Thục Ngọc đại Công chúa hé miệng cười, “Chẳng có gì là phiền cả, dù sao ta ở nhà cũng nhàn rỗi, cũng không phải làm gì cả.”
Thục Nhàn đại Công chúa hồi phủ.
Triển Thiếu Hi đang ở hoa viên dọn dẹp những gốc hoa quỳnh bảo
bối của hắn, nghe nói Công chúa lão bà đã về, hắn liền đi rửa tay rồi đi gặp lão bà.
“Đã về đến rồi à, Đức mẫu phi thế nào rồi?” Triển Thiếu Hi hỏi một cách thân thiết.
Thục Nhàn đại Công chúa được Đức thái phi sinh ra và nuôi dưỡng
từ nhỏ, Đức thái phi chỉ có một nữ nhi nên yêu thương như trân bảo. Sau
khi Thục Nhàn đại công chúa xuất giá thì Đức thái phi vẫn ở trong hậu
cung, hầu hạ bên cạnh Thái hoàng thái hậu. Thục Nhàn đại công chúa nhớ
thương mẫu thân nên thường xuyên tiến cung thỉnh an Vệ thái hậu và Thái
hoàng thái hậu, rồi thuận đường đi thăm mẫu thân.
Nghe thấy trượng phu hỏi như thế thì Thục Nhàn đại công chúa mỉm cười nói, “Khí sắc của mẫu phi cũng không tệ.” Sau khi Minh Trạm đăng
cơ thì chưa từng bạc đãi cung phi, đương nhiên cũng không đặc biệt chiếu cố, dù sao Đức thái phi chỉ là thiếp của Phượng Cảnh Kiền mà thôi, Minh Trạm có mẫu thân của mình, lúc trước hắn cũng không có giao tình gì
nhiều với Đức thái phi.
Thục Nhàn đại Công chúa phát sầu, “Cũng không biết đến khi nào mới có thể đón mẫu thân về phủ để phụng dưỡng đây.”
Trong hậu cung, những thái phi thái tần có nữ nhi thì có thể
theo nữ nhi xuất cung sau khi tân hoàng đăng cơ. Chẳng qua tình huống
hiện tại rất đặc biệt, mặc dù Thái thượng hoàng đến Vân Quý nhưng lão
nhân gia vẫn còn sống khỏe mạnh, Thái phi thái tần cũng không phải quả
phụ. Còn nữa, Minh Trạm làm Hoàng đế thì cũng không thể thẳng thắn mở
miệng đòi tống xuất tất cả thái phi thái tần. Nếu không thì sẽ mang
tiếng là đuổi cổ phi tần của Thái thượng hoàng ra khỏi cung.
Cho nên khi Minh Trạm đăng cơ thì chỉ để đám phi tần ở trong cung, không đề cập đến chuyện để các Công chúa phụng dưỡng bọn họ.
“Bằng không để ta đi tìm Chung thần tiên bói thử một quẻ.” Thục Nhàn đại Công chúa hỏi Phò mã Triển Thiếu Hi.
Lần trước Triển Thiếu Hi vì giúp Tăng Tĩnh mà bị đập đầu ở phủ
Từ Tướng, sau khi xem ngự y thì liền ở hẳn trong nhà, dưỡng hai tháng,
nay trên trán vẫn còn hằn một vết sẹo dài nhợt nhạt. Nghe thấy lời của
Công chúa lão bà thì Triển Thiếu Hi vội nói, “Nàng đừng tin lời của đám
đạo sĩ gì đó, thay vì đi tìm đạo sĩ thì không bằng hỏi thử bệ hạ. Ta
thấy bệ hạ cũng không phải người không thông tình đạt lý.”
“Lần trước đại tỷ vì chuyện của phu gia mà bị Thái hậu oán
trách, mất hết cả thể diện.” Thục Nhàn đại công chúa thở dài, “Ta cũng
không phải người sĩ diện, chỉ sợ hé miệng ra không chỉ khiến Thái hậu và Hoàng thượng khó chịu, mà còn phiền hà mẫu phi. Mẫu phi cũng khuyên ta, bảo rằng ở trong cung cũng không sao.”
