Buổi sớm mù sương và lành lạnh. Tôi thông cảm với những con cừu đó. Bơi
qua thuốc tẩy trùng lạnh lẽo vào một ngày như thế này có thể thật là ác
nghiệt. Có lẽ cừu không cảm thấy lạnh chăng? Có lẽ chúng không cảm thấy
gì hết.
Mùa xuân ngắn ngủi ở Hokkaido sắp qua. Những đám mây xám
dày phía Bắc là điềm báo tuyết sắp đến. Bay từ tháng Chín Tokyo đến
tháng Mười Hokkaido, tôi đã mất hẳn mùa thu. Có lẽ bắt đầu và kết thúc,
nhưng không có giữa thu.
Tôi thức dậy lúc sáu giờ rồi rửa mặt.
Tôi ngồi một mình ở ban công, nhìn ra ngoài cửa sổ cho tới khi bữa sáng
được dọn ra. Nước sông đã rút xuống đôi chút kể từ ngày hôm trước và
đang dần trong hơn. Cánh đồng lúa trải dài bên bờ đối diện, nơi những
cơn gió bất thường buổi sớm thổi qua đồng lúa chín cao tạo thành những
đợt sóng chạy xa hút tầm mắt. Một chiếc máy kéo đi ngang qua cây cầu bê
tông, hướng về phía đồi, thoảng nghe trong gió tiếng đầu máy lọc xọc. Ba con quạ bay ra từ trong cây bu lô giờ đã chuyển màu vàng. Lượn một vòng trên sông và sà xuống rào chắn của tòa nhà. Đậu ở đó, lũ quạ đóng vai
những người ngoài cuộc hoàn hảo trong một vở kịch đương đại. Tuy nhiên,
chẳng bao lâu chúng đã chán cái vai đó, liền bay đi từng con một và biến mất theo hướng ngược dòng.
Đúng tám giờ, chiếc xe jeep của người trông nom trại cừu đỗ ngoài quán trọ. Chiếc jeep có nóc hình hộp, hình
như được lắp thêm vào nếu xét đến số đăng ký của Tự vệ quân đọc được
trên tấm cản xóc.
"Cậu biết không, có điều gì kỳ quặc đang diễn
ra," người trông nom trại cừu nói ngay khi trông thấy tôi. "Tôi đã thử
gọi điện lên núi trước, nhưng không sao gọi được."
Cô và tôi trèo vào trong ghế sau. Nó bốc mùi xăng. "Lần cuối bác thử gọi là lúc nào?" Tôi hỏi.
"Xem nào, chắc là khoảng ngày hai mươi tháng trước. Kể từ đó tôi chưa lần
nào liên lạc lại. Thường thì cậu ta gọi cho tôi bất cứ khi nào cậu ta
cần thứ gì. Danh sách mua sắm hay đại loại vậy."
"Bác có nghe thấy chuông điện thoại reo không?"
"Thậm chí không có lấy một tín hiệu báo bận. Chắc hẳn đường dây hỏng ở đâu
đó. Không phải không có khả năng có một trận tuyết lớn."
"Nhưng đâu hề có tuyết đâu."
Người trông nom trại cừu nhìn lên nóc xe jeep và xoay cổ răng rắc. "Vậy thì chúng ta sẽ phải đi xem thế nào, đúng không?"
Tôi gật đầu. Khói xăng bắt đầu làm tôi khó chịu.
Chúng tôi vượt qua cây cầu bê tông và bắt đầu đi lên đồi theo con đường tôi
đi hôm qua. Đi ngang qua Trại cừu Thị trấn, cả ba quay sang nhìn hai cây cột với tấm biển trên lối vào. Trang trại vô cùng tĩnh lặng. Tôi có thể hình dung thấy bọn cừu: con nào con nấy nhìn chằm chằm vào khoảng yên
lặng của chính mình với đôi mắt xanh trong veo.
"Bác để việc tẩy trùng đến chiều à?"
"Ừ, mà thôi chẳng có gì phải gấp. Miễn là xong trước khi tuyết rơi."
"Bao giờ tuyết bắt đầu rơi hả bác?"
"Sẽ chẳng có gì ngạc nhiên nếu tuyết rơi vào tuần sau," Người trông nom
trại cừu nói. Một tay đặt lên tay lái, ông nhìn xuống rồi ho. "Mặc dù
vậy, phải đến tháng Mười một thì tuyết mới bắt đầu chất đống. Đã bao giờ biết mùa đông ở vùng này thế nào chưa?"
"Dạ chưa," Tôi nói.
"Đấy, một khi tuyết bắt đầu dồn lại, nó chất đống không ngừng như thể một con đập vừa vỡ tung. Đến lúc đó thì không thể làm gì hơn là quanh quẩn
trong nhà và chán chết đi được. Lẽ ra ngay từ đầu người ta không bao giờ nên sống ở vùng này."
"Nhưng bác sống mãi ở đây đấy thôi."
