Sáng thứ Ba
Salander vào sổ đăng ký tội phạm của cảnh sát tìm Alexander Zalachenko.
Hắn không ở trong danh sách, điều này không lạ vì theo như cô biết thì
hắn không bị kết án về một tội nào ở Thụy Điển, thậm chí còn không có ở
cả đăng ký công cộng.
Chui vào sổ đăng ký tội phạm, cô dùng căn
cước của chánh thanh tra Douglas Skiold ở cảnh sát Malmo. Cô hơi chột dạ khi thình lình máy của cô khẽ boong một tiếng và một biểu tượng trên
thanh trình đơn bắt đầu nhấp nháy ra hiệu có người đang tìm cô ở chương
trình tán gẫu ICQ.
Phản ứng đầu tiên của cô là rút phích điện tắt máy. Rồi cô nghĩ lại. Skiold không có chương trình ICQ ở máy ông ta.
Rất ít người có tuổi dùng nó.
Có nghĩa là có người đang tìm cô. Và chả có bao lăm khả năng để mà phải lựa chọn. Cô bấm chương trình ICQ đánh mấy chữ:
--- ---
Salander do dự. Trước thì Blomkvist nay lại Dịch Bệnh. Những người muốn đến cứu
cô không thể chấm hết được ư? Dịch Bệnh, vấn đề là anh ta là một vật cấm cung nặng tạ rưỡi gần như chỉ chuyên qua mạng Internet mà giao lưu với
Salander và làm cho Salander trông cứ như là kỳ quan của các cao thủ xã
hội vậy. Cô không trả lời thì Dịch Bệnh lại đánh một dòng nữa:
--- ---
Salander thoát chương trình ICQ, ngồi xuống sofa suy nghĩ. Phút sau cô gửi cho địa chỉ hotmail của Dịch Bệnh một email.
Công tố viên Richard Ekstrom, người dẫn dắt cuộc điều tra sơ bộ, sống ở
Taby. Ông ta có vợ và hai con và có một kết nối mạng với gia đình qua
băng thông rộng. Tớ muốn vào máy xách tay hay máy của nhà ông ta. Tớ
muốn đọc ông ta đúng với thời gian. Không cho tiếp cận được ổ cứng bằng
chương trình sao chép.
Cô biết Dịch Bệnh hiếm khi ra khỏi nhà ở
Sundbyberg cho nên cô hy vọng anh đã chăm bón được dăm ba đứa tuổi teen
lớ ngớ làm công việc điền dã. Không cần ký vào thư. Mười lăm phút sau đã được hồi đáp:
--- ---
Sáng thứ Năm cô
được email của Dịch Bệnh mang một địa chỉ FTP mật. Salander mừng. Cô
không ngờ chưa tới hai ngày đã có kết quả. Ở vào một thời gian mà một
phần mềm đơn giản chưa được tạo ra thì "giáp lá cà" một máy tính khác,
dù bằng chương trình xuất sắc của Dịch Bệnh cùng phần cứng do anh đặc
biệt thiết kế ra cũng là một quá trình cần cù đòi hỏi bạn phải cho các
bit thông tin trườn vào một máy tính một kilobyte cho tới khi một chương trình phần mềm đơn giản được tạo dựng. Nó được tiến hành nhanh đến đâu
tùy thuộc vào Ekstrom dùng luôn hay thưa máy tính của ông ta, và rồi
thường thường lại sẽ phải mất vài ngày nữa để chuyển tất cả các dữ liệu
sang một ổ cứng bản sao. Bốn mươi tám giờ đồng hồ không chỉ là ngoại lệ
mà còn là một điều không thể có được về mặt lý thuyết. Salander bị ngợp. Cô boong gọi ICQ của anh:
--- ---
Nghĩ
một lúc rồi cô chuyến 30.000 curon vào tài khoản của Dịch Bệnh qua
Internet. Cô không muốn anh hoảng hồn trước các khoản tiền quá nhiều.
Rồi cô thoải mái ngồi lên chiếc ghế Verksam Ikea mở máy tính xách tay
của Ekstrom.
Trong một giờ cô đọc hết các báo cáo của thanh tra
Bublanski gửi Ekstrom. Salander ngờ chuyện các báo cáo loại này về kỹ
thuật là không được phép rời khỏi trụ sở cảnh sát. Nó một lần nữa chứng
minh cho cái lý thuyết nói rằng không có hệ thống an ninh nào địch nổi
được một nhân viên ngu ngốc. Qua máy tính của Ekstrom cô lượm được vài
mẩu thông tin quan trọng.