Triển Thiếu Hi lắc đầu, “Lúc trước nếu không phải Hoàng thượng
cực lực yêu cầu hủy bỏ chế độ tuyên triệu của phủ Công chúa thì ta cũng
không thể dọn đến đây sống cùng nàng. Ta thấy Hoàng thượng đặc biệt
thương tiếc nữ nhi. Hoàng thượng rất hiếu thảo đối với Thái hậu, nay
nàng cũng là vì chữ hiếu, chỉ hỏi một câu thôi cũng là thường tình.
Hoàng thượng sẽ không trách tội đâu. Nhưng nếu nàng cầu thần bái phật
đem chuyện này hỏi người bên ngoài, nếu rơi vào tai của Hoàng thượng và
Thái hậu thì sẽ khiến Hoàng thượng và Thái hậu đa tâm đó.”
Thục Nhàn đại Công chúa soi gương, tháo xuống vài sợi chuỗi hoa
lệ, miệng thì nói với Triển Thiếu Hi, “Hoàng thượng cũng rất có hứng thú đối với Chung thần tiên mà, còn bảo tam muội giúp đỡ hỏi thăm xem Chung thần tiên có pháp thuật hay không?”
“Khả liên dạ bán hư tiền tịch, bất vấn thương sinh vấn quỷ
thần.” Triển Thiếu Hi thở dài, “Nếu Hoàng thượng có hứng thú đối với
loại huyền học như vậy thì đây không phải điềm lành.” (Nửa đêm nơi án
sách thấy trống trơn, không hỏi nhân thế lại hỏi quỷ thần)
Thục Nhàn đại Công chúa vội vàng hạ xuống sắc mặt, “Phò mã,
chàng nói bậy bạ gì đó. Hoàng thượng chỉ hỏi vậy thôi, với lại Chung
thần tiên quả thật có chút đạo hành mà.”
Triển Thiếu Hi giễu cợt, “Cũng chỉ có nữ nhân như các nàng mới
thích thắp hương bái Phật. Nếu để ta nói thì người chân chính tu đạo chỉ chú ý lục căn mà thôi, có ai lại xuống trần gian mà theo đuổi hư danh
như vậy chứ. Bất quá chỉ là dụ người, bỏ chút bạc nghe hắn nói cho vui
thì không sao, đừng tưởng thật là được.”
Thục Nhàn đại công chúa nghe Triển Thiếu Hi nói như vậy thì liền im lặng.
Nàng không thể nói với Triển Thiếu Hi, nàng thành thân trước
Minh Diễm, nay Minh Diễm đã có hai nhi tử hai nhi nữ, ở đế đô này người
nổi danh có phúc nhất chính là Minh Diễm. Từ khi Thái Dương đại trưởng
Công chúa nhanh tay lẹ thay nhi tử thú Minh Diễm về phủ thì tước vị Thọ
An Hầu đã sớm rơi vào tay Phùng Thiệu Minh, Phùng Thiệu Minh lại được
Hoàng thượng trọng dụng. Bản thân Minh Diễm cũng không chịu thua kém,
một hơi sinh hạ hai nhi tử hai nhi nữ, kể từ khi Minh Trạm đăng cơ thì
địa vị của Minh Diễm cũng lên như diều gặp gió.
Tất nhiên Minh Diễm không thể sánh bằng Minh Kỳ, bất quá Minh Kỳ không ở đế đô.
Minh Diễm là đại tỷ của Hoàng thượng.
Nay Thục Viện đại Công chúa cũng phải nể Thục Nghi đại Công chúa Minh Diễm ba phần.
Thục Nhàn đại Công chúa cũng không có địa vị cao quý trong các
đại Công chúa, mẫu thân của nàng là Đức thái phi lúc trước cũng không
được Phượng Cảnh Kiền quá yêu thích, chẳng qua vì sinh hạ Công chúa cho
nên Phượng Cảnh Kiền muốn nữ nhi nở mặt mới thăng làm Đức thái phi.
Đức thái phi một lòng nuôi dưỡng nữ nhi và hiếu thuận với Thái
hoàng thái hậu lúc vẫn còn đang làm Thái hậu, không tranh đoạt tình cảm, không nịnh nọt, chỉ lẳng lặng sống ở hậu cung.
