Không tìm kiếm được một sự bảo đảm vững chắc cho hậu phương ở thủy quân,
Quang Toản đành tạm gác chuyện mạo hiểm xuất binh đánh Gia Định. Sức ép
từ việc tăng giá gạo khiến Quang Toản phải tiếp tục đau đầu tìm giải
pháp ở những cách khác. Mà chuyện đầu tiên là thành lập thương đoàn mậu
dịch, dưới sự gợi ý của Quang Toản ngày 11/11/ 1796 Phạm Viễn cho thành
lập thương đoàn mậu dịch đầu tiên với tên gọi Thương Đoàn Thuận An, có
năm chiếc thương thuyền lớn, vài chiếc thương thuyền nhỏ, Phạm Viễn đang đặt không ít thương thuyền loại 300 tấn ở Quảng Nam, cứ cách bốn tháng
sẽ có một loạt thương thuyền mới ra nhập đội ngũ thương đoàn Thuận An,
tương lai không ngừng lớn mạnh. Tạm thời phân ba chiếc thương thuyền lớn đi Châu Âu và thế giới Ả Rập, một chiếc đi hướng Đông Á (Triều Tiên,
nhà Thanh, Nhật), chiếc còn lại đi hướng Châu Mỹ. Mục tiêu của thương
đoàn Thuận An trước mắt không chỉ kiếm lời mà nhằm thu thập hàng hóa
nguyên vật liệu cần thiết cho Đại Việt vào lúc này, thu mua lương thực,
tơ nguyên liệu, đặc sản quý hiếm của vùng Đông Á, Mua trang thiết bị,
hóa chất, thép tốt, giống vật cung cấp sức kéo của Châu Âu, các loại
kháng sản quý hiếm, giống cây trồng công nghiệp của Châu Mỹ. Đặc biệt là cao su và caffe. Cảm thấy năm chiếc thương thuyền lớn vẫn chưa đủ dùng, Quang Toản dự định mua thêm nhưng trong túi quả thật chẳng còn tiền dư.
Mỗi năm mất mười triệu lượng để duy trì hoạt động di dân khai hoang, mất hai triệu lượng để bỏ vào bộ hộ trả lương cho quan lại chức sắc, mất
thêm một triệu lượng để nuôi đội quân mười vạn người, chưa tính chi phí
để xây dựng các công trình thành trì, cảng biển đường sá. Tính sơ ra mỗi năm hắn phải chi ra hơn hai mươi triệu lượng bạc để duy trì cho cả nước hoạt động nhộn nhịp như hiện nay.
Các hạng mục đầu tư như, xi măng, luyện thép, dệt lụa, thương mại trên
biển, vẫn đang rất nhỏ lẻ, chỉ đủ khả năng nuôi lớn chính mình mà chưa
hề sinh lời, Quang Toản đành phải phụ thuộc chủ yếu vào khai khoáng,
gương thủy tinh hai cái, do nâng cao sản lượng gương thủy tinh quá mức,
theo nhìn nhận, chỉ sau năm năm nữa thị trường sẽ có xu hướng bão hòa,
giá cả sẽ không còn được giữ nguyên như hiện tại, còn công nghiệp khai
khoáng có vẻ như đang ngày càng thể hiện được chỗ đứng của mình, sản
lượng tăng cao theo từng ngày, Quang Toản đưa một lượng lớn tiền đồng
vào nhà Thanh khiến hắn thu về được khá nhiều vàng bạc, trung bình một
triệu lượng mỗi tháng nên biết bạc cùng vàng lúc này chính là tiền tệ
chung cho cả thế giới.
Nguyễn Tông Phú đề nghị hắn cho đúc tiền bằng bạc để tiện trong việc
giao thương buôn bán mậu dịch với nước ngoài, Quang Toản cũng nghĩ như
vậy nhưng cảm thấy thời cơ còn chưa tới, hắn cần một cơ cấu ngân hàng
trung ương đủ lớn mạnh, tiền trang dưới sự quản lý của Nguyễn Tông Phú
mới chỉ dừng ở mức độ đổi tiền, và nhận tiền gửi, nó chưa phát triển
thành một ngân hàng đúng nghĩa. Quang Toản lại không quá rành rọt về vấn đề này, nên đặc cách cho Nguyễn Tông Phú và ba mươi quan chức bộ hộ trẻ tuổi khác lên đường sang Châu Âu học tập cách làm ngân hàng ở bên đó,
cách nhanh nhất để hoàn thiện mình là nhìn vào những người xung quanh,
đây là câu nói Quang Toản vẫn luôn quan niệm.