"Đó là bởi tôi yêu thích cừu. Cừu là loài vật có bản chất hiền hậu. Chúng
thậm chí ghi nhớ ta qua khuôn mặt. Ngoảnh đi ngoảnh lại một năm chăm cừu đã qua lúc nào không hay, rồi thì cứ thế mãi. Vào mùa thu chúng kết
đôi, mùa xuân chúng sinh con, mùa hè chúng gặm cỏ. Khi lũ cừu non lớn
lên, vào mùa thu chúng lại kết đôi. Cứ quay vòng như thế. Tất cả cứ lặp
đi lặp lại như vậy. Bọn cừu thay đổi mỗi năm, chỉ có tôi là già đi. Và
càng già tôi lại càng không muốn sống ở thị trấn."
"Cừu làm gì vào mùa đông hả bác?" bạn gái tôi hỏi.
Tay vẫn còn trên vô lăng, người trông nom trại cừu quay lại nhìn chằm chằm
vào cô, gần như say sưa ngắm khuôn mặt cô, như thể trước đó ông ta không để ý đến cô. Con đường được lát, thẳng tắp và không hề có chiếc xe nào
trong tầm mắt; tuy thế, tôi vẫn sợ toát mồ hôi.
"Chúng ở trong chuồng suốt mùa đông," người trông nom trại cừu nói, cuối cùng đã quay lại quan sát con đường.
"Chúng không thấy chán ư?"
"Cậu có thấy chán ngấy cuộc đời của chính mình không?"
"Tôi thật tình không thể nói được."
"Vậy thì với cừu cũng vậy thôi," người trông nom trại cừu nói. "Chúng không
nghĩ về những thứ như thế, mà nếu chúng có nghĩ thế thì cũng chẳng ích
lợi gì. Chúng cứ qua đông bằng cách ăn cỏ, đái, cãi nhau lặt vặt, nghĩ
về bọn cừu con trong bụng."
Đồi ngày càng trở nên dốc hơn, và con đường bắt đầu uốn thành hình chữ chi. Phong cảnh đồng quê dần dần
nhường chỗ cho rừng nguyên sinh tối tăm dựng đứng như bức tường ở hai
bên đường. Thi thoảng lại có một khoảng trống thấp thoáng đồng bằng phía dưới.
"Nếu có tuyết, chúng ta sẽ không thể đi qua đây," người
trông nom trại cừu nói. "Nói thế không có nghĩa người ta có nhu cầu đi
qua."
"Có khu trượt tuyết hay đường leo núi nào không bác?" tôi hỏi.
"Không phải ở đây, không có gì hết. Đó là lý do tại sao không có khách du
lịch. Đó là lý do tại sao thị trấn tàn lụi nhanh thế. Đến tận đầu những
năm sáu mươi, thị trấn vẫn còn hoạt động theo mô hình nông nghiệp vùng
khí hậu lạnh. Nhưng kể từ khi dư thừa gạo, mọi người mất hứng thú trồng
trọt trong một cái tủ ướp lạnh. Có lý thôi."
"Điều gì đã xảy ra với nhà máy gỗ?"
Không có đủ nhân công để đáp ứng nhu cầu, thế là họ chuyển đến những chỗ
thuận tiện hơn. Ngày nay người ta vẫn có thể tìm thấy những nhà máy nhỏ ở một vài thị trấn, nhưng không nhiều. Hiện nay, cây đốn trong núi ở đây
chuyển ngay qua thị trấn rồi được đưa tới Nayoro và Asahikawa. Đó là lý
do đường sá cực tốt trong khi cả thị trấn kiệt quệ. Một xe tải lớn có
lốp chạy tuyết sẽ đi qua được gần như bất kỳ đống tuyết nào."
Tôi đưa một điếu thuốc lên môi một cách vô thức, nhưng trước khi châm lửa
tôi nhớ đến khói xăng dầu nên lại đút nó vào bao. Thay vì hút tôi ngậm
một viên kẹo chanh. Kết quả: vị xăng pha chanh kỳ dị.
"Cừu có cãi nhau không bác?" bạn gái tôi hỏi.
"Chắc chắn chúng cãi nhau rồi," người trông nom trại cừu nói. "Giống như bất
cứ loài vật nào đi theo nhóm. Con cừu nào cũng có trật tự phân hạng
trong xã hội cừu. Nếu có năm mươi con trong chuồng thì sẽ có con cừu số
một cho tới con cừu số năm mươi. Và con nào con nấy đều biết đích xác
mình ở đâu."
"Lạ lùng thật," cô nói.
"Điều đó cũng khiến
việc quản lý chúng dễ dàng hơn cho tôi. Chỉ cần dắt con cừu số một ra,
thế là cả lũ cừu theo sau, không thắc mắc gì."
"Nhưng nếu tất cả chúng đều biết vị trí của mình, tại sao chúng đánh nhau?"
"Chẳng hạn một con cừu bị đau và mất đi sức mạnh, vị trí của nó trở nên lung
lay. Thế là con cừu dưới nó trở nên hăng máu hơn và cố vươn lên vị trí
tốt hơn. Khi điều đó xảy ra, chúng đánh nhau trong ba ngày."
"Tội nghiệp."