Tính cách của Đức thái phi ảnh hưởng trực tiếp lên Thục Nhàn đại Công chúa, Thục Nhàn đại Công chúa cũng không phải người có dã tâm. Lúc trước khi tuyển Phò mã cho nàng, Đức thái phi cũng đã cầu xin Phượng
Cảnh Kiền đừng chọn quyền quý dòng dõi cho nữ nhi.
Bởi vậy Phượng Cảnh Kiền đã chọn Triển Thiếu Hi cho Thục Nhàn đại Công chúa.
Triển Thiếu Hi có tước vị nhưng tước vị này chẳng có gì nổi bật ở đế đô. Triển gia đơn bạc, đến đời của Triển Thiếu Hi thì chỉ còn một
mình hắn, sau khi Triển Thiếu Hi trưởng thành thì thân nhân trực hệ đều
đã lần lượt qua đời.
Sở dĩ Phượng Cảnh Kiền chọn Triển Thiếu Hi là vì người này không có dã tâm.
Có một lần Phượng Cảnh Kiền cải trang đến Quốc Tử Giám, đang
ngày hè oi bức thì một cơn mưa bất chợt trút xuống, mọi người đều chạy
đi đụt mưa, nhưng Triển Thiếu Hi lại là một người yêu hoa cỏ, hắn giống
một kẻ ngốc mà đứng che mưa cho những bông hoa bên ngoài trời khiến toàn thân ướt đẫm.
Đây chỉ là một chuyện nhỏ, đương nhiên không thể nhìn ra Triển Thiếu Hi có tài năng đặc biệt gì cả.
Trên thực tế khi tuyển chọn Phò mã thì cũng không cần Phò mã có
tài năng đặc biệt, chỉ cần có thể hầu hạ tốt cho Công chúa là đủ rồi.
Phượng Cảnh Kiền phái người điều tra lai lịch của Triển Thiếu
Hi, lại cực kỳ trùng hợp ở chỗ Triển Thiếu Hi là điệt tử cùng dòng họ
với Đức thái phi. Nương gia của Đức thái phi và Triển Thiếu Hi có quan
hệ huyết thống xa.
Lúc đầu Phượng Cảnh Kiền ngại Triển Thiếu Hi cao số, chẳng những khắc phụ khắc mậu, quả thật không có ai mà hắn không thể khắc, cho nên
không nguyện ý. Cũng không biết Đức thái phi biết tin tức này từ đâu,
bèn cùng nương gia bồi thêm một phần của hồi môn, cứ thế mà thỉnh cầu
vài lần.
Phượng Cảnh Kiền rốt cục cũng đồng ý.
Triển Thiếu Hi và Thục Nhàn đại Công chúa không chỉ là phu thê mà còn là biểu huynh biểu muội họ hàng xa.
Từ sau khi thành thân, tuy trong nhà của Triển Thiếu Hi đơn bạc
nhưng cũng có chút của cải. Người này tuy suốt ngày ở trong nhà nhưng
cũng có chút tâm cơ, không phí sức mà đã lấy lòng được nhũ mẫu của Thục
Nhàn đại Công chúa.
Có thể nói, trước khi chế độ tuyên triệu của phủ Công chúa chưa
bị hủy bỏ thì cuộc sống của Triển Thiếu Hi có thể xem là tương đối dễ
chịu so với các Phò mã khác. Hoàn toàn hơn hẳn Ôn Trường Phong.
Chẳng qua cho dù cuộc sống có như ý thế nào thì cũng có điểm không thỏa mãn.
Thục Nhàn đại công chúa và Phò mã của nàng thành thân đã lâu mà đến nay vẫn chưa có tin vui.
Là một nữ nhân thì có ai nguyện ý chia sẻ trượng phu của mình
cho nữ nhân khác đâu. Chẳng qua trường kỳ vẫn chưa thấy tin vui khiến
Thục Nhàn đại Công chúa vô cùng nôn nóng, ngay cả Đức thái phi cũng
khuyên nữ nhi không bằng tìm một nô tỳ, cho dù bỏ mẫu lưu tử thì cũng có con để nối dõi, cũng miễn cho Phò mã có ý ngoại tình.
Đức thái phi vất vả làm công tác đả thông tư tưởng cho nữ nhi, nào ngờ Triển Thiếu Hi không hài lòng.