Quang Toản ầu rầu vì chuyện giá cả lương thực trong nước tăng, một phần
cũng muốn tránh mặt đám người ở Viện Sùng Chính, hắn chán nản đi đến
Vùng Cấm 2 thị sát,chủ yếu vẫn là nói chuyện với Thomas, đương nhiên,
chủ đề vẫn xoay quanh chuyện nghiên cứu, mỗi lần như vậy Thomas nhận
được không ít giải pháp hay đến từ Quang Toản mà trước đó đối với lão
lại là chuyện phiền não bằng trời, nên mỗi lần Quang Toản đến lão bỏ
ngang chuyện nghiên cứu của mình dành thời gian hai người bàn bạc.
Sau thành công của loại thuốc súng mới ở phòng thí nghiệm, Quang Toản
lệnh cho lão tìm cách đưa nó từ phòng thí nghiệm ra sản xuất thực tế,
bởi vì cứ không phải điều chế thành công ở phòng thí nghiệm là hiển
nhiên sản xuất ào ào được đấy, từ phòng thí nghiệm để đến được với xưởng sản xuất cần một quá trình nghiên cứu sắp xếp giai đoạn, lên hệ thống
sơ đồ vô cùng khoa học rồi mới tính tiếp chuyện khác. Quang Toản lại
chẳng biết mấy việc này, vì thế giới trước hắn chỉ học ở mức độ phòng
thí nghiệm, còn việc đưa vào sản xuất như thế nào, trước khi hắn ra đời
người ta đã có nhà máy sản xuất hàng loạt xuất hiện ở hầu hết các quốc
gia rồi, chẳng cần đến một tay gà mờ học vẹt như hắn đi tìm hiểu quy
trình sản xuất công nghiệp. Với lại thầy giáo cũng chỉ hỏi đến đó.
(Hehe)
Khi Quang Toản nhắc đến chuyện giá lương thực tăng cao và phản ứng của
người dân trong nước, Thomas nghĩ một chút rồi đưa ra một đề nghị khiến
Quang Toản như được khai sáng tầm mắt chính trị.
lão nói không quá rành mạch:
“Ở Châu Âu sản lượng lương thực thấp, nên giá lương thực trong nước lên
xuống là chuyện bình thường, những lúc giá lương thực tăng quá cao,
người dân tỏ ra phàn nàn, Hoàng Đế sẽ nói giá lương thực tăng cao là do
nước láng giềng giở trò xấu, chính vì vậy phải xuất quân chinh phạt, nhờ đó mà dư luận chuyển hướng sang hướng khác.”
Quang Toản nghe đến đây liền thấy đầu mình được khai sáng hơn rất nhiều, vỗ bàn đứng dậy, quả đúng là thế, cách tốt nhất bây giờ mà Quang Toản
có thể làm là hướng dư luận đến một chủ đề khác, và chính hắn phải có
một chiến thắng về mặt quân sự, nhằm củng cố địa vị của mình, thu phục
lòng người. Chiến tranh phục vụ cho mục đích chính trị, có lẽ trước đây
hắn không quá hiểu rõ khái niệm này nhưng lúc này đây đang cần đến nó.
Quang Toản lúc này đây cần một chiến thắng vang dội, để xây dựng mình
thành biểu tượng của anh hùng, một biểu tượng cho sự chiến thắng trong
lòng dân chúng, đối với quan lại và thuộc hạ, chiến thắng đưa hắn trở
thành lãnh tụ, chứng minh khả năng lãnh đạo của Quang Toản trong lòng
họ, còn đối với kẻ địch tạo nên sự kiêng dè cho những ai muốn nhòm ngó.
Chính tất cả những điều trên làm nên một tượng đài Quang Trung trong
lòng người dân Đại Việt, và nay Quang Toản cũng muốn mình được đứng
chung với tượng đài đó. Quang Toản suy ngẫm, cảm thấy đây chính là ‘Gió
Đông’ mà lâu nay vẫn đang chờ đợi, một bước ngoặt làm thay đổi Đại Việt, để làm nên nó hắn cần một chiến thắng.
Nhưng kiếm ai để khai đao vào lúc này, Phía bắc có giặc thắt bím nhà
Thanh, Phía Tây có Xiêm là kẻ thù cũ, trong nước bắc có nổi loạn của
người Nùng, Nam có Chúa Nguyễn là mối đe dọa trực tiếp cho triều đại.
Bất cứ ai trong bốn mục tiêu này đều khó nuốt, cuộc nổi loạn của người
Nùng có vẻ dễ hơn cả khi muốn tìm một chiến thắng nơi đây, nhưng chiến
thắng đó, Quang Toản cũng không nghĩ nó đủ sức oanh động để tạo gió. Nhà Thanh không nên nghĩ đến vào lúc này, Xiêm lại khá xa, viễn chinh khi
này là điều tối kỵ. Chỉ còn mục tiêu là chúa Nguyễn ở Gia Định, Quang
Toản xét về nhiều mặt, cảm thấy đây là mục tiêu hợp lý nhất, dốc đủ tài
lực vật lực hắn không tin Nguyễn Ánh có thể chống cự được bước tiến của
Tây Sơn.