"Ôi dào, huề cả làng thôi mà. Xét cho cùng, con cừu bị đá đít ấy khi còn
trẻ cũng đã đá đít một con cừu khác. Và đến khi lên phản làm thịt không
có số một hay số năm mươi. Chỉ là một cuộc liên hoan ngoài trời có cừu
nướng quay cả con thôi."
"Hừ," cô nói.
"Nhưng con đáng thương thật sự là con cừu đực hạt giống. Cô cậu biết hết về hậu cung lũ cừu, đúng không?"
"Không, tôi không biết," tôi đáp.
"Khi nuôi cừu, điều quan trọng nhất người ta cần chú ý là việc phối giống.
Thế là người ta giữ chúng tách biệt, cừu đực với nhau, cừu cái với nhau. Rồi người ta ném một con đực vào chuồng lũ cừu cái. Nói chung thì nó là con đực khỏe nhất. Nói cách khác, người ta phối giống tốt nhất. Sau một tháng, khi mọi việc đã xong, con cừu đực giống này trở về chuồng toàn
cừu đực. Nhưng trong thời gian con cừu đực giống bận rộn, những con đực
khác đã thiết lập nên một trật tự phân hạng mới. Và do cái việc phối
giống đó mà con cừu đực giống giảm cân tới một nửa nên không thắng nổi
một trận đánh nhau. Thế là tất cả các con đực khác đánh hội đồng nó. Thế mới buồn."
"Cừu đánh nhau như thế nào hả bác?"
"Chúng đập đầu nhau. Trán cừu cứng như thép và rỗng không bên trong."
Cô không nói gì, nhưng có vẻ đang chìm trong suy nghĩ. Có lẽ đang thử hình dung cảnh những con cừu giận dữ đập đầu nhau.
Sau ba mươi phút đi xe, mặt đường lát bỗng nhiên biến mất, con đường hẹp
lại chỉ còn một nửa. Từ hai bên, những cánh rừng nguyên sơ tối tăm đổ xô tới chiếc xe jeep của chúng tôi như những con sóng khổng lồ. Nhiệt độ
hạ xuống.
Đường sá thật kinh khủng. Nó đẩy chiếc jeep bật qua bật lại như kim máy ghi địa chấn, lắc mạnh xăng trong thùng xăng bằng nhựa
dưới chân chúng tôi. Xăng phát ra những âm thanh đáng ngại, như thể óc
ai đó đang lắc qua lắc lại ọc ạch, sẵn sàng bắn tung ra khỏi hộp sọ. Tôi có lo ngại về điều đó không? Chắc chắn rồi.
Con đường tiếp tục
như vậy trong khoảng hai ba mươi phút. Tôi không thể ngồi vững, dù chỉ
để xem đồng hồ. Trong cả quãng thời gian đó không ai nói lời nào. Tôi
nắm chặt đai an toàn gắn ở ghế, trong khi cô bám chặt tay phải tôi.
Người trông nom trại cừu tập trung vào việc giữ tay lái.
"Bên
phải," người trông nom trại cừu bỗng nhiên nói to. Không biết phải trông đợi điều gì, tôi quay sang thì thấy một bức tường rừng cây tối tăm mở
rộng ra, đất dần biến mất. Thung lũng mênh mông, cảnh tượng thật ngoạn
mục. Nhưng thiếu vẻ ấm áp. Mặt đá dựng đứng, lột bỏ hết từng chút sự
sống. Ta có thể ngửi thấy hơi thở đe dọa.
Chắn ngay trước mặt con đường là một ngọn núi trơn, hình nón. Tại đỉnh núi, một sức mạnh kinh
khủng đã vặn xoáy hình nón thành ra không còn hình thù gì nữa.
Nắm chặt tay lái, người trông nom trại cừu hất cằm ra phía trước về hướng cái hang hẹp bên bờ đá.
"Chúng ta vừa đi vòng qua mặt kia của nó."
Cơn gió mạnh từ thung lũng tràn qua leo lên sườn núi bên phải, thổi tung đám lá cây dày đặc, bắn nhẹ cát lên cửa sổ xe.
Tại một điểm gần đỉnh núi, con đường hình chữ chi kết thúc, sườn núi bên
phải biến thành những khối đá núi lửa cao lởm chởm, rồi cuối cùng thành
một mặt đá dốc đứng. Len qua một gờ đá hẹp được tạc thành một khối đá
không ra hình thù gì, chiếc jeep di chuyển chậm chạp.
Bỗng nhiên, thời tiết chuyển hướng xấu. Những mảng xanh điểm xuyết trên bầu trời
xám nhạt đã chán nét phảng phất hay thay đổi của mình mà chuyển sắc u
ám, trộn lẫn một màu đen như bồ hóng không đều. Đem lại cho núi non một
vẻ ảm đạm.
Trong ngọn núi chẳng khác gì cái vạc này, gió xoay
tít, thổi vù vù và rền rĩ đến khiếp. Tôi lau mồ hôi trên lông mày. Dưới
tấm áo len, người tôi cũng toát mồ hôi lạnh.
Người trông nom trại cừu mím môi mỗi khi ngoặt tay lái, ngoặt sang phải, rồi lại sang phải.