Triển Thiếu Hi bảo rằng, “Con cái là của trời cho, không ai có
thể cưỡng cầu, cứ thuận theo tự nhiên là được rồi.” Không chịu nạp thiếp khiến Thục Nhàn đại Công chúa cảm động đến rơi nước mắt, càng cảm thấy
có lỗi với Phò mã nhiều hơn.
Chung thần tiên vừa mới nổi danh thì Thục Nhàn đại Công chúa đã
đến xem thử, còn mua nước bùa về uống, chỉ trông mong sớm có ngày được
thượng đế ban thưởng lân nhi.
Chẳng qua Triển Thiếu Hi không tin Phật, ngày thường mỗi khi
Thục Nhàn đại công chúa đi chùa thắp hương thì đều bị Triển Thiếu Hi
nhắc nhở vài ba câu, nay Thục Nhàn đại Công chúa càng không dám để Phò
mã biết chuyện bùa chú.
Vệ thái hậu giữ Minh Trạm ở lại dùng ngọ thiện rồi nói với Minh Trạm, “Nguyễn phi ngã bệnh.”
Nguyễn phi, Nguyễn Thần Tư.
Minh Trạm suy nghĩ trong chốc lát thì mới nghĩ đến cái tên Nguyễn Thần Tư, bèn hỏi, “Mẫu thân, bệnh nặng lắm sao?”
“Nàng muốn gặp người nhà của mình, ta đã cho phép.”
“À, để Bắc Uy Hầu phu nhân tiến cung thăm nàng ta đi, thấy người thân thì có thể khỏe hơn đôi chút.” Minh Trạm khuấy nhẹ bát canh cá của mình, nhẹ nhàng thở dài.
Vệ thái hậu cũng không phái người lưu lại để hầu hạ, trong phòng không có ai khác, cung nữ bên ngoài đứng canh gác cũng là tâm phúc của
Vệ thái hậu.
“Chuyện này cũng không có gì to tát, dù sao hậu cung của ngươi
cũng phải có vài người. Vận mệnh của Nguyễn phi chính là như vậy.” Vệ
thái hậu ôn hòa nói, “Trong hậu cung xưa nay có bao nhiêu mỹ nhân cả đời không thể gặp mặt quân vương. Nay cuộc sống của các nàng cũng không tệ, ngươi cũng chưa từng bạc đãi các nàng.”
Minh Trạm biết mẫu thân đang nói đến tình hình thực tế, quan hệ
của hắn và Nguyễn Hồng Phi rất thân cận, không thể quang minh chính đại
công khai, càng không thể để người ta biết đến. Phượng Cảnh Kiền để
Nguyễn Hồng Phi ở lại đế đô, gọi Nguyễn Hồng Phi là Vương đệ, miệng thừa nhận Nguyễn Hồng Phi có quan hệ với hoàng thất Phượng thị, tuy rằng đây là nguyên nhân giúp Nguyễn Hồng Phi có thể ở lại đế đô nhưng cũng vì
nguyên nhân này mà Minh Trạm vĩnh viễn không thể công khai tình cảm của
hắn và Nguyễn Hồng Phi cho người ta biết.
Hậu cung của hắn phải có người đảm đương bề ngoài.
Trong cảm nhận của hắn luôn luôn phân chia nặng nhẹ.
Con người sẽ vì mục đích của mình mà hy sinh người khác.
Hoàng đế sẽ càng là như vậy.
Minh Trạm có thể cảm giác được trái tim của mình dường như đang
bị ma sát hằng ngày, giống như càng ngày càng trở nên lạnh lùng cứng
rắn.
Thục Ngọc đại Công chúa đã nếm được mùi vị ngon ngọt khi tạo dựng được quan hệ tốt đẹp với Hoàng thượng và Thái hậu.
Nói với Ôn Trường Phong về việc Hoàng thượng muốn hỏi thăm Chung đạo trưởng, Thục Ngọc đại Công chúa cười nói, “Hoàng thượng bảo chúng
ta hỏi thăm thử, Phò mã, chàng phải cố gắng nha.”
Ôn Trường Phong ừm một tiếng nhưng sắc mặt lại không vui mừng.
Thục Ngọc đại Công chúa là người thận trọng, bèn vội vàng thân thiết
hỏi, “Phò mã có tâm sự ư?”
