Gustav Schmidt,
trưởng đội chống khủng bố thuộc Cục Tình báo Liên bang Thụy Sĩ, là một
đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến chống lại Hồi giáo cực đoan. Ở một đất nước mà các chính trị gia trúng cử, giới báo chí, và phần lớn dân chúng đều chống Mỹ và cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ, Schmidt đã lặng lẽ
thiết lập những mối quan hệ cá nhân với đối tác ở Washington, đặc biệt
là Adrain Carter. Khi Carter cần giấy phép hoạt động trên đất Thụy Sĩ,
Schmidt ngay lập tức cho phép. Khi Carter muốn một phần tử al-Qaeda biến mất khỏi Liên bang, Schmidt thường bật đèn xanh cho ông ta. Còn khi
Carter cần chỗ đáp máy bay, Schmidt thường cho ông ta quyền tiếp đất.
Bãi hạ cánh tư nhân ở Zug, một thành phố công nghiệp giàu có tại trung
tâm đất nước, thường là bãi đáp ưa thích của Carter khi ông ta đến Thụy
Sĩ. Schmidt cũng rất ưa nó.
Vừa qua nửa đêm, chiếc máy bay phản
lực Gulfstream V ló ra khỏi những đám mây và hạ xuống đường bay đầy
tuyết. Năm phút sau, Schmidt đã ngồi đối diện Carter trong khoang cabin
hẹp. “Chúng tôi gặp một vấn đề”, Carter nói. “Nói thật với anh, chúng
tôi còn chưa hình dung được toàn cảnh mọi chuyện”. Ông ta đưa tay về
phía người cùng đi. “Đây là Tom. Anh ấy là bác sỹ. Chúng tôi nghĩ sẽ cần anh ta giúp trước khi qua đêm nay. Thư giãn đi, Gustav. Làm một cốc
nào. Có lẽ chúng ta sẽ phải ở đây một lúc lâu”.
Sau đó Carter
nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm tuyết rơi và không nói gì nữa. Ông ta không
cần phải nói rõ. Schmidt đã biết vấn đề là gì. Một điệp viên của Carter
đang gặp nạn, còn Carter không chắc người điệp viên đó có sống sót nổi
mà quay trở về hay không. Schmidt mở chai brandy và lặng lẽ uống. Trong
những lúc như thế này, anh ta mừng vì mình là người Thụy Sĩ.
Cùng lúc đó, nhiều người cũng đang thức khuya tại trạm hàng không chung sân
bay Kloten. Người đang chờ không phải là một cảnh sát cao cấp người Thụy Sĩ mà là Moshe, bodel (một điệp viên) đến từ Paris. Vào lúc 12 giờ 45
phút, bốn người khác xuất hiện từ phía trạm và lao mình vào cơn bão
tuyết. Moshe nhấn còi chiếc Audi A8 khiến bốn người nhất loạt quay lại
và đi về phía anh. Yaakov, Mikhail, và Eli Lavon ngồi băng sau xe.
Gabriel ngồi đằng trước.
“Cô ấy đâu?”
“Đang di chuyển về hướng Nam”.
“Cậu lái xe đi”, Gabriel ra lệnh.
Sarah thức dậy với cảm giác toàn thân lạnh buốt, tai cô ong ong vì tiếng rít
của vỏ bánh xe trên mặt nhựa đường ướt. Mình đang ở đâu đây? Cô nghĩ
thầm, sau đó nhớ lại. Cô đang ở trong thùng xe Mercedes, làm người khách bất đắc dĩ của Muhammad trong chuyến hành trình đêm đi tới sự quên
lãng. Chầm chậm, từng chút một, cô ghép lại những mẩu thông tin trong
ngày, một ngày dường như dài vô tận, rồi xếp chúng lại theo thứ tự. Zizi ngồi trên máy bay trực thăng nhìn đồng hồ đeo tay trong khi RA LÊåNH
ĐƯA CÔ VÀO TUYÊåT LỘ. Và Jean-Michel, người bạn đồng hành trong chuyến
đi, tranh thủ chợp mắt vài phút trên đường đi. Cuối cùng là tên quái vật Ahmed bin Shafiq, hắn cảnh cáo với cô rằng vụ tắm máu của hắn tại
Vatican vẫn chưa chấm dứt. Cô nghe văng vẳng bên tai giọng nói đều đều
như nhịp trống của hắn.