Thứ nhất, cô phát hiện thấy Armansky đã phân công cho hai người của ông tham gia không công vào nhóm điều tra
của Bublanski, như vậy thực tế là An ninh Milton đang đỡ đầu cho việc
cảnh sát săn lùng cô. Nhiệm vụ của hai người là giúp sức bắt Salander
bằng mọi cách có thể. Cảm ơn lắm nha, Armansky. Tôi nhớ đấy nha. Khi
thấy hai người là ai, cô cau mày. Cô coi Bohman như người thẳng ruột
ngựa và ông đối xử với cô hoàn toàn tao nhã. Hedstrom thì là một gã sa
đọa không ra gì, khai thác vị trí ở An ninh Milton để lừa tiền một trong các khách hàng của công ty.
Salander có một đạo lý phân minh
rành mạch. Cô chả chống tí nào lại việc lừa tiền khách hàng của công ty - nghĩ rằng họ đáng bị như thế - nhưng cô, nếu nhận một việc mà cô cam
kết giữ bí mật thì cô sẽ không bao giờ vi phạm nó.
Salander nhanh chóng phát hiện ra người xì thông tin cho báo chí chính lại là Ekstrom. Điều này đã rõ ràng ở một thư điện tử trong đó ông trả lời các câu hỏi
truy tiếp về cả bản báo cáo tâm thần của Salander lẫn mối quan hệ giữa
cô và Miriam Wu.
Mẩu tin có ý nghĩa thứ ba là tình hình nhóm
Bublanski không biết một chút nào hết về chỗ họ cần tìm Salander. Cô lý
thú đọc những biện pháp nào đã được đem dùng và những địa chỉ nào đã
được đặt vào chế độ kiểm soát lỏng lẻo. Đó là một danh sách ngắn.
Lundagatan, dĩ nhiên, nhưng cả địa chỉ của Blomkvist, địa chỉ cũ của
Miriam Wu ở St Eriksplan và Kvarnen, nơi người ta đã thấy hai cô bên
nhau. Sao ta lại phải dây vào Miriam? Sai lầm quá.
Thứ Sáu, nhóm
của Bublanski cũng đã tìm ra mối liên hệ với Những Ngón tay Ma quỷ. Cô
nghĩ như thế có nghĩa là nhiều địa chỉ nữa sẽ bị thăm viếng. Cô cau mày. Vậy là các cô gái trong nhóm cũng sẽ tan biến đi khỏi vòng bè bạn của
cô tuy từ ngày trở về Thụy Điển cô chưa hề tiếp xúc với họ.
Càng
nghĩ về tất cả các chuyện này cô càng thấy bối rối. Ekstrom đã xì ra đủ
thứ thượng vàng hạ cám cho báo chí. Mục tiêu của ông ta đã rõ. Ông đang
xây dựng tên tuổi và vào ngày ông ban lệnh chống cô thì ông làm lễ thi
công cho công trình này.
Nhưng tại sao ông không xì ra bản báo
cáo năm 1991, bản báo cáo đã dẫn cô tới chỗ bị khóa, bị trói ở bệnh viện Thánh Stefan. Sao lại giấu đi câu chuyện này?
Cô lại trở lại máy tính của Ekstrom, soi xét từng tư liệu. Cô châm thuốc hút khi đã đọc
xong hết. Cô không tìm thấy qua một quy chiếu nào tới các sự kiện của
năm 1991 trong máy tính của ông. Chuyện này lạ, nhưng chỉ có thể giải
thích được rằng ông không biết đến bản báo cáo đó của cảnh sát.
Trong một lúc cô như thất thần. Rồi cô nhìn vào máy tính PowerBook của cô.
Đây chính là cái thứ mà tay Kalle Ba Láp Blomkvist này có thể sẽ ngoạm
sâu vào đây. Cô mở lại máy tính để vào ổ cứng của anh và tạo một tư liệu [MB2].
Công tố viên E. xì tin cho báo chí. Hỏi ông tại sao không xì bản báo cáo của cảnh sát.
--- ---
Thế là đủ để cho anh ta nổ máy rồi. Cô ngồi kiên nhẫn chờ hai giờ cho
Blomkvist vào mạng. Anh đọc email của anh và phải mất mười lăm phút anh
mới nhận thấy có tư liệu của cô và lại phải thêm năm phút nữa anh mới
hồi đáp được bằng một tư liệu [Bí ẩn]. Anh không cắn câu. Thay vì vậy,
anh lại nài rằng anh muốn biết ai đã giết bạn của anh.
Cái lý này Salander hiểu được. Cô cho mềm đi đôi chút và trả lờí bằng [Bí ẩn 2].
Nếu là tôi thật thì anh làm gì?
--- ---
Câu này ngụ ý là một câu hỏi riêng tư. Anh trả lời bằng [Bí ẩn 3]. Nó làm cô cảm động.