Rồi ông cúi người về phía trước như thể đang cố căng tai nghe gì đó,
đồng thời điều khiển chiếc jeep chạy chậm lại cho đến khi, nơi con đường hơi rộng ra, ông hãm phanh. Ông tắt máy, rồi chúng tôi ngồi đó, bị ném
vào giữa sự yên lặng ớn lạnh. Chỉ có gió đang nghiên cứu tìm hiểu vùng
đất này.
Người trông nom trại cừu để cả hai tay trên vô lăng.
Dường như phải đến nửa tiếng trôi qua, rồi ông mới ra khỏi xe và gõ nhẹ
đế giày lên mặt đất. Tôi theo ông trèo ra khỏi xe và đứng cạnh ông, nhìn xuống mặt đường.
"Không tốt đâu," người trông nom trại cừu nói. "Trời mưa to hơn tôi tưởng."
Con đường không có vẻ ẩm ướt đến thế đối với tôi. Ngược lại là khác, trông nó cứng đơ và khô khốc.
"Bên trong ẩm," ông giải thích. "Nó đánh lừa tất cả mọi người. Mọi thứ đều khác biệt ở vùng này."
"Khác ư?"
Thay vì trả lời, ông lôi một điếu thuốc ra khỏi túi và châm lửa. "Đi với tôi chút nhé?"
Chúng tôi đi bộ khoảng gần hai trăm mét tới khúc ngoặt kế tiếp. Tôi có thể
cảm thấy cơn giá lạnh khó chịu. Tôi kéo khóa áo gió lên tận cổ rồi dựng
cổ áo lên, nhưng vẫn lạnh.
Ngay ở chỗ con đường bắt đầu uốn khúc, người trông nom trại cừu dừng lại. Hướng về vách núi bên phải, thuốc
vẫn trên môi, ông nhăn nhó. Nước, một màu nâu đất nhạt, đang chảy nhỏ
giọt từ giữa vách núi, tràn xuống đá, và chậm rãi chảy qua đường. Tôi
đưa ngón tay quệt ngang mặt đá. Nó xốp hơn vẻ ngoài, chỉ chạm nhẹ mà bề
mặt đã vỡ vụn.
"Chỗ này đúng là khúc quanh khủng khiếp," người
trông nom trại cừu nói. "Bề mặt xốp, nhưng đó thế chưa hết đâu. Thôi, đó là vận rủi. Ngay cả lũ cừu cũng sợ."
Người trông nom trại cừu ho rồi ném điếu thuốc lên mặt đất. "Tôi không muốn làm thế này với cậu, nhưng tôi không muốn mạo hiểm."
Tôi gật đầu.
"Cậu nghĩ mình có thể đi bộ nốt quãng đường còn lại không?"
"Đi bộ không thành vấn đề. Vấn đề là độ rung." Người trông nom trại cừu lấy giày giẫm mạnh lên đất lần nữa. Ngay sau một tích tắc là một câu trả
lời chán ngắt và đáng nản. "Đi bộ được."
Chúng tôi trở lại xe jeep.
"Chỗ đó cách đây quãng gần năm cây số," người trông nom trại cừu nói. "Chỉ
mất một tiếng rưỡi là đến nơi thôi, kể cả khi có cô kia đi cùng. Đường
thẳng, không dốc mấy. Xin lỗi là tôi không thể đưa cậu đi hết quãng
đường."
"Không sao bác ạ. Cám ơn bác vì mọi thứ.""Cậu định ở lại trên đó à?"
"Tôi không biết. Tôi có thể quay lại vào ngày mai. Cũng có thể mất một tuần. Còn tùy sự việc thế nào."
Ông đưa một điếu thuốc nữa lên môi, nhưng lần này chưa kịp châm lửa ông đã
húng hắng ho. "Dẫu vậy cậu cũng nên cẩn thận. Trông tình hình thế này
thì có lẽ sẽ có tuyết sớm đấy. Và một khi trời tuyết, cậu không đi đâu
được đâu."
"Tôi sẽ cẩn thận," tôi nói.
"Có một hộp thư ngay cửa ra vào. Chìa khóa nhét ở dưới. Nếu không ai ở đó, hãy dùng nó."
Chúng tôi dỡ đồ trên xe jeep xuống dưới bầu trời xám như chì. Tôi cởi áo gió
và mặc chiếc áo khoác có mũ trùm dày cộp dành cho người leo núi. Tôi vẫn lạnh.
Phải khó khăn lắm người trông nom trại cừu mới quay được
xe, liên tục đụng vào vách đá. Mỗi lần ông đâm, vách đá lại vỡ thêm ra.
Cuối cùng ông cũng quay hẳn được xe, bóp còi, rồi vẫy tay. Chúng tôi
cũng vẫy lại. Chiếc jeep ngoặt ở khúc quanh rồi biến mất.
Chúng tôi hoàn toàn một mình. Như thể chúng tôi bị bỏ lại bên rìa thế giới.