Nghĩ là làm, Quang Toản cho Đào Công Giản thay thế vị trí chỉ huy của
Nguyễn Văn Lộc đang luyện thủy quân ở Thị Nại, hạ chỉ để Nguyễn Văn Lộc
rút từ binh thủ thành Quy Nhơn ngàn pháo thủ, lại chuyển cho ông ba trăm xe pháo ngày, bí mật lập cứ điểm ở ngoại thành Quy Nhơn gấp rút luyện
tập chuẩn bị xuất trận.
Lại hối thúc hai chiếc tàu chiến mới mua, gấp rút hội quân với thủy quân của tướng Đặng Xuân Bảo, bắt lão cho binh sĩ luyện tập, không tiếc tiền của, ngày đêm xạ kích, còn cho lão vạn quả lựu đạn. Thủy Quân là cái mà Quang Toản lo nhất.
Hối thúc Nguyễn Văn Bưu đem 500 kỵ binh về thành Phú Xuân hợp chung với
tân quân Lạc Việt tạo thành tiểu đoàn thứ năm. Rút thêm 1000 quân từ
thành Phú Yên về bổ sung vào đội binh bảo vệ hậu cần của tướng Bùi Thị
Xuân, lệnh cho tướng Xuân tập kết quân lương vũ khí đi trước vào cứ điểm Ninh Hòa.
Việc này không thể không kinh động đến các đình thần, lại hay tin Quang
Toản muốn ngự giá thân chinh đợt này, một số quan quân tỏ ý khuyên hắn
không nên tự thân ra trận, song dù thế nào cũng không lay động được
hắn, triều thần rút kinh nghiệm từ lần trước nên không tiếp tục kiên
trì, sợ Quang Toản lại tạo ra những quyết định kiên thiên động địa làm
đảo lộn hết tất cả.
Đang trong lúc bộ máy chiến tranh chuyển động, chỉ chờ ngày hắn ngự giá
thân chinh liền nhận được tin tình báo đến từ Trần Đình Tâm, Quang Toản
xem xong liền ngã ngửa một hồi lâu, bắt y đi xác nhận lại thêm lần nữa
sau đó thấy kết quả so với ban đầu càng thêm rõ ràng, chẳng chút sai
lệch.
Quân lực của Chúa Nguyễn Ánh vào lúc này:
Bộ binh:
24 đội kỵ binh 6.000 người
16 đại đội tượng quân (200 voi) 8.000 người
30 đại đội pháo binh 15.000 người
25 liên đội (mỗi đơn vị 1.200 người)
võ trang súng tay (súng kíp) 30.000 người
Khinh binh võ trang gươm giáo và súng mồi (súng hỏa mai) 42.000 người
Chưa kể trong đó quân địa phương, nếu tính cả, quân số có thể lên đến
hai lăm đến ba mươi vạn, nhiều gấp ba lần so với trước đó Quang Toản ước tính 12 vạn cả thảy.
(Đây không phải con số tác giả ghi khống mà lấy từ tài liệu tham khảo
của John Barrow người đi theo sứ bộ Macartney, lấy tài liệu của L.
Barizy để ghi quân số Gia Định, theo nhà sử học tác giả Tạ Chí Đại
Trường, mặc dù chính tác giả cũng bất ngờ trước những con số này, nhưng
để tô đậm khó khăn cho nvc liền quyết định chấp nhận nó.)
15000 pháo binh, 30000 quân dùng súng kíp, 200 tượng binh, kỵ binh 6000, chỉ cần lực lượng này dùng hợp lý, không giao nhầm vào tướng chỉ huy
quá ngu, nó đủ đánh vào tận Phú Xuân thống nhất lãnh thổ rồi. Trong khi
đó dưới tay Nguyễn Phúc Ánh có không ít tướng tài, trung thành với ông
ta. Phải kể đến nhất là, tiền quân Nguyễn Văn Thành, Tả quân Lê Văn
Duyệt, Hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức, Hậu quân Võ Tánh, Nguyễn Văn Trương,
Nguyễn Văn Nhơn, Trương Tấn Bửu. Riêng bảy người này xét về tài cầm
quân, sự trung thành lẫn thông minh tài trí chẳng ai thua kém với thất
hổ tướng Tây Sơn cả.
Nếu xét về thủy quân, Nguyễn Ánh nắm trong tay lực lượng thủy quân áp
đảo, nhiều tàu chiến lớn, và đông đúc lại có tướng Nguyễn Văn Trương là
một chỉ huy thủy quân giỏi, người xóa sổ thủy quân Tây Sơn ở cửa biển
Thị Nại năm 1781, khiến cho từ đó thủy quân Tây Sơn chẳng thể ngóc đầu
lên được.