Lisbeth, nếu đúng thế, thì như họ đang nói là cô đã đi vượt khỏi ngưỡng, và vậy
thì cô có thể nhờ Peter Teleborian giúp. Nhưng tôi không tin cô giết Dag và Mia. Tôi hy vọng và cầu xin là tôi đúng. Dag và Mia sắp xuất bản
tường trình của họ về buôn bán tính dục. Tôi nhận thấy cái đó có thể là
nguyên nhân của vụ án mạng. Nhưng tôi chả có gì hết để đi tiếp nữa.
Tôi không hiểu đã có gì không phải giữa hai chúng ta, nhưng đã một lần
chúng ta bàn về tình bạn. Tôi nói tình bạn xây dựng trên hai cái - tôn
trọng và tin cậy. Cho dù không ưa tôi, cô vẫn có thể dựa vào tôi và tin
tôi. Tôi không chia sẻ bí mật của cô với bất cứ ai. Ngay cả đến chuyện
xảy ra với các tỉ bạc ở Wennerstrom. Tin tôi, tôi không là kẻ thù của
cô. M.
--- ---
Thoạt tiên cô cáu điên lên vì Blomkvist
nhắc đến Teleborian. Rồi cô nhận ra thấy anh chưa thử mở một trận đấu.
Anh không biết Teleborian là ai và anh chắc chỉ thấy hắn trên tivi, nơi
ông tình cờ đến như một chuyên gia có trách nhiệm, được quốc tế kính
trọng.
Nhưng điều làm cho cô thực sự choáng là việc Blomkvist
nhắc tới các tỉ curon của Wennerstrom. Cô không biết anh làm sao moi ra
được thông tin này. Cô chắc chắn tuyệt đối rằng cô không hề phạm sai sót và không ai trên thế giới này lại có thể biết được cái việc cô đã làm.
Cô đọc đi đọc lại bức thư mấy lần.
Việc nhắc tới tình bạn làm cho cô không dễ chịu. Cô không biết nên đáp lại chuyện đó như thế nào.
Một lúc sau cô tạo [Bí ẩn 4].
Tôi sẽ nghĩ đến điều đó.
--- ---
Cô tắt máy tính ra ngồi ở ghế bên cửa sổ.
Kho hậu cần pan pizza cũng như vụn bánh mì và cái vỏ pho mát cuối cùng đã
hết sạch mấy hôm rồi. Ba ngày vừa qua cô sống sót bằng một gói yến mạch
ăn liền mà cô nổi cơn lên mua với cái ý lơ mơ rằng cô cần ăn thêm thực
phẩm có nhiều dinh dưỡng hơn. Cô phát hiện thấy một cốc yến mạch, một ít nho khô cô đổ vào một cốc nước rồi cho vào lò vi sóng, một phút sau đã
hóa ra thành một suất cháo đặc nóng sốt ngon miệng.
Không phải
chỉ vì thiếu thực phẩm mà cô động binh. Cô có chuyện phải tìm. Không may nó lại không là thứ mà cô có thể làm được trong khi vẫn rúc ở trong
nhà. Cô đến tủ đứng lấy ra bộ tóc giả màu vàng và hộ chiếu Na Uy của
Irene Nesser. Quý cô Nesser không có thật trong đời. Cô có bề ngoài
giống Salander và cô đã đánh mất hộ chiếu ba năm trước. Nhờ Dịch Bệnh,
nó đã đến tay cô và khi cần đến cô đã dùng căn cước Nesser trong gần
mười tám tháng qua.
Cô tháo khoen ra khỏi lông mày, để nó lên đồ
trang điểm ở gương buồng tắm. Cô mặc quần jean sẫm màu, một áo thun ấm
áp màu nâu với một chút chấm phá màu vàng, đi bốt có đế. Cô có cả một
thùng bình xịt Mace và lấy ra một bình con con. Cô cũng tìm khẩu súng
bắn điện mà cô chưa đụng đến một năm nay rồi cắm nó vào ổ điện cho sạc.
Cô để một bộ quần áo thay vào ba lô đeo vai. 11 giờ đêm thứ Sáu, chín
ngày sau các vụ án mạng, Salander rời căn nhà của cô ở Mosebacke. Cô đi
bộ đến nhà McDonalc's trên đường Hornsgatan. Ở đây có vẻ như cô ít tình
cờ vồ phải một bạn đồng nghiệp cũ nào ở An ninh Milton ở chỗ gần Slussen hay Medborgarplatsen. Cô ăn một bánh Mac Bự và uống một lon đại Coke.
Cô lên xe bus số 4 ngang qua Vasterbron sang St Eriksplan. Cô đi bộ tới
Odenplan rồi đúng sau nửa đêm thì thấy mình ở ngoài cửa chung cư của
Bjurman trên đường Upplandsgatan. Cô tin rằng tòa nhà không bị theo dõi
nhưng cô nhìn thấy ánh đèn trong cửa sổ một căn hộ ở cùng tầng cho nên
cô đi bộ đến Vanadisplan. Một giờ sau, lúc cô quay lại, ánh đèn đã tắt.