Chúng tôi đặt ba lô xuống đất và đứng đó không nói một lời, cố xác định vị
trí. Dưới chúng tôi là một dải sông bạc thanh thoát uốn khúc qua thung
lũng, hai bên bờ là rừng xanh rậm rạp. Bên kia thung lũng nổi lên dãy
đồi thấp nhuốm sắc thu và xa xa là cảnh đồng bằng mờ mờ. Những cột khói
mỏng bốc lên từ cánh đồng người ta đang đốt gốc rạ sau vụ gặt. Một quang cảnh đẹp đến sững sờ, nhưng điều đó không làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Mọi thứ dường như thật xa cách, thật... xa lạ.
Bầu trời bị đè
nặng xuống bởi một màu xám ẩm ướt đồng nhất – những đám mây dường như
hòa làm một, che phủ toàn bộ ánh sáng. Phía dưới, những mảng mây đen dày đặc bay qua ở khoảng cách hầu như có thể chạm tới được. Những đám mây
lao về phía Đông từ hướng lục địa châu Á, cắt ngang qua biển Nhật Bản
tới Hokkaido trên đường tới biển Okhotsk với tốc độ phi thường. Tất cả
đều góp phần khiến chúng tôi nhận thức được sự may rủi hoàn toàn của nơi chúng tôi đứng. Một cơn gió mạnh tình cờ lướt qua, thế là cả cái khúc
quanh đang rụn ra dần dính vào vách đá này có thể dễ dàng lôi chúng tôi
xuống vực thẳm.
"Mình đi tiếp thôi," tôi nói, xốc chiếc ba lô
khổng lồ lên vai. Một điều gì đó khủng khiếp, mưa hoặc mưa tuyết, đang
hiện diện đâu đây, và tôi muốn ở gần một chỗ nào đó có mái che. Tôi chắc chắn không muốn ướt sũng ở đây trong trời lạnh.
Chúng tôi mau
chóng cuốc bộ khỏi cái "khúc quanh tử thần" đó. Người trông nom trại cừu nói đúng: chỗ này là vận rủi. Có một cảm giác chết chóc thoạt đầu chiếm lĩnh thân thể tôi, rồi sau đó đột ngột đưa ra tín hiệu cảnh cáo trong
đầu tôi. Cái cảm giác người ta bắt gặp khi đang vượt qua sông và bỗng
nhiên sa chân vào đám bùn có nhiệt độ khác.
Chỉ sau ba trăm thước cuốc bộ, tiếng bước chân của chúng tôi trên mặt đường trải qua bao
nhiêu lần thay đổi. Những con lạch được dòng suối cung cấp nước liên tục chảy ngoằn ngoèo qua đường.
Ngay cả khi đã qua khúc quanh, chúng tôi cũng không đi chậm lại, cố tạo ra khoảng cách càng xa càng tốt khỏi chỗ đó. Chỉ ba mươi phút sau chúng tôi mới bớt căng thẳng khi vách đá
trở nên ít dốc hơn và cây cối hiện ra.
Đi xa được đến mức này,
chúng tôi không gặp khó khăn gì với quãng đường còn lại. Con đường trải
phẳng, và núi non mất đi những gờ đá nhọn. Dần dần, chúng tôi ở giữa một phong cảnh cao nguyên thanh bình.
Ba mươi phút sau đó, hình chóp nón hoàn toàn ở sau chúng tôi, và chúng tôi đến bên một cao nguyên có
núi non vây quanh trông giống như hình cắt bằng giấy. Như thể nửa trên
của ngọn núi lửa khổng lồ bị sụp xuống. Một rừng cây bu lô với đám lá
thu trải dài bất tận. Giữa đám bu lô là những bụi cây và tầng cây thấp
màu sắc rực rỡ, đây đó một cây bu lô bật gốc, màu nâu và mục nát.
"Có vẻ như một chỗ khá dễ chịu," bạn gái tôi nói.
Sau khúc quanh đó, quả thực trông nơi đây có vẻ như một chỗ khá dễ chịu.
Con đường dẫn thẳng chúng tôi xuyên qua rừng cây bu lô. Nó hầu như không đủ rộng để xe jeep qua và thẳng tăm tắp. Không khúc ngoặt, không dốc đứng. Nếu ta nhìn về phía trước, mọi thứ bị hút vào một điểm. Ngay cả những
đám mây đen cũng bay thẳng qua điểm đó.
Và thật tĩnh lặng. Bản
thân tiếng gió bị khoảng rừng rộng lớn nuốt chửng đi. Không khí bị cắt
ngang bởi tiếng hót của một con sáo đen béo ụ. Một khi con chim biến ra
khỏi tầm mắt, yên lặng lại dội về, một chất lỏng nhơn nhớt lấp đầy mọi
lỗ hổng. Lá cây rơi trên mặt đường ướt đẫm nước mưa từ hai ngày trước.
Con đường dường như vô tận, giống như rừng cây bu lô quanh đó. Những đám mây bay là là, chỉ trước đó chút ít trông đáng sợ, giờ khi nhìn xuyên
qua rừng lại có vẻ siêu thực.
Mười lăm phút sau, chúng tôi đến
bên một con suối trong vắt. Có một cây cầu bằng thân gỗ bu lô chắc chắn
có tay vịn, và ở gần đó, một khoảng rừng trống nhỏ. Chúng tôi đặt ba lô
xuống, xuống suối uống nước. Đó là thứ nước có vị tuyệt vời nhất mà tôi
từng uống. Đủ lạnh để làm tay tôi ửng đỏ, và ngọt, có vị đất thoang
thoảng.
