Đàn Cổ Cầm Khỏa Thân
Năm 406, triều Đông Tấn
Đôi tay khéo léo của nàng lướt qua bức
tranh. Từng lớp sóng luân phiên trên dòng Dương Tử chảy giữa những ngón
tay nàng. Những cánh buồm và những con thuyền ngược xuôi về hai phía,
trong khi những đô thành, làng mạc, đền miếu, cầu cống, đồi và các đỉnh
núi nàng dùng để chấm phá tô điểm. Trên bức tranh, chỉ có sự trù phú của bờ Nam được thể hiện. Bờ Bắc, dù không xuất hiện, nhưng lại ở khắp nơi. Dòng Dương Tử là biên giới, khung cảnh như chốn bồng lai của bờ Nam
được thu gọn trong một cái nhìn luôn cố định bên bờ Bắc.
Dọc
theo dòng sông, chiến tranh và hòa bình luân phiên, tựa như tiếng đánh
đàn chậm rãi và tiếng khẩy đàn dứt khoát trên cây đàn cổ cầm, tựa như
mưa gió thất thường đánh dấu bốn mùa. Nhờ sử dụng cọ lông đuôi sóc, ngay cả chiến tranh cũng được vẽ rất mềm mại. Các chiến binh, chân bị cắt
rời, tay áo xắn lên, hàm râu quai nón xồm xoàm, đôi mắt tóe máu là những hình dáng nhỏ bé trong câu chuyện. Trong số những người lính phương
Bắc, người man di mang giáp đính lông cọp và cưỡi những con ngựa trang
hoàng bằng đầu người chết. Dưới chân thành, một số người đang đẩy máy
phá thành đâm vào cổng, những người khác đang đào hầm dưới đất dẫn thẳng vào trung tâm thành. Con phố bị chinh phạt toát lên vẻ sầu thương,
nhưng vẻ này mất hết khi nhìn sang cảnh tiếp theo: những ngư dân quăng
lưới trên sông, những cánh chim tung cánh, những thung lũng trổ hoa.
Thời gian khắc nghiệt trôi qua biến cái chết thành sự sống, biến nỗi
buồn thành niềm hân hoan, thành những tia nắng nhảy múa dọc theo bờ
sông.
Một dải bờ đá dốc đứng hiện ra. Những con sóng ném vào bầu trời rồi rơi xuống vụn nát trong vách đá. Nếu nhìn vào con nước đang
cuồng loạn của dòng sông, người ta có thể đoán biết hai bờ Nam Bắc đang
lại gần nhau nhìn nhau khinh bỉ qua một khúc sông hẹp. Qua được khúc
sông, những con sóng không còn cuồn cuộn, những thác nước phẳng lì đổ
chầm chậm trên một mặt nước rộng. Bắc Nam lại xa cách nhau và nhìn nhau
từ xa. Mùa đông đã đến bên bờ Bắc. Gió bấc mang theo tuyết và sương giá
bị ấm dần lên khi đi qua sông Dương Tử rồi trở thành từng cơn gió nhẹ
lúc chạm được đến bờ bên kia. Mùa hè nhấn chìm bờ Nam. Những cơn mưa
không dứt của mùa mận xanh quét qua những cánh đồng, bốc hơi lên cao
trên mặt sông rồi tuyên chiến chinh phạt phương Bắc.
Xa ngoài
thành Kinh Châu, dưới chân núi Bắc, sông tạo thành vịnh, nơi những con
thuyền đủ sắc màu qua lại. Một con đường leo đến tận đỉnh núi dẫn vào
chùa Đại Bi trong mây phủ. Trên những bậc thang bằng đá và gỗ nghìn năm, một người trẻ tuổi vác cây đàn cổ cầm ngước mắt nhìn cả cánh rừng bạt
ngàn. Được vẽ xiên xiên, người này lúc thì có vẻ đang leo núi, lúc lại
có cảm tưởng như đang đi xuống. Chàng đi đâu? Đó có phải là một người
hành hương lên chùa? Dáng chàng cao và mặt chàng nhìn về phía núi. Dù vẻ mặt chàng không thấy được, nhưng dáng vai cong cong và phía sau gáy
vững chắc cho thấy chàng đang lo ngại nhưng vẫn kiên trì. Dưới chân
chàng là khoảng trống. Lang thang giữa trời và đất, chàng đang tìm một
căn nhà, một ngọn lửa, một niềm hy vọng. Bà Mẹ Trẻ thở dài. Hôn phu nàng đã xa rồi và tham vọng của chàng đặt cả gia đình vào nguy hiểm. Giống
như chàng trai trẻ đang bị đè nặng bởi một tương lai vô định này, nàng
không biết