Cô nhón đầu ngón chân lên gác, không bật đèn. Cô cắt băng dán của cảnh sát niêm phong căn hộ bằng con dao Stanley, mở cửa khẽ như tờ.
Cô
bật đèn gian sảnh, cô biết bên ngoài không nhìn thấy ánh đèn này, rồi
bật một cây bút đèn pin để vào buồng ngủ. Các bức rèm chớp đều đã được
hạ xuống cả. Cô lia loang loáng tia sáng đèn lên chiếc giường ố máu. Cô
nhớ cô đã suýt chết trên chiếc giường này và thình lình cảm thấy rất hài lòng rằng Bjurman đã ra khỏi cuộc đời của cô mãi mãi.
Cô đến đây thăm hiện trường gây án là để tìm trả lời cho hai câu hỏi. Thứ nhất, cô không biết quan hệ giữa Bjurman và Zala. Cô đinh ninh rằng có nhưng qua những gì tìm thấy ở máy tính của Bjurman thì cô không thể giải đáp được điều này.
Thứ hai là một câu hỏi cứ gậm nhấm day dứt cô. Trong
lần thăm đêm ít tuần trước, cô để ý thấy Bjurman đã lấy đi tư liệu về cô ở một cặp hồ sơ, nơi ông ta giữ tất cả tài liệu về sự giám hộ của ông.
Các trang bị mất là bản báo cáo vắn tắt của cái công ty đã làm chuyện
tổng kết tình trạng tâm thần của Salander. Bjurman không còn cần đến các trang đó nữa và có thể ông đã thanh toán hồ sơ và vất bỏ nó đi rồi.
Nhưng luật sư thường không bao giờ vất bỏ tài liệu liên quan đến một
trường hợp chưa giải quyết xong. Mà các giấy tờ này đã từng ở tệp hồ sơ
liên quan đến cô, nhưng cô không tìm thấy chúng ở bàn làm việc của ông
ta hay bất cứ đâu gần đó.
Cô thấy cảnh sát đã thu dọn đi các hồ
sơ xử lý trường hợp của cô cũng như một vài thứ khác. Cô bỏ thêm hai giờ nữa ra tìm kiếm từng li từng tí khắp căn hộ, biết đâu cảnh sát để sót
lại cái gì. Nhưng cuối cùng cô kết luận họ không để sót lại cái gì cả.
Trong bếp cô tìm thấy một ngăn kéo đựng các thứ chìa khóa cũng như một chìa
chung của chung cư, một chìa khóa móc cho tới khi tìm thấy chỗ tàng kho
của Bjurman. Trong đó có ít đồ gỗ, một tủ đầy quần áo cũ, ván trượt
tuyết, một ắc quy xe hơi, các thùng các tông để sách và vài ba đồ bà dằn khác. Cô không phát hiện ra cái gì đáng chú ý cho nên xuống gác, mở cửa vào ga ra xe bằng chiếc chìa chung. Cô lần mò ra chiếc Mercerdes của
ông rồi sau ít phút cũng không tìm thấy gì đáng giá ở đó nốt.
Cô
không ngại đến văn phòng của Bjurman. Lần đến căn hộ này ít tuần trước,
cô vừa mới đến đó và cô biết trong hai năm qua ông ta ít đến văn phòng.
Salander quay về căn hộ của Bjurman, ngồi nghĩ ngợi trên sofa. Một lúc cô đứng
lên đi lại ngăn kéo chìa khóa trong gian bếp. Cô nghiên cứu từng chiếc
chìa một. Một bộ chìa thuộc về ổ khóa cửa trước và khóa chết cứng, nhưng một chìa khác thì đã gỉ và kiểu cổ. Cô cau mày. Rồi cô ngước mắt lên
một ngăn giá bên trên quầy bếp, ở đó Bjurman để khoảng hai chục gói hạt
cây, các hạt dùng cho vườn cỏ.
Lão có một căn nhà gỗ nhỏ để nghỉ hè. Hay một miếng đất ở đâu đó. Mình quên mất chỗ này.
Cô mất ba phút tìm ra một biên lai, lâu đã sáu năm ở trong quyển sách thu
chi cho biết ông đã trả công sửa xe, lại một ít phút nữa để tìm ra một
sổ bảo hiểm cho một bất động sản ở gần Stallarholmen bên ngoài
Mariefred.