Những đám mây vẫn tiếp tục bay theo hướng đã định, nhưng
kỳ quặc thay, thời tiết không trở nên tệ hơn. Cô chỉnh lại dây giày leo
núi, tôi ngồi tựa vào tay vịn hút thuốc. Tôi có thể nghe tiếng thác nước ở hạ nguồn. Dựa vào âm thanh ấy thì thấy con thác cũng không lớn lắm.
Một ngọn gió tinh nghịch thổi từ bên trái qua, khiến các tán cây gợn
sóng lăn tăn và lá bay tung tóe.
Tôi hút hết điếu thuốc rồi lấy
giày di qua di lại trên đất, chỉ để tìm thấy một mẩu đầu lọc khác ngay
cạnh chân tôi. Tôi nhặt nó lên. Một điếu Seven Stars đã bẹp dí. Không
ướt, vậy là nó ở đó từ sau trận mưa. Có nghĩa là hoặc hôm qua hoặc hôm
nay.
Tôi thử nhớ xem Chuột thường hút loại thuốc nào. Nhưng tôi
không thể nhớ được là hắn thậm chí có hút thuốc hay không. Tôi thôi
không nghĩ nữa và quăng mẩu đầu lọc xuống suối. Ngay lập tức, dòng nước
cuốn nó đi.
"Gì thế anh?" cô hỏi.
"Anh tìm thấy một mẩu đầu lọc còn mới, vậy là người nào đó hẳn đã ngồi lại đây hút thuốc như anh cách đây không lâu."
Đúng như người trông nom trại cừu nói, chìa khóa ở đáy hộp thư. Một chiếc
chìa khóa bằng đồng kiểu cổ, chỗ tay hay chạm vào có màu trắng xỉn.
"Anh có nghĩ là họ hơi bất cẩn khi để chìa khóa như thế không?" bạn gái tôi hỏi.
"Em biết có thằng trộm nào lần mò đến tận đây, ăn trộm thứ gì đó rồi chở đồ xuống dưới không?"
Chìa khóa khớp vừa khin khít với lỗ khóa. Tôi xoay chìa, có một tiếng cách to, và then cửa mở ra.
Trong nhà tối mờ mờ, tối một cách không tự nhiên. Cửa chớp đã được đóng suốt
một quãng thời gian dài, phải mất một lúc mắt tôi mới điều chỉnh được.
Chỗ nào cũng tối mò mò.
Căn phòng rộng rãi. Rộng rãi, yên tĩnh,
và bốc mùi như một cái chuồng bò cũ. Cái mùi tôi nhớ được từ thuở thiếu
thời. Đồ đạc cũ và thảm bỏ đi. Chúng tôi đóng cánh cửa sau mình lại,
khiến tiếng gió ngoài kia ngưng bặt.
"Xin chào!" tôi hét lên. "Có ai ở nhà không?"
Tất nhiên là không rồi. Rõ ràng là không ai ở đó. Chỉ có sự hiện diện của chiếc đồng hồ quả lắc đang kêu tích tắc cạnh lò sưởi.
Trong giây lát, tôi có cảm giác chóng mặt. Ở đó trong bóng tối, thời gian bị
đảo ngược. Thời khắc chồng chéo nhau. Ký ức tan thành mây khói. Rồi cảm
giác ấy qua đi. Tôi mở mắt và mọi thứ lại trở về như cũ. Trước mắt tôi
là một khoảng không gian màu xám đơn thuần, không gì hơn.
"Anh có sao không?" cô hỏi một cách lo lắng.
"Không sao đâu," tôi nói. "Mình lên kiểm tra trên gác đi."
Trong khi cô tìm công tắc điện, tôi kiểm tra chiếc đồng hồ quả lắc. Đó là
loại có ba quả lắc, lên dây cót bằng xích. Mặc dầu cả ba đều xuống mức
thấp nhất, chiếc đồng hồ vẫn cố gắng nhích thêm chút chuyển động cuối
cùng. Xét độ dài của dây xích, có lẽ phải mất khoảng một tuần để quả lắc xuống mức thấp nhất. Có nghĩa là vào một lúc nào đó trong tuần ai đó đã ở đây để lên dây đồng hồ.
Tôi chỉnh ba quả lắc lên mức cao nhất
rồi ngồi duỗi dài chân trên xô pha. Một cái xô pha cũ rích từ thời tiền
chiến, nhưng ngồi khá dễ chịu. Không quá êm, không quá cứng và có mùi
như lòng bàn tay.
Một tiếng tách, rồi đèn bật sáng. Cô từ trong
bếp đi ra, ngồi trên ghế dài, rồi châm một điếu thuốc đinh hương. Tôi
châm một điếu ình. Tồi dần dà yêu thích chúng qua cô.
"Có vẻ như bạn anh chuẩn bị qua đông ở đây," cô nói.
"Có một đống chất đốt và thực phẩm cho cả mùa đông trong bếp. Một siêu thị thông thường."
"Nhưng không có dấu hiệu gì của cậu ta."
