trên da thịt, trong lòng cậu
như có một ngọn lửa cháy bừng bừng không tài nào kiếm soát nổi. Nhìn bộ
ngực căng tròn phập phồng dưới lớp yếm lụa trơn bóng, liên tục nhấp nhô
theo cử động của đôi tay, ngọn lửa trong tâm càng trở nên dữ dội. Cậu
đột ngột đưa tay lên giật phăng mảnh yếm mong manh trước ngực Thuỷ Băng
Hoa.
Thuỷ Băng Hoa không hề tỏ vẻ ngạc nhiên hay giận dữ. Lúc
này, Lỗ Nhất Khí đã trở nên cuồng loạn chẳng khác gì lúc muốn nổ tung
bức tường khi nãy, lập tức bật người dậy, đè chặt lấy Thuỷ Băng Hoa. Rồi giống hệt như con bò tót trong trường đấu bò, cúi gằm đầu hùng hục lao
thẳng vào.
Thuỷ Băng Hoa rú lên thảm thiết như xé gan xé ruột.
Bình yên rồi cũng đến sau mấy trận mây mưa, lúc này trong gian ám thất cũng
đã hết lạnh giá. Lỗ Nhất Khí chui ra từ trong đống quần áo rối loạn,
tiện tay nhặt lấy một tấm áo bông quấn vội lên người, rồi ngồi xuống bên tường, mắt dán vào vách, không dám nói gì, càng không dám nhìn Thuỷ
Băng Hoa. Cậu cảm thấy vô cùng hổ thẹn và quái lạ, không hiểu tại sao
mình đột nhiên lại trở nên thú tính như vậy. Lại còn người đàn bà cầm
đầu ổ chứa kia, tại sao vẫn là trinh nữ?
Thuỷ Băng Hoa đang thu
vén cho bản thân. Trên hai bắp đùi trắng nõn như tuyết của cô ta đỏ
loang những máu, nhiều đến khó tưởng tượng. Cô ta nhúng tấm khăn bông
xuống nước, cẩn thận lau chùi thật kỹ.
– Tôi vốn là thạch nữ, nên kết hôn mới được ba ngày, chồng tôi đã vứt bỏ tôi đi ra Quan Ngoại. Tôi đi tìm anh ta là muốn xoá bỏ hôn ước cho anh ta lấy vợ mới. Song tìm
được đến đây, tôi mới biết anh ta vừa lên núi không lâu đã bị gỗ đổ đè
chết. Tôi cảm thấy rất có lỗi với anh ta, cũng chẳng còn mặt mũi nào trở về gặp mặt người thân bên nhà chồng. Đang lúc băn khoăn không biết đi
đâu về đâu, trời xui đất khiến thế nào lại gặp được một ông lão kỳ dị.
Ông lão đã giúp tôi xem mệnh cho nửa đời còn lại, rồi bảo tôi hãy đợi ở
dây để gặp một người của Lỗ gia đi tìm bảo vật. Người này chính là một
con người đá, chỉ có người đá mới có thể phá giải mệnh thạch nữ.
Chính ông lão đã giúp tôi xây dựng Kim gia trại. Ông ta bảo tôi hãy lợi dụng
bọn đàn bà trong trại để nghe ngóng, thu thập tất cả những thông tin có
liên quan tới việc tìm kiếm báo bối và ám cấu nơi cất giấu bảo bối. Ông
ta còn dạy tôi một số nguyên lý về phong thuỷ, khảm diện. Theo như lời
ông ta thì truyền nhân Ban môn tại vùng đất này đã dung hoà một số học
thuyết phong thuỷ đặc biệt vào trong kỹ thuật, vừa có thể theo hình mà
xây dựng, theo hình mà bố trí, còn có thể mượn thuật đổi hình, mượn vật
đổi hình. Song ông ta chưa từng nói cho tôì biết thân phận của mình.