Tôi muốn biết tên gã liên lạc với cô trên bãi biển Saline...
Cậu ấy là Yaakov, cô nghĩ. Cậu ấy đáng giá gấp trăm lần mày.
Tao muốn biết tên con nhỏ đi khập khiễng gần LeTetou trong bữa tiệc tối của Zizi…
Cô ấy là Dina, cô nghĩ. “Người còn sống sót” đang sục sôi chí báo thù.
Tao muốn biết tên gã đàn ông đã làm đổ rượu lên đồng nghiệp của tao tại Saint-Jean…
Anh ấy là Gabriel, cô nghĩ. Một ngày không xa anh ấy sẽ đến giết mày.
Bọn họ đã đi hết rồi, mày chỉ còn một mình…
Không, tao không một mình, cô nghĩ. Họ đang ở đây cùng tao, tất cả mọi người.
Trong tâm tưởng, cô hình dung họ đang đến cứu mình trong màn tuyết rơi dày
đặc. Họ có kịp đến trước khi Muhammad đưa cô vào giấc ngủ vĩnh hằng êm
ái không? Họ có đến kịp lúc để biết về bí mật mà Ahmed bin Shafiq đã cao ngạo phun ra với cô không? Sarah biết cô có thể giúp họ. Cô có thông
tin Muhammad muốn và cô có thể khai theo nhanh hay chậm tùy mình thích,
hay theo những chi tiết cô chọn. Khai chậm thôi, cô nghĩ. Chẳng việc gì
phải vội vàng.
Khi Sarah tỉnh dậy lần tiếp theo, chiếc xe đang nổ máy rền vang. Không còn tiếng rít của bánh xe trên mặt nhựa đường ẩm
ướt nữa. Có vẻ như họ đang cày qua lớp tuyết dày trên con đường gồ ghề.
Một phút sau, điều này được khẳng định khi những chiếc bánh không còn
lăn nổi chiếc xe hơi khiến một trong những tên ngồi trong xe phải ra
ngoài đẩy. Khi chiếc xe dừng lại lần nữa, Sarah nghe tiếng Arập và tiếng Đức giọng Thụy Sĩ, sau đó là tiếng các khớp nối bằng kim loại bị đông
cứng. Họ tiếp tục lái xe một lúc lâu, rồi dừng lại lần thứ ba - theo cô
đoán đây cũng là lần cuối bởi động cơ xe hơi ngay lập tức im bặt.
Thùng xe bật mở. Hai khuôn mặt xa lạ cúi xuống Sarah; bốn bàn tay túm lấy cô
nhấc ra ngoài. Chúng dựng cô đứng thẳng rồi thả tay ra, nhưng đầu gối cô mềm nhũn khiến Sarah đổ sụp xuống tuyết. Điều này có vẻ khiến bọn chúng khoái chí, vì bọn chúng cứ đứng đó cười nhạo một lúc trước khi nhấc cô
đứng thẳng dậy lần nữa.
Sarah nhìn quanh. Họ đang đứng giữa một
bãi đất trống lớn, xung quanh sừng sững những cây thông và linh sam. Có
một ngôi nhà ván hình chữ A, mái dốc đứng và một khu nhà phụ hoàn toàn
riêng biệt. Hai chiếc jeep truyền động bốn bánh đang đỗ cạnh dãy nhà
phụ. Trời đổ tuyết dày đặc. Sarah, vẫn bị bịt mặt, cảm thấy như trời
đang rắc tàn tro xuống nơi này.
Muhammad xuất hiện, hắn gắt lên
bằng tiếng Arập với hai tên đang giữ Sarah đứng thẳng. Chúng tiến một
bước về phía ngôi nhà ván, nghĩ rằng cô sẽ đi theo. Nhưng chân Sarah
cóng lại vì lạnh nên không cất bước nổi. Cô gắng thều thào với chúng
rằng mình đang bị đông cứng tới mức sắp chết nhưng không thể thốt nên
lời, nhưng cái lạnh cũng có ích: nó làm dịu đi sự đau đớn của những cú
đấm ở mặt và bụng .
Chúng xốc nách và eo Sarah để lôi cô đi. Chân cô tạo thành hai vệt dài song song trên nền tuyết. Chẳng bao lâu chúng
như bỏng rát vì quá lạnh. Cô cố nhớ lại mình đã đi gì buổi sáng hôm đó.
Giày xăng đan đế bằng - đôi mà Nadia đã mua tặng cô tại Gustavia, nó rất hợp với bộ đồ cô mặc tới Le Tetou.
Chúng đi vòng ra phía sau
ngôi nhà ván. Ở đây, những cái cây mọc gần hơn, cách ngôi nhà chưa đến
30 thước. Một tên lính gác vừa đứng canh vừa xuýt xoa vì rét, miệng ngậm điếu thuốc còn chân dậm dậm cho bớt lạnh. Rìa mái che phủ lớp tường bọc ngoài ngôi nhà, nơi chất đầy củi đốt. Chúng kéo cô qua ngưỡng cửa xuống những bậc thang bằng xi măng. Vẫn chưa thể tự mình bước đi, hai bàn
chân tê cóng của Sarah đập vào từng bậc thang đau điếng. Cô bắt đầu rú
lên vì đau, tiếng rú nghe thắt tim, nhưng những kẻ tra tấn cô vẫn không
thèm đếm xỉa.
Chúng lôi Sarah tới một cánh cửa được khép kín và
khóa bằng khóa móc. Một tên lính gác mở khóa, đẩy cửa ra rồi bật đèn
lên. Muhammad bước vào phòng trước. Sau đó những tên lính gác mang Sarah vào.
Căn phòng nhỏ hình vuông, mỗi bề chưa đến 3 mét. Tường màu
trắng sứ. Các bức ảnh những người Arập tại Abu Ghraib. Những người Arập
đang bị nhốt tại vịnh Guantánamo. Một tên khủng bố Hồi giáo đang xách
chiếc đầu vừa bị chặt của con tin người Mỹ. Ở giữa phòng có chiếc bàn
bằng kim loại được gắn ốc vít vào sàn nhà. Ở giữa bàn có một cái móc
sắt, trên đó treo một cặp còng tay. Sarah hét lên và đấm đá bọn chúng.
Dĩ nhiên hành động đó là vô ích. Một tên đè tay cô xuống bàn, còn tên
kia đeo còng vào tay cô. Một chiếc ghế được kéo đến phía sau Sarah. Hai
bàn tay nhấn cô ngồi xuống ghế. Muhammad xé toang khăn bịt mặt rồi tát
cô hai cái.
“Mày sẵn sàng nói chưa?”
“Rồi”.
“Không nói dối nữa chứ?”
Cô lắc đầu.
“Nói đi, Sarah. Không nói dối nữa”.
“Không-nói-dối-nữa”.
“Mày sẽ nói với tao tất cả những gì mày biết chứ?”
“Tất cả”.
“Mày lạnh không?”
“Đang chết cóng”.
“Mày muốn uống thứ gì nóng không?”
Cô gật đầu.
“Trà được không? Mày uống trà nhé, Sarah”.
Cô gật đầu lần nữa.
“Mày thường uống trà như thế nào, Sarah?”
“Ông nói thật à?”
“Mày uống trà như thế nào?”
“Với xyanua 1”.
Hắn ta cười không chút xót thương. “Mày nên thấy mình may mắn đấy. Chúng ta sẽ uống trà, sau đó sẽ nói chuyện”.
Cả ba tên đều rời khỏi phòng. Muhammad đóng cửa rồi cài móc khóa lại.
Sarah gục đầu xuống bàn và nhắm mắt. Trong tâm trí cô một hình ảnh đang
hình thành - hình ảnh của chiếc đồng hồ ĐANG kêu tích tắc đếm ngược đến
lúc cô bị xử tử hình. Muhammad mang trà đến cho cô. Sarah mở lớp vỏ thủy tinh bọc ngoài chiếc đồng hồ tưởng tượng và chuyển kim đồng hồ ngược
lại năm phút.