“Công chúa.” Ôn Trường Phong cười cười, dìu Thục Ngọc đại Công
chúa cùng ngồi xuống nhuyễn tháp, “Ta không sao, Công chúa không cần lo
lắng. Ta chỉ suy nghĩ, đã từng có nhiều Hoàng đế tin tưởng vào những
chuyện quỷ thần hư vô như vậy, cuối cùng trầm luân không thể thoát ra
được.”
“Hoàng thượng còn rất trẻ, nếu Hoàng thượng phân phó thì chúng
ta đương nhiên phải hỏi thăm rõ ràng. Chẳng qua sau này những chuyện như vậy thì không nên nói nhiều với Hoàng thượng.” Ôn Trường Phong và Triển Thiếu Hi có cùng quan điểm, hắn dặn dò thê tử, “Nếu Hoàng thượng thật
sự trầm luân vào những lời dị đoan, trì hoãn triều chính, triều thần
truy cứu căn nguyên thì đến lúc đó sai lầm sẽ rơi xuống đầu chúng ta.”
Thục Ngọc đại Công chúa hô nhỏ một tiếng rồi tự trách, “Vậy mà ta lại không nghĩ đến điều này.”
“Công chúa, ta chỉ nói vậy thôi, Hoàng thượng thánh minh hơn người, đối với mấy thứ dị đoan này thì có lẽ chỉ là tò mò mà thôi.”
Thục Ngọc đại Công chúa vội nói, “Ta nhớ rồi, Phò mã cứ yên tâm
đi. Tháng sau là sinh thần của bà bà, ta đã chuẩn bị danh mục lễ vật hết rồi, Phò mã có muốn xem qua hay không?”
“Công chúa an bài là được rồi.” Ôn Trường Phong nói, “Dù sao cũng không phải mẫu thân, cũng không cần quá mức quý trọng.”
“Ta biết rồi.” Thục Ngọc đại Công chúa mỉm cười, “Cũng không
phải lần đầu an bài danh mục lễ vật, chúng ta chỉ cần nhiều hơn bên nhà
nhị đệ một chút là được rồi.”
Ôn Trường Phong nhìn thê tử một cách cảm kích, tuy hắn là trưởng tử của phủ Vệ Quốc Công nhưng chưa được ra riêng, kế mẫu lại làm chủ,
kế mẫu là điệt nữ của tổ mẫu, lại có trưởng tử của chính mình, nếu không phải Ôn Trường Phong may mắn được Phượng Cảnh Kiền chọn làm Phò mã thì
hiện tại hắn muốn sống an ổn ở Quốc Công phủ cũng không phải là chuyện
đơn giản.
Lúc trước Ôn Trường Phong rất khốn khổ. Nhưng cũng có chút của
hồi môn từ mẫu thân, và cũng được bên nhà cữu cữu tiếp tế. Sau khi thành thân, Thục Ngọc đại Công chúa vừa dịu dàng lại khả ái, là người thông
minh hiểu ý, mặc dù bị ma ma ngăn cản nhưng vẫn lén lút giúp đỡ Ôn
Trường Phong.
Nay lại càng không cần phải nói, Ôn Trường Phong ở trong triều
làm quan, mặc dù lương bổng không nhiều lắm nhưng có bao nhiêu thì đều
giao cho Thục Ngọc đại Công chúa, hai người cứ nhàn nhã yên tĩnh ân ân
ái ái trải qua cuộc sống hằng ngày.
Coi như khổ tận cam lai.
Minh Trạm chưa nhìn thấy Chung thần tiên thì đã nhận được chiến báo.
Tin chiến thắng đến rất đúng lúc.
Sắp đến ngày chiêu thương ở cảng Thiên Tân, lúc này lại có tin
chiến thắng đưa về, Minh Trạm bảo rằng lão thiên gia cũng đứng về phía
hắn.
Cười tủm tỉm mở ra phong bì mật tấu, Minh Trạm lướt nhanh như
gió, khóe môi bị kiềm hãm một chút, nhưng ngay sau đó lại tiếp tục nở nụ cười, “Hầy, xem ra lão Khả Hãn của Thát Đát thật sự bị thượng đế triệu
hồi rồi.”
Chư thần nghe thấy tin chiến thắng, không cần nói nhiều, tất cả đều chúc mừng Minh Trạm, hô to bệ hạ thánh minh.