Ngưng một lát, cô ta nói tiếp:
– Những thứ tôi học được chỉ là hời hợt bề ngoài, cũng chẳng mấy để tâm
tới nhiệm vụ mà ông lão đã giao cho. Trong lòng tôi chỉ mong ngóng sớm
gặp được người quyết đinh nửa đời sau của tôi.
– Người đá? – Lời nói của Thuỷ Băng Hoa đã gợi nên sự hiếu kỳ trong lòng Lỗ Nhất Khí, nên cậu bất giác nhắc lại.
– Ông lão có nói rằng, người đá mặt như đá núi, tim như lửa cháy. Người
này tích tụ trong mình một năng lượng rất lớn, vào một thời khắc nào đó
sẽ bùng nổ, phá giải được mệnh thạch nữ. Trong số những người tìm đến,
tuy không chỉ có một mình cậu là truyền nhân của Lỗ gia, song tôi quan
sát thấy cậu lúc nào cũng điềm nhiên như đá, không chút kinh động, song
mỗi lời nói việc làm đều khác hẳn bình thường, nên đoán chắc rằng cậu
chính là người tôi cần tìm. Lời đoán mệnh năm xưa quả nhiên đã chứng
nghiệm. Cậu quả là lợi hại! – Mấy chữ cuối cùng của Thuỷ Băng Hoa tình
tứ vô hạn, xuân ý tràn trề.
– Bởi lẽ thứ tôi vừa ăn không phải là nấm sợi rêu! – Lỗ Nhất Khí đang ngồi quay mặt vào bức vách đột nhiên
kêu lên kinh ngạc – Chị lại đây xem này!
Thuỷ Băng Hoa cũng ngạc
nhiên không kém, vội vã nhặt viên đá huỳnh quang Ba Tư lên chạy lại xem. Hai người châu đầu lại với nhau, cùng quan sát kỹ lưỡng một mảng nấm
giống hệt rêu đóng rất dày trên tường.
Quả nhiên sau khi nhìn kỹ, mới thấy chúng có chỗ không giống. Loài thực vật này đứng là loài nấm,
song chắc chắn không phải là nấm sợi rêu. Trên nấm sợi rêu đáng lẽ phải
mọc chi chít những sợi lông nhọn màu nâu, còn trên loài nấm này lại mọc
đầy những sợi lông nhỏ dầu tròn, trông giống như vô số bộ phận sinh dục
đàn ông bé xíu.
– Bì thung dung! – Dường như Thuỷ Băng Hoa có biết thứ này.
– Chị nói là bì thung dung trong mười tám vị tiên dược ư?
– Tôi không biết có phải hay không, song nghe nói hơn mười năm trước, có
người từng hái được nửa sớ*, bán được giá tiền ngang với ba cân sâm già. Nó là bảo bối cực phẩm trong tam bảo Quan Đông, có công hiệu gấp mấy
chục lần so với thung dung bình thường.
* Sớ là đơn vị tính trọng lượng thường được sử dụng trong kỹ viện thời xưa. một sớ có kích thước
bằng khoảng một quân bài tú lơ khơ.
Tương truyền xưa kia khi rồng trời và ngựa hoang giao hợp, tinh của rồng nhỏ xuống đất mà mọc thành
thung dung, có tác dụng tráng dương bổ thận vô cùng kỳ điệu. Giống bì
thung dung công hiệu còn mạnh gấp mấy chục lần thung dung bình thường,
có thể tưởng tượng nó kỳ điệu đến thế nào.
Trong “Phương ngoại kỳ dược tam giai luận”** thời Nam Bắc triều có chép rằng, kỳ dược trên thế gian phân thành ba cấp độ, là thiên đan, tiên dược và thảo tinh. Bì
thung dung được liệt vào trong mười tám vị tiên dược, đầu tiên được các
đạo sĩ luyện đan trong cung đình dùng để luyện đan. Tương truyền sau khi luyện thành đan hoàn, nam giới ăn vào dương vật cứng như thép, có thể
quan hệ liên tục với mười nữ mà không mềm không phóng tinh. Người đời
sau không luyện đan nữa, có dược sư đã dùng lưu huỳnh để xông, sau đó sử đụng trực tiếp, song hiệu quả còn hơn cả đan hoàn.