"Trên gác thì sao?"
Chúng tôi trèo lên cầu thang cạnh bếp. Nửa đường lên, cầu thang nghiêng về
một góc. Lên đến tầng hai, chúng tôi dường như bước vào một tầng khí
quyển khác.
Có ba phòng ngủ trên tầng hai. Một phòng lớn bên trái hành lang và hai phòng nhỏ hơn bên phải. Phòng nào cũng chỉ có ít đồ
đạc tối thiểu, phòng nào cũng u ám. Phòng lớn có giường đôi và một tủ
gương trang điểm. Giường chỉ còn trơ lại khung. Thời gian chết trong
không trung.
Chỉ có căn phòng nhỏ xa hơn là phảng phất mùi người
ở. Giường được dọn gọn ghẽ, gối hơi có vết lõm, và một bộ quần áo ngủ
màu xanh được gấp ở đầu giường. Một ngọn đèn kiểu cổ đặt trên chiếc bàn
nhỏ cạnh một cuốn sách bị lật ngược. Một cuốn tiểu thuyết của Conrad.
Cạnh giường là một chiếc tủ có ngăn kéo làm bằng gỗ sồi nặng trịch. Trong đó là một lô vật dụng gồm áo len nam, sơ mi, quần, tất và đồ lót. Áo len
và quần đã cũ, chỗ này chỗ kia bị sờn, nhưng vẫn còn tốt. Tôi thề là
trước đây đã trông thấy một số quần áo đó. Chúng thuộc về Chuột, đúng
thế đấy. Áo sơ mi có vòng cổ ba mươi tám centimet, quần có vòng eo
khoảng bảy mươi tư.
Cạnh cửa sổ là một cái bàn cũ và một cái ghế
có kiểu dáng đơn giản độc nhất vô nhị ngày nay không thường gặp nữa.
Trong ngăn kéo bàn, một chiếc bút máy rẻ tiền, ba hộp mực ống, và một bộ đồ dùng để viết thư, văn phòng phẩm chưa dùng đến. Trong ngăn kéo thứ
hai, một lượng dự trữ kẹo ngậm ho đã dùng được một nửa và các thứ đồ nhỏ lặt vặt khác nhau. Ngăn kéo thứ ba, trống không. Không nhật ký, không
sổ ghi chép, không gì hết. Hắn đã bỏ hết mọi thứ phụ. Mọi thứ đã được
cất đi. Quá ngăn nắp. Tôi quệt ngón tay lên mặt bàn, kết quả là ngón tay tôi trắng vì bụi. Không nhiều bụi lắm. Có lẽ lượng bụi sau một tuần.
Tôi kéo cửa sổ lên và mở tung cửa chớp. Mây đen bay là là đang sà xuống.
Gió đã tập hợp sức mạnh, hầu như có thể thấy được gió nhảy chồm chồm qua đồng cỏ như một con thú hoang. Xa xa là rừng cây bu lô và bên kia rừng
là núi. Khung cảnh hệt như trong bức ảnh. Chỉ khác là không có cừu.
Chúng tôi đi xuống tầng dưới rồi ngồi trên xô pha. Chiếc đồng hồ quả lắc đổ
một hồi chuông gióng giả, rồi đánh mười hai tiếng. Chúng tôi yên lặng
cho tới khi tiếng chuông cuối cùng bị nuốt chửng vào không khí.
"Chúng mình làm gì bây giờ anh?" cô hỏi.
"Chúng mình đợi thôi. Biết làm gì nữa?" tôi nói. "Chuột ở đây một tuần trước.
Đồ đạc của cậu ta vẫn còn đây. Cậu ta sẽ phải quay lại thôi."
"Nhưng nếu tuyết rơi trước khi cậu ta quay lại, chúng mình sẽ phải ở đây cả mùa đông và thời gian của chúng mình sẽ hết."
Quả vậy.
"Tai em không nói với em điều gì à?"
"Chúng hiện không hoạt động. Nếu em mở tai ra, em bị nhức đầu."
"Thế thì, anh nghĩ chúng mình cứ nghỉ cho khỏe và đợi Chuột thôi," tôi nói.
Thế nghĩa là chúng tôi không còn cách lựa chọn nào khác.
Trong khi cô vào bếp pha cà phê, tôi đảo nhanh một vòng quanh phòng khách
lớn, kiểm tra từ góc nọ tới góc kia. Lò sưởi, một lò sưởi thật vẫn đang
hoạt động đặt ở giữa bức tường chính, sạch và sẵn sàng để sử dụng. Nhưng mới đây nó không được sử dụng. Một vài chiếc lá sồi rơi vào qua đường
ống khói, nằm trong lòng lò sưởi. Một chiếc máy sưởi lớn chạy bằng dầu
đặt gần đó. Dụng cụ đo mức dầu cho thấy dầu còn đầy.