5 giờ sáng, cô dừng lại ở cửa hàng 7 - Eleven mở cửa
24 giờ tại chóp đỉnh của Hamtverkargatan mạn trên gần Fridhemsplan. Cô
mua một ôm bánh pan pizza, ít sữa, bánh mì, pho mát và một vài món chủ
yếu khác. Cô cũng mua một tờ báo sáng với một đầu đề làm cô ngẩn ra.
NGƯỜI PHỤ NỮ BỊ TRUY NÃ ĐÃ TRỐN RA NƯỚC NGOÀI?
Vì lý do nào đó tờ báo không nêu tên cô ra. Thay vào đó, cô được gọi là
"người phụ nữ 26 tuổi". Bài báo nói một nguồn tin từ cảnh sát cho hay cô ta có thể đã trốn ra nước ngoài và hiện có thể đang ở Berlin. Có vẻ
cảnh sát đã nhận được tin mảnh mách rằng người ta đã trông thấy cô ở
Kreuzberg, trong một "câu lạc bộ giải phóng phụ nữ - vô chính phủ", cô
được miêu tả là đã tụ bạ với đám trẻ liên kết với mọi thứ từ khủng bố
tới chống toàn cầu hóa và tôn thờ Satan.
Salander lên xe bus số 4 về Sodermalm, xuống xe ở Rosenlundsgatan rồi đi bộ về nhà ở Mosebacke.
Cô pha cà phê, làm một sandwich, xong xuôi thì đi ngủ.Cô ngủ một mạch
cho tới chiều. Khi tỉnh dậy, cô đánh giá tình hình vệ sinh trong nhà,
kết luận lẽ ra đã phải thay chăn gối, khăn rải giường. Cô bỏ cả tối thứ
Bảy dọn dẹp căn hộ. Cô mang thùng rác ra và nhặt nhạnh báo chí vào hai
túi nhựa, đặt chúng vào một cái tủ ở lòng giếng cầu thang. Cô gom một
đống quần áo lót và áo phông để giặt rồi một đống quần jean. Cô xếp đầy
bát đĩa vào máy rửa bát và bật máy. Rồi cô hút bụi và lau sàn nhà.
Đến 9 giờ tối thì mồ hôi tong tỏng trên người cô. Đổ đầy xà phòng tạo bọt
vào bồn tắm, cô nằm dài ra nhắm mắt nghĩ lơ ma lơ mơ. Cô tỉnh dậy lúc
nửa đêm, nước đã lạnh. Bò ra khỏi bồn tắm, lau khô người mò về giường
lăn quay ra ngủ.
Sáng Chủ nhật, mở máy tính đọc thấy tất cả các
trò ngu ngốc viết về Miriam Wu, Salander tức điên tức cuồng. Cô thấy
mình thật tệ và có lỗi. Và tội ác của Miriam chỉ vì là chỗ quen biết
của... Salander? Bạn? Người yêu sao?
Cô hoàn toàn không biết chữ
gì là thích đáng nhất để tả ra mối quan hệ của cô với Mimmi, nhưng cô
nhận ra thấy bất kỳ chữ nào mà cô chọn thì quan hệ ấy chắc chắn cũng đã
là chấm hết.
Cô sẽ phải giập thêm một cái tên ra khỏi cô, giảm
bớt đi nhanh chóng danh sách các chốn quen biết của cô. Điều đó dẫu sao
cũng đã viết lên trên báo chí, cô không thể tưởng tượng được bạn cô sẽ
lại còn muốn dính dáng chút gì nữa với một Salander tâm thần kia.
Cô khùng lên vì chuyện này.
Cô ghi vào đầu cái tên Tony Scala, tay nhà báo đã khơi mào ra tất cả, cũng quyết định một ngày sẽ đối mặt với tay phụ trách chuyên mục xấu xa đã
được in hình với một chiếc jacket kẻ ô cờ, hắn có một bài báo nhắc đi
nhắc lại cái tên gọi giễu cợt Mimmi là "con ô môi S&M".
Số lượng người Salander cần xử lý cứ lớn lên. Nhưng trước hết cô phải tìm Zala.
Điều gì xảy ra khi cô gặp hắn, cô không biết.
Blomkvist bị điện thoại gọi dậy lúc 7 rưỡi sáng Chủ nhật. Anh thò tay cầm lấy máy và ngái ngủ trả lời.
- Chào. - Berger nói.
- Ừm. - Mikael nói.
- Một mình hay có ai?
- Không may là một mình.
- Vậy thì em gợi ý là đi tắm một cái rồi uống một chút cà phê. Mười lăm phút nữa anh có khách.
- Ai?
- Paolo Roberto.
- Tay đấm bốc? Vua các vị vua ấy à?
- Anh ấy đã gọi em và nói chuyện nửa giờ.
- Sao lại ra thế?
- Sao lại gọi em ư? À, bọn này quen nhau đủ để chào nhau hê-lô, em đã
phỏng vấn anh ấy khi anh ấy đóng trong phim của Hildebrand, và trong mấy năm qua cũng có ít lần vập phải nhau.
- Anh không biết chuyện đó. Nhưng anh hỏi là tại sao lại đến thăm anh?
- Tại vì... nhưng thôi, tốt hơn là để anh ấy tự nói rõ.
Blomkvist chỉ kịp vừa tắm và mặc quần xong thì chuông cửa réo. Anh mở cửa, bảo võ sĩ quyền Anh ngồi vào bàn trong khi anh tìm một sơ mi sạch sẽ và pha
hai cà phê espresso đúp mà anh cho vào một thìa sữa. Paolo Roberto ngắm
tách cà phê, hơi bị ấn tượng.
- Anh muốn nói chuyện với tôi? - Blomkvist nói.
- Erika Berger gợi ý cho tôi.
- Tôi hiểu. Anh nói đi.
- Tôi biết Lisbeth Salander.
Blomkvist nhướng lông mày.
- Anh biết?
- Thấy Erika nói anh biết cô ấy, tôi cũng khá ngạc nhiên.
- Tôi thấy tốt nhất là anh bắt đầu nói từ đầu.
- OK. Chuyện thế này. Sau một tháng ở New York tôi về nhà vào ngày hôm
kia và thấy ảnh của Lisbeth trên tất cả các tờ báo mẹ nó trong thành
phố. Báo viết một lô các chuyện mẹ nó bậy bạ về cô ấy, và không có đứa
mẹ nó nào nói được cho một lời hay hay về cô ấy.
- Anh mới nổ mà đã ba lần "mẹ nó" rồi đấy.
Paolo Roberto cười thành tiếng.
- Xin lỗi. Tôi thực sự không nhịn được. Thật ra gọi Erika là vì tôi cần
nói mà không biết gọi ai. Do nhà báo bị chết ở Enskede làm cho
Millennium mà do tôi tình cờ lại biết Erika, thế là tôi gọi cô ấy.
- Vậy rồi?
- Cho dù Salander có bị mất trí hoàn toàn mà làm các thứ cảnh sát nói là
cô ấy làm thì cô ấy cũng phải có được cơ hội chứ. Chúng ta tình cờ có
pháp luật ở cái đất nước này, không ai bị kết tội mà lại không được có
ngày ra cãi trước tòa sất cả.
- Tôi cũng tin như thế.
-
Tôi biết điều đó qua Erika. Khi tôi gọi cô ấy, tôi nghĩ dân ở Millennium cũng đang đuổi theo Lisbeth để róc da đầu cô ấy đây, xét vì tay
Svensson kia đang viết cho anh. Nhưng Erika nói anh khẳng định Salander
vô tội.
- Tôi biết Lisbeth. Tôi thấy cô ấy không thể nào là một kẻ điên loạn giết người được.
Paolo Roberto cười tướng lên:
- Cô ấy là một con gà con mẹ nó đồng bóng... nhưng là một người tốt. Tôi khoái cô ấy.
- Sao anh biết cô ấy?
- Tôi đấm bốc với cô ấy khi cô ấy mới mười bảy.
Blomkvist nhắm mắt một lúc ngắn rồi mở ra nhìn nhà vô địch quyền Anh. Salander luôn luôn đầy bất ngờ như vậy.
- Dĩ nhiên Salander đấm với Paolo Roberto. Cùng một hạng với nhau.
- Tôi không nói đùa.
- Tôi tin anh chứ. Cô ấy một lần bảo tôi cô ấy dùng đấm để đấu với đám trẻ ở một câu lạc bộ quyền Anh nào đó.
- Để tôi nói anh nghe chuyện xảy ra làm sao. Mười năm trước, tôi làm huấn luyện viên cho đám thanh thiếu niên muốn đánh bốc ở câu lạc bộ Zinken.
Lúc ấy tôi đã có tên tuổi, người đứng đầu đám thanh thiếu niên của câu
lạc bộ nghĩ tôi sẽ có sức lôi cuốn lớn cho nên chiều chiều tôi đến đánh
đấm với bọn trẻ. Quay ra thế nào tôi ở lại đấy hết hè và cả một phần mùa thu nữa. Họ mở một chiến dịch, dán biểu ngữ bích chương lên đủ thứ, cố
dụ đám trẻ con địa phương tập quyền Anh. Họ đã thu hút được nhiều đứa
trẻ mười lăm mười sáu và cả một số nhiều tuổi hơn nữa. Hoàn toàn là
những trẻ con nhà di dân. Đấm bốc là một trò dễ dạy và dễ làm rầm rầm
lên. Hỏi tôi đi. Tôi biết mà.
- Tôi tin anh.