** Đây kỳ
thực không phải là một cuốn sách, mà chỉ là một bài viết khá dài. Về tác giả, có ý kiến cho rằng là quan Thái y Tư Mã Chỉ Căn, cùng có ý kiến
cho là thầy thuốc dân gian Phùng Sĩ Thịnh. Tác phẩm này đã kết hợp nhiều loại truyền thuyết và điển tích về y dược để tiến hành phân tích và
giải thích về các loại thảo dược kỳ lạ hiếm có. Đương nhiên trong đó
cũng có một số nội dung sai lệch thiếu chính xác, song vẫn có không ít
nội dung rất được Đông y coi trọng.
– Tôi biết rồi, bản thân bì
thung dung đã là vị thuốc tráng dương, mà hơi nước và nước ở nơi đây đều có thứ mùi quái lạ, lúc trước chú Hạ có nói là mùi lưu huỳnh.
Lúc nãy khi ở dưới nước, tôi không hề cảm thấy nước nóng lên, có lẽ đã bị
lựu huỳnh trong nước hun cho tê dại. Bì thung dung sinh trưởng ở đây
không cần phải xông qua lưu huỳnh cũng đã là vị thuốc tráng dương rất
mạnh, mà tôi còn uống thêm mấy ngụm nước chứa lưu huỳnh. Thảo nào…, tôi
cứ nghĩ mình không thể làm chuyện sai lầm như thế… – Lỗ Nhất Khí nói rất thực thà, song cũng là để tìm ra lý do để biện hộ cho hành động của
mình.
Thuỷ Băng Hoa liếc xéo Lỗ Nhất Khí với ánh mắt trách móc:
– Cậu nói vừa rồi cậu đã làm chuyện sai lầm?
– Phải… à, không phải… À phải! Không phải…
Thì ra Lỗ Nhất Khí cũng có lúc lóng ngóng cuống quýt. Thuỷ Băng Hoa không nhịn được bèn phì cười.
– Có điều cậu nói rất đúng. Tôi cũng từng nghe nói trước đây có người
dùng bì thung dung chế biến xuân dược. Người địa phương gọi nó là
“trương phá huyệt”.
Thế nhưng, cho dù bì thung dung là thứ thuốc
gì, muốn sống sót vẫn cứ phải ăn. Tuy Lỗ Nhất Khí có định lực siêu phàm, nhưng ăn thêm hai ba lần nữa, vẫn kiềm chế không được mà lại lao vào cơ thể Thuỷ Băng Hoa.
Nhưng lần giao hợp thứ ba đã diễn ra trong
lúc Lỗ Nhất Khí vẫn còn tỉnh táo. Có lẽ vì mới được nếm mùi hoan lạc của chuyện gái trai, cũng có lẽ vì muốn tận hưởng những thời khắc cuối cùng của cuộc đời, nên khi Thuỷ Băng Hoa vừa kín đáo gợi ý, hai người đã
nhanh
chóng đi vào một cuộc giao hoan mỹ mãn đầu tiên, và rất có thể cũng là cuối cùng trong cả cuộc đời.
Một vòng nóng lạnh mới lại tiếp diễn, cả hai người đều cảm giác cái chết đã cận kề. Họ ôm chặt lấy nhau, co quắp trong một góc tường, gắng gượng
duy trì chút hơi ấm đang mỗi lúc một nguội lạnh.
Thuỷ Băng Hoa
không biết Lỗ Nhất Khí đang nghĩ gì, khó mà dò đoán được tâm tư của cậu
qua vẻ mặt lúc nào cũng điềm nhiên tĩnh lặng. Song cô ta cảm thấy giờ
đây Lỗ Nhất Khí đã là người đàn ông của mình, nên cần phải tìm cách
khiến cậu cảm thấy vui vẻ, cho dù đã đi đến thời khắc cuối cùng của cuộc đời.
Thuỷ Băng Hoa cắn nhẹ vào vành tai của Lỗ Nhất Khí, khẽ nói:
– Cậu thật tuyệt vời! Với tôi, cậu chính là “trương phá huyệt” thực thụ!
Lỗ Nhất Khí đột nhiên hưng phấn lạ thường, vội đẩy Thuỷ Băng Hoa ra, đứng phắt dậy mà nói:
– Chị vừa nói gì? Chị nhắc lại xem nào!
Thuỷ Băng Hoa đã hiểu lầm nguyên do khiến Lỗ Nhất Khí trở nên hào hứng, bèn tình tứ nhìn Lỗ Nhất Khí, đôi mắt long lanh mà nói:
– Cậu chính là “trương phá huyệt” thực thụ!
– Phải rồi! Chúng ta cần phải “trương phá huyệt” cho nơi đây! – Lỗ Nhất Khí nắm chặt tay lại, đấm mạnh lên bức tường ám thất.
Kỳ thực, từ trước đó Lỗ Nhất Khí đã nghĩ rằng, bên dưới lòng đất chắc chắn có một hệ thống vô cùng đồ sộ và phức tạp, còn gian ám thất đang cầm
chân họ chỉ là một mắt xích nhỏ trong cả hệ thống, một mắt xích có thể
dùng làm nút lẫy. Dòng sông ngầm trong tầng nham thạch dưới lòng đất bị
địa nhiệt nung nóng đến sôi sục, cứ cách một khoảng thời gian lại trào
lên tuôn chảy, tương tự với nguyên lý phun trào gián đoạn của suối nước
nóng. Nhưng khác ở chỗ, dòng sông ngầm tuần hoàn khép kín, nước ở bên
trong không chảy ra ngoài, chỉ có hơi nước bốc lên, rồi trào ra ngoài
qua các khe nứt, lỗ hổng trên vách núi, gặp lạnh liền ngưng tụ thành
sương mù.
Hơi nước nóng bên trong hệ thống sẽ khiến áp suất tăng
cao. Khi áp suất bên trong đạt tới một mức độ nhất đinh sẽ đẩy bật một
cửa van nào đó, mau chóng xả ra. Bản thân địa nhiệt vào lúc tạm dừng
cũng sẽ khiến nhiệt độ sụt giảm, lại thêm áp suất tụt xuống nhanh chóng
sẽ lập tức lấy đi rất nhiều nhiệt năng. Thực chất, đây chính là quy
trình làm lạnh, khiến cho toàn bộ hệ thống chỉ trong một thời gian rất
ngắn đã chuyển từ nóng nực ngột ngạt sang lạnh giá cực độ.
Trong
trường Tây học, Lỗ Nhất Khí đã học được rằng, nước gần tới lúc đóng băng sẽ có thể tích nhỏ nhất, sau đó dù nhiệt độ tăng lên hay hạ xuống, thể
tích của nước cũng tăng lên theo tỉ lệ nhất đinh. Trong quá trình tăng
thể tích sẽ tiềm tàng một nguồn năng lượng lớn đến khó tưởng tượng,
giống như là hạt giống nảy mầm.
Lỗ Nhất Khí dùng con dao găm của
Thuỷ Băng Hoa cạo lấy một mảng bì thung dung thật lớn, rồi ép chặt, vê
thành từng nắm. Cậu chọn lấy vài lỗ hổng và khe nứt trên vách tường bên
phía dòng nước chảy đi, nhét bì thung dung vào trong, còn lấy nòng súng
ấn vào thật chặt. Sau đó cậu đổ một ít nước vào, để bì thung dung ngấm
nước trương lên, bịt kín những khe hở và lỗ hổng.
Khi các khe nứt và lỗ hổng bị bịt kín đều đã được đổ đầy nước, nhiệt độ nước đã hạ
xuống rất thấp, trên mặt nước cũng bắt đầu đóng băng, Lỗ Nhất Khí trèo
lên bờ, thấp thỏm chờ đợi điều kỳ diệu xảy ra.
Nhiệt độ sụt giảm
nhanh chóng. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng Hoa ôm chặt lấy nhau, nhưng hai
mắt vẫn dán chặt vào vách tường, quan sát xem liệu có gì thay đổi.
Cuối cùng, vang lên một tiếng vỡ đanh giòn, trên bức tường xuất hiện một số
kẽ nứt răng cưa không ngừng vươn dài, tựa như một hoạ sĩ tranh thuỷ mặc
đang tô vẽ một cành mai khô gầy cứng cáp. Những tiếng rạn vỡ mỗi lúc
thêm dồn dập, âm thanh giòn vang khoẻ khoắn, giống như một lực sĩ đang
kéo mạnh dây cung.
Nước trong những vết nứt và lỗ hổng đều đóng
thành khối băng, nở ra phía ngoài thành những khối hình bán cầu. Những
đường rạn nứt kéo dài, ngang dọc đan xen, nối liền những vết nứt và lỗ
hổng lại với nhau.
– Nứt rồi! Chị nhìn kìa, nứt cả rồi. Đợi đến
lúc băng tan, toàn bộ sẽ vỡ vụn. Chỉ có điều không biết bức tường này
dày bao nhiêu, cầu mong phía sau nó không phải là vách núi, nếu không
cũng coi như xong! – Lỗ Nhất Khí nói trong run rẩy.
Một lát sau,
ám thất lại ấm trở lại, băng tan nhanh chóng. Lỗ Nhất Khí và Thuỷ Băng
Hoa hợp sức đẩy tung những mảng gỗ thần cương đã nứt vỡ. Phía sau bức
tường không phải là vách núi, mà là một đường hầm lát gạch.
Phía
cuối đường hầm có một khe nối so le xây bằng gạch. Khe nối so le chính
là chỗ nối tiếp giữa hai bức tường. Theo kỹ thuật được ghi chép trong
“Ban kinh”, khe nối so le trên tường thường được thiết kế ở vị trí cách
góc tường một viên gạch, như vậy vừa đảm bảo mỹ quan, lại có thể tăng
cường độ kiên cố cho bức tường. Song khe nối ở đây lại được đặt ở chính
giữa bức tường bít phía cuối đường hầm, đây là một sai lầm ngô nghê mà
ngay cả một thợ mộc bình thường cũng không thể phạm phải. Vậy mà nó lại
xuất hiện ở trong ám cấu do tổ tiên Lỗ gia để lại, nên chỉ có một khả
nãng duy nhất: đây là một cánh cửa ngầm.
Kỳ thực lợi dụng khe nối để đặt cửa ngầm, nếu bố trí khéo sẽ rất khó phát hiện ra. Nó sẽ lợi
dụng các viên gạch đặt cạnh nhau để quá độ từng bước, sau cùng chỉ chừa
lại một viên gạch lệch vị trí. Viên gạch này có thể đặt ở trên cùng hoặc dưới cùng của tường, thậm chí có thể giấu ở trong đất.
Cửa ngầm
đã được giấu ở phía dưới chân tường, bởi vậy chỉ cần phát hiện ra cửa
ngầm, sẽ có thể dễ dàng mở ra. Vì đây là ám cấu do các bậc tổ tiên Lỗ
gia thiết kế, phương pháp có biến hoá đến đâu cũng không lìa tông. Lỗ
Nhất Khí đạp chân lên viên thứ ba, đầu gối đẩy viên thứ bảy, tay ấn vào
viên thứ mười một, rồi dùng một tay đẩy ngang. Đây chính là chiêu pháp
viết trong “Ban kinh”.