Hắn không hiểu tại sao khi Nguyễn Ánh đã nắm trong tay quân lực mạnh như vậy, phía sau lại cả một vựa lúa to đùng, không sợ thiếu lương thực,
không thiếu tướng giỏi nhưng vẫn án binh bất động cả năm nay, kể đến khi phá thế bao vây của Võ Văn Dũng cũng không dồn lực đem quân truy kích.
Nếu như Nguyễn Ánh làm như vậy, Quang Toản quả thật phải luống cuống tay chân rất nhiều.
Quang Toản so sánh lực lượng đôi bên cảm thấy với số quân trong tay,
việc giành lấy một chiến thắng trước Nguyên Ánh là rất khó khăn, xem ra
Võ Văn Dũng thua trận rồi quả không oan, vẫn luôn nói, ‘biết địch biết
ta trăm trận trăm thắng’ nay lão kiêu ngạo, hùng hục cầm binh ra chiến
trường mà chẳng hay biết gì về lực lượng chân chính của đối thủ, chính
hắn, và cả đình thần Phú Xuân trước đây đều đánh giá thấp sức mạnh của
đối thủ, chỉ nhìn thấy được sự yếu kém về thủy quân mà không nhìn thấy
được toàn diện., dường như mặt nào cũng yếu.
Có thể quân Tây Sơn anh dũng thiện chiến hơn, kinh nghiệm đánh trận của
tướng lĩnh nhiều hơn, nhưng bù lại Nguyễn Ánh có đầy đủ binh lực, tài
lực để tiêu hao trong các cuộc chiến, lại có được trang bị vũ khí hiện
đại hơn, bộ binh của Gia Định đông đảo gấp ba lần, tượng binh chẳng còn
thua kém, về kỵ binh lại hơn quá nhiều, tướng lĩnh không thiếu người
tài, chỉ là chưa có cơ hội dương danh như tướng của Phú Xuân mà thôi.
Về mặt vũ khí, Quang Toản vừa mua được hai tàu chiến tuyến hạng trung
của Tây Âu, ba trăm chiếc xa pháo nhẹ nhàng di chuyển trên chiến trường, mười ngàn quân vừa trang bị súng kíp loại tốt nhất hiện nay, trong đó
tân quân chiếm hai ngàn, được huấn luyện chiến thuật tấn công hoàn toàn
mới chưa từng có. Đem so sánh với lực lượng của Gia Định, họ cũng có tàu chiến hạng trung của Bồ Đào Nha, do thủy thủ, và sĩ quan người Bồ chỉ
huy, trong khi tàu chiến của Phú Xuân chỉ mới mua về huấn luyện chưa
được một tháng, Nguyễn Ánh có 30 đại đội pháo binh, với vài ngàn chiếc,
ngoài pháo đặt cố định trên tường thành, có cả xe pháo mua từ người Bồ,
người Pháp, chất lượng nòng pháo tốt hơn hẳn pháo mới của Phú Xuân, địa
hình Đại Việt nhiều đồi núi, pháo nào di chuyển cũng khó khăn và bất lợi như nhau. Riêng về bộ binh Gia Định có 30000 quân trang bị súng
kíp,súng hỏa mai từ lâu, ở Phú Xuân có 10000 người dùng vũ khí này đang
trong quá trình huấn luyện.
Hai vạn quân đang đóng ở Ninh Hòa, hai ngàn thủy quân của tướng Đặng
Xuân Bảo, một ngàn pháo thủ của Nguyễn Văn Lộc, hai ngàn năm trăm tân
quân Lạc Việt, ba ngàn quân rút từ Quy Nhơn, tổng lại chỉ được 28500
người, đây là tất cả binh lực mà Quang Toản có thể dùng để đánh vào Gia
Định lúc này, nhằm hy vọng tạo nên chiến thắng mong đợi mà hắn cho là
‘Gió Đông’. Trong khi đó đối thủ nắm trong tay 250000 quân, về vũ khí,
chiến lược, hay thời cơ, con người chỉ có hơn chứ chẳng kém Quang Toản
bất cứ mặt nào. Dường như thiên thời địa lợi nhân hòa đều quay lưng lại
với hắn, phân tích rõ tình huống xong Quang Toản muốn khóc cũng không ra nước mắt. Đành một lần nữa lệnh cho các nơi tiếp tục huấn luyện, chờ
tin mới, ba quân chờ tin mới từ hắn, hắn chờ tin mới từ Trần Đình Tâm. Ý nghĩ xuất quân đánh Gia Định lần thứ hai bị dập tắt, lần đầu do ta quá
yếu còn lần này do địch quá mạnh.