Ánh mắt của Minh Trạm chợt sắc bén, cười nói, “Đây chỉ là tin
chiến sự đầu tiên sau khi trẫm đăng cơ mà thôi, cũng không thể bắt sống
Thát Đát vương, không xem là tin chiến thắng.” Đầu ngón tay vuốt ve
chiến báo, Minh Trạm nói, “Khi nào có thể đuổi người Thát Đát ra khỏi
thảo nguyên Tây Bắc thì mới tính là đại thắng.”
Bộ binh Thượng thư Cố Nhạc Sơn mỉm cười, “Là vì bệ hạ thánh minh nên đã sớm phòng bị cho Tây Bắc, thế nên mới có đại thắng như vậy.”
“Kiến thiết quân Tây Bắc đều là công trạng của Thái thượng
hoàng, trẫm chỉ mới đăng cơ trong một thời gian ngắn, bất quá là phỏng
đoán theo lẽ mà thôi.” Minh Trạm khiêm tốn, tiện đà nói, “Từ lần Thát
Đát đóng cửa cho đến nay đã hơn mười năm. Nay tân Hãn Vương đăng cơ, lại tích lũy mười năm, cũng không nên khinh thường bọn họ!”
Minh Trạm nghĩ đến nội dung chiến báo thì có một chút sầu lo.
Bất quá Bình Dương Hầu không đoán sai tâm tư của Minh Trạm, cảng Thiên
Tân sắp đấu thầu, ở thời điểm mấu chốt này thì có một tin chiến thắng sẽ là điều tốt nhất.
Minh Trạm nói, “Lần này quân Thát Đát khí thế rào rạt, truyền
chỉ cho Tổng đốc Xuyên Thiểm, Xuyên Thiểm phải trị binh nghiêm ngặt,
trấn an dân chúng, không được để lòng dân bối rối loạn lạc. Mặt khác,
truyền chỉ dụ cho tướng quân ở Tuyên Phủ, Liêu Đông, Đại Đồng, tất cả
phải chuẩn bị sẵn sàng để nghênh chiến.”
Sự an bài cẩn thận của Minh Trạm đối với chiến sự hoàn toàn vượt qua khả năng phán đoán của đám thần tử. Đối với tân quân, có thể chiếm
được thắng lợi thì đã có tác dụng nhất định lên việc củng cố ngai vàng.
Hơn nữa, theo sự hiểu biết của thần tử đối với quân vương thì
xưa nay Hoàng thượng cũng không thật sự là người khiêm tốn. Minh Trạm
bình thản như vậy làm cho người ta sinh nghi.
Minh Trạm nghiêm mặt nói, “Đợi khâm thiên giám chọn ngày lành
tháng tót, các khanh cùng với trẫm trình tin chiến thắng này lên Phụng
Tiên điện để hiến cho liệt tổ liệt tông, khiến cho liệt tổ liệt tông
biết rõ con cháu của người không hề bôi nhọ giang sơn của người.”
Lúc này mọi sự nghi ngờ của đám chư thần đều tan biến. Xem ra
Hoàng thượng có chí hướng rộng lớn, đương nhiên sẽ không đắc chí chỉ vì
một tin báo chiến thắng.
Suy nghĩ một chút lời nói của Hoàng thượng, “Cũng không thể bắt
sống Thát Đát vương, không xem là tin chiến thắng” Thật đầy khí phách.
Khi Minh Trạm vừa trở về phòng ngủ thì Nguyễn Hồng Phi cũng mới
từ bên ngoài trở về, tin tức của hắn cực kỳ nhanh nhạy, mỉm cười với
Minh Trạm, “Tây Bắc đại thắng, chúc mừng bệ hạ.”
Hà Ngọc Diêu Quang đã thức thời rời khỏi, Minh Trạm nắm chặt tay của Nguyễn Hồng Phi rồi đưa chiến báo trước ngực cho Nguyễn Hồng Phi
xem, “Chỉ là một một phần Cam Túc mà thôi, đây là chiến báo, ngươi nhìn
thử đi.”