- Rồi một
hôm, giữa mùa hè, cô gái xương xẩu này ở đâu thòi ra không biết nữa. Anh biết cô ấy nom thế nào chứ, đúng không? Cô ấy đến câu lạc bộ nói muốn
học bốc.
- Tôi hình dung ra được khung cảnh.
- Cả đám non
chục đứa trẻ nặng cân gấp đôi và lớn nhiều hơn cô gái cười ầm lên. Tôi
cũng cười. Chẳng phải chuyện nghiêm túc mà là đùa cô ấy một tí. Chúng
tôi cũng có một lớp cho con gái và tôi đã nói một cái gì ngu ngốc rằng
bọn gà nhép chỉ được phép đấu vào các thứ Năm hay đại khái tương tự gì
đó.
- Cá là cô ấy không cười.
- Đúng, không cười. Cô ấy
nhìn tôi trừng trừng với đôi mắt đen láy. Rồi cô ấy nhặt đôi găng bốc ai vất ở quanh đó. Đôi găng không buộc thì phải và to quá cỡ tay cô ấy.
Nhưng chúng tôi không cười nữa. Anh biết ý tôi nói gì chứ?
- Nghe không thấy hay.
Paolo Roberto lại cười.
- Vì mình là huấn luyện viên nên tôi đi tới làm ra vẻ như đánh cô ấy, anh biết đấy, để nắn gân mà.
- Ái chà...
- Đúng. Bất thình lình cô ấy quất cho tôi một cú vào giữa mặt. Tôi vừa
mới đùa cô ấy và không hề chuẩn bị. Cô ấy làm liền cho hai ba quả nữa
tôi mới kịp chặn lại. Muốn gì thì cô ấy không có thể lực cho nên đánh
cũng như bằng lông thế thôi. Nhưng khi tôi chặn lại thì cô ấy thay đổi
chiến thuật. Cô ấy bốc theo bản năng, đấm trúng thêm vài quả nữa. Rồi
tôi tập trung chặn đỡ và phát hiện thấy cô ấy nhanh hơn mẹ nó con thằn
lằn. Nếu cô ấy to hơn, khỏe hơn, tôi đã có một ván đấu bữa ấy.
- Tôi không lạ.
- Rồi cô ấy lại đổi chiến thuật và quạng cho tôi một cú trúng ngay chỗ hiểm. Cú này thì tôi ngấm đòn.
Blomkvist ngượng nghịu cau mặt.
- Rồi tôi đánh lại, trúng mặt cô ấy. Tôi muốn nói là không hẳn là một cú
đấm mạnh hay gì đó mà chỉ là một cái độp nhẹ. Rồi cô ấy đá vào tôi. Muốn gì thì là hoàn toàn ngông rồ rồi. Tôi to gấp ba, nặng 17d5 gấp ba và cô ấy chả có cơ may nào vậy mà cô cứ uýnh tôi tựa như mạng sống của cô ấy
nó trông chờ ở đấy vậy.
- Anh đã chọc giận cô ấy.
- Sau
tôi mới nhận ra. Và tôi xấu hổ. Tôi muốn nói là chúng tôi rong cờ gióng
trống, thượng biểu ngữ bích chương để cố hút đám trẻ vào thì đây cô ấy
đến xin học đánh nghiêm túc và rồi cô ấy lại đâm sầm phải một đám đàn
ông đàn ang đứng đó trêu đùa cô ấy. Bị đối xử như thế tôi cũng mất kiềm
chế như cô ấy thôi.
- Nhưng ta phải nghĩ kỹ rồi hãy uýnh chác với Paolo Roberto chứ!
- À, vấn đề của Salander là quả đấm không mùi mè gì. Cho nên tôi bắt đầu
tập với cô ấy. Chúng tôi cho cô ấy vào lớp con gái trong chừng hai tuần, cô ấy thua dăm ba ván vì sớm muộn thì một người nào đó cũng sẽ ăn đòn
thôi, lúc ấy chúng tôi như kiểu dừng lại đưa cô ấy đến một phòng có
khóa, vì cô ấy khùng đến nỗi bắt đầu cả đá lẫn cắn, cứ đánh vung bọn tôi lên.
- Nghe ra thì đúng chất Lisbeth đấy.
- Cô ấy không bao giờ bỏ cuộc. Nhưng cuối cùng cô ấy làm quá nhiều đứa con gái ngán ngẩm nên huấn luyện viên đá cô ấy ra.
- Rồi thì?
- Hoàn toàn không thể đấu bốc với cô ấy. Cô ấy chỉ có mỗi phong cách mà
chúng tôi gọi là Phương thức của Kẻ Tiêu diệt. Cô ấy cứ là cố chẹn cứng
đối phương lại, bất kể đó là khởi động hay đấu giao hữu. Đám con gái về
nhà đều bị băng bó vì bị cô ấy đá. Lúc ấy tôi bèn có một ý. Tôi có
chuyện với một thằng tên là Samir. Nó mười bảy, ở Syrie đến. Tay bốc
tốt, người tập tành vạm vỡ, nó có quả đấm táp mặt tốt... nhưng nó lại
không di chuyển được. Nó cứ đứng im suốt trận. Thế là tôi bảo Salander
đến câu lạc bộ một buổi chiều vào lúc tôi đang dạy Samir. Cô ấy thay
quần áo và lên đài với cậu ta, mũ bảo vệ đầu, che miệng đủ lệ bộ. Thoạt
đầu Samir không chịu đánh vì cô ấy như mẹ nó "con gà nhép", nó phun ra
tất cả các lời lẽ bố láo của bọn ta đây đàn ông thường dùng. Tôi bèn bảo cậu ta, nói to cho ai cũng nghe thấy, đây không là trận đấu và tôi đặt
giải 500 curon là cô ấy sẽ chẹt cứng khư được cậu ta. Với Salander thì
tôi nói đây không là buổi tập và Samir có thể đánh cô sứt đầu mẻ trán
máu me đầm đìa. Cô ấy nhìn tôi không tin. Samir còn vẫn đứng đó bô lô ba la thì chuông réo. Lisbeth hiên ngang đi đến đấm một quả vào mặt cậu
ta, khiến cậu ta ngã phệt đít xuống. Đến lúc này tôi dạy cô ấy đã cả một mùa hè rồi, cơ bắp cô ấy đã bắt đầu cứng cáp và quả đấm đã có một ít
sức lực.
- Tôi cá là chàng trai người Syrie của anh thích.
- À, sau đó cả tháng liền bọn họ vẫn còn nói đến trận đánh tập này. Samir bị rách môi. Cô ấy thắng điểm, cô ấy có sức lực, hơn nữa cô ấy thực sự
có thể làm cho cậu ta bị thương. Sau đó Samir thất vọng quá đến nỗi cậu
ta bắt đầu đánh vung lên thật lực. Tôi sợ chết lên vì cậu ta có thể
giáng cho một thôi và chúng tôi phải gọi xe cứu thương đến. Cô ấy bị vài vết bầm tím khi chặn vài cú đánh bằng vai, còn cậu ta thì muốn dồn cô
ấy vào dây thừng quanh đài vì cô ấy không chịu nổi sức mạnh cậu ta đấm.
Nhưng đúng là không có chỗ nào mà bảo được rằng cậu ta đã suýt đánh
trúng cô ấy.
- Giá mà tôi được xem trận ấy.
- Hôm ấy đám
con trai câu lạc bộ bắt đầu vị nể Salander. Và đặc biệt Samir. Thế là
tôi bắt đầu đưa cô ấy lên đài đánh đấm với bọn lớn hơn, nặng hơn rất
nhiều. Ấy là vũ khí bí mật của tôi và đó là cách tập luyện lớn. Chúng
tôi bố trí các lớp sao cho mục tiêu của Salander là quạng trúng được năm quả vào các chỗ khác nhau trên cơ thể - hàm, trán, dạ dày... Bọn con
trai đấu với cô phải tự vệ và phải chống đỡ ở các chỗ đó. Hóa ra đấu bốc với Salander lại thành ra một thứ gây dựng tên tuổi. Y như chơi nhau
với một con ong vò vẽ vậy. Chúng tôi thật lòng gọi cô ấy là "vò vẽ", cô
ấy trở thành tay đấu cưng của câu lạc bộ. Tôi nghĩ cô ấy cũng thích câu
lạc bộ vì một hôm cô ấy đến tập, cổ có xăm một con ong vò vẽ.
Blomkvist mỉm cười. Anh nhớ khá rõ con vò vẽ. Nó là một phần miêu tả của cảnh sát về cô.
- Việc ấy kéo dài được bao lâu?
- Mỗi tuần một tối trong ba năm. Ở đấy tôi chỉ làm trọn thời gian trong
mùa hè còn sau đó thì thưa thớt. Người huấn luyện tiếp Salander là huấn
luyện viên trẻ Putte Karlsson. Rồi Salander đi làm, không thường xuyên
đến nữa, nhưng tới năm ngoái thì cô ấy ở đấy ít nhất một tháng một lần.
Một năm tôi gặp cô ấy vài lần và có những buổi tập đấu với cô ấy. Tập tử tế, sau đó cả hai đều đổ mồ hôi. Cô ấy ít nói chuyện với ai. Khi không
tập đấu thì cô ấy tập trong hai giờ với túi nặng, tập hết cường độ tựa
hồ nó là kẻ thù của cô ấy vậy.