Cạnh lò sưởi là một giá sách âm tường bằng kính, đầy những sách cũ. Tôi lôi ra mấy
cuốn lật qua. Tất cả đều là sách xuất bản trước chiến tranh, hầu như
không cuốn nào có giá trị. Địa lý, khoa học, lịch sử, triết học và chính trị. Cả đống sách hoàn toàn vô dụng, có chăng là những đầu sách phải
đọc của một nhà trí thức bốn mươi năm về trước. Cũng có cả sách xuất bản sau chiến tranh, có giá trị tương tự. Chỉ có những cuốn Những cuộc đời
của Plutarch và Bi kịch Hy Lạp chọn lọc cùng vài cuốn tiểu thuyết là còn sống sót được qua sự bào mòn của năm tháng. Đây là một kinh nghiệm mới
mẻ với tôi: tôi chưa từng trông thấy một bộ sưu tập toàn những cuốn sách vô dụng mà lại khổng lồ đến thế.
Bên cạnh giá sách là một giá
trưng bày, cũng âm vào tường, trên đó là một dàn máy hifì âm thanh nổi – loa nhỏ, ampli, bàn quay – loại thông dụng vào những năm sáu tư, sáu
nhăm. Khoảng hai trăm đĩa hát cũ, cái nào cũng bị xước đến không nhận ra nổi, nhưng ít nhất không đến nỗi vô giá trị. Gu âm nhạc không bị xói
mòn như hệ tư tưởng. Tôi bật ampli đèn chân không và hạ kim xuống. Bài
Phía Nam biên giới của Nat King Cole. Bỗng nhiên căn phòng có cảm giác
như được đưa trở về những năm 1950.
Bức tường đối diện có bốn cửa sổ trượt cao hơn mét tám đặt cách đều nhau. Có thể thấy lúc này mưa
đang trút xối xả. Một màn mưa màu xám, che khuất những dãy núi phía xa.
Căn phòng lát ván gỗ, ở giữa là một tấm thảm rộng hai mét tư nhân ba mét
sáu, bên trên đặt một bộ bàn ghế phòng khách và một ngọn đèn cây đặt
trên sàn. Một cái bàn ăn đặt ở một góc phòng, phủ bụi.
Một căn phòng trống rỗng từng có người ở.
Một cánh cửa được lắp kín đáo vào trong tường mở vào một phòng chứa đồ khá
rộng. Căn phòng xếp chật ních các đồ đạc dư thừa, thảm, bát đĩa, một bộ
gậy chơi gôn, một cây đàn ghi ta, một tấm đệm, áo khoác, ủng leo núi,
tạp chí cũ. Thậm chí cả sách tham khảo thi cử cho học sinh cấp hai và
một chiếc máy bay điều khiển bằng vô tuyến. Hầu hết đều là sản phẩm của
thập kỷ năm mươi và sáu mươi.
Ngôi nhà lưu giữ mạch thời gian
riêng, giống như chiếc đồng hồ quả lắc trong phòng khách. Những người
tình cờ đi qua nâng quả lắc, và chừng nào quả lắc được lên dây, chiếc
đồng hồ tiếp tục kêu tích tắc. Nhưng khi mọi người đi hết và quả lắc
không được ngó ngàng tới, cả khối thời gian bị bỏ lại để góp nhặt dần
những gì còn sót lại của một cuộc sống đang mất dần trên sàn.
Tôi mang mấy cuốn tạp chí điện ảnh cũ vào phòng khách. Ảnh tiêu điểm trong
một cuốn là từ bộ phim Trận chiến Alamo. Bộ phim đầu tiên do John Wayne
đạo diễn với sự ủng hộ hết mình của John Ford. John Wayne nói, tôi muốn
làm một đại sử thi tồn tại mãi trong trái tim người Mỹ. Ông ta trông sến hết sức khi đội cái mũ làm bằng lông hải ly.
Bạn gái tôi trở lại cùng cà phê, rồi chúng tôi đối diện nhau uống cà phê. Những giọt mưa
thỉnh thoảng lại gõ nhẹ lên cửa sổ. Thời gian trôi qua chậm chạp trong
khi khí lạnh tràn khắp căn phòng. Ánh sáng vàng của ngọn đèn trôi quanh
phòng như phấn hoa.
"Anh mệt à?" cô hỏi.
"Chắc vậy quá,"
tôi nói, ngó lơ đãng ra ngoài cửa sổ. Chúng mình chạy quanh tìm như điên cả ngần ấy thời gian, và giờ đây chúng mình phải ngừng lại. Chưa thể
hoàn toàn quen với điều đó. Rốt cuộc thì chúng mình đã tìm được cảnh
trong bức ảnh, không có Chuột mà cũng chẳng có cừu."
"Anh ngủ chút đi. Em sẽ nấu bữa tối."
Cô mang từ trên gác xuống một cái chăn và đắp cho tôi. Rồi cô khởi động
máy sưởi chạy dầu, đặt một điếu thuốc lên môi tôi rồi châm lửa.
"Vui lên chút đi nào. Mọi việc rồi sẽ ổn thôi."
"Cảm ơn em," tôi nói.
Đến đó, cô biến mất vào trong bếp.
Hoàn toàn một mình, tôi cảm thấy người nặng trĩu. Tôi làm hai hơi rồi dập
thuốc, trùm chăn đến tận cổ, và nhắm mắt. Chỉ mất có vài giây là tôi
thiếp đi.