Nguyễn Hồng lướt qua rồi cau mày nói, “Chỉ cần có thể bảo vệ Tây Bắc là tốt rồi. Nay cảng Thiên Tân sắp chiêu thương, đành phải xem
chiến báo là tin thắng trận, nếu không bao nhiêu thôn trấn thành quách,
dân chúng không hiểu chuyện sẽ gây nên tình trạng hoảng sợ, ngay cả đám
thương nhân đang ở đế đô cũng sẽ bất an.”
“Cam Túc, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Liêu Đông có ba mươi lăm vạn quân chiếm đóng, bất quá có bao nhiêu người có thể chân chính xông pha chiến trường?” Minh Trạm nhìn Nguyễn Hồng Phi.
“Khoảng ba mươi vạn.” Nguyễn Hồng Phi nói, “Tộc nhân Thát Đát không nhiều, cùng lắm là năm vạn binh mã.”
“Như vậy thì ta an tâm.” Ba mươi vạn người thủ thành thì đương
nhiên không thể bị năm vạn người dẹp sạch. Huống chi lúc trước Minh Trạm đã cung cấp đầy đủ lương thực, vũ khí, dược liệu cho Tây Bắc, cũng đã
nhắc nhở Tây Bắc chuẩn bị chiến tranh, trận chiến này tuy không nắm chắt sẽ tất thắng nhưng ít nhất phải bảo đảm thủ được thành.
Nguyễn Hồng Phi cau mày, nhắc nhở Minh Trạm, “Lúc này cảng Thiên Tân sắp chiêu thương, đế đô tụ tập đại thương gia của chín thành, còn
có đại nho khắp nơi, ngươi phải chuẩn bị cho vẹn toàn.”
Minh Trạm cười, “Ta sẽ viết thánh chỉ cho Bình Dương Hầu, không
cần tham công, chỉ cần bảo vệ tốt Tây Bắc là hắn đã lập được đại công.”
“Bình Dương Hầu lão luyện thành thục, hắn sẽ không háo chiến.”
Minh Trạm nói, “Chỉ cần việc chiêu thương cảng Thiên Tân tiến hành thuận lợi là được, hiện tại không phải lúc để đánh giặc.”
Mặc kệ như thế nào, lính Tây Bắc mang tin chiến thắng gióng
trống khua chiên gấp rút chạy về đế đô, chỉ cần liếc mắt cũng nhìn thấy.
Toàn bộ đế đô đều lâm vào bầu không khí vui mừng, mức độ tin
tưởng triều đình của đám thương nhân tiến đến đấu thầu cũng tăng vọt một cách đáng kể, bọn họ tin tưởng Hoàng đế bệ hạ anh minh không ai có thể
sánh bằng. Vừa mới đăng cơ liền đánh thắng một trận.
Quân Tây Bắc thắng lợi, công trình cảng Thiên Tân nhất định cũng có tương lai tươi sáng vô hạn.
Từ Tam dâng tấu chương, mỗi ngày đều báo cáo với Minh Trạm, thu
bao nhiêu ngân lượng. Minh Trạm trêu ghẹo, “Từ thượng thư xuất thân là
tam nguyên, vậy mà cũng có lúc mang theo mùi ngân lượng đầy người.”
Ngay cả Từ Tam cũng cho rằng tuy Minh Trạm không phải Hoàng tử
thừa kế chính thống nhưng thật sự có vận mệnh đế vương, từ khi Minh Trạm đăng cơ quả nhiên là mưa thuận gió hòa, thiên hạ thịnh vượng. Quốc khố
đẫy đà, Từ Tam là Hộ bộ Thượng thư, áp lực cũng giảm thiểu, hắn cười
cười, “Thần phụng mệnh quản lý Hộ bộ, mỗi ngày phải giao tiếp với sổ
sách ngân lượng, mang theo mùi ngân lượng trên người cũng có thể chứng
tỏ thần đang cố gắng tận lực vì chức trách của mình.”
Minh Trạm hơi nhếch khóe môi, “Trẫm nghe Ngô Uyển bảo rằng Bỉnh Trung cũng rất cố gắng.”
Trong lời nói của Hoàng thượng, một câu chính là một câu, Từ Tam vội nói, “Cũng may Ngô đại nhân không chê tiểu tử ngốc kia, cũng chịu
dạy dỗ hắn đôi điều.”
“Nữ nhân cũng có khả năng, tỷ như Từ tiểu thư của Từ Tam nhà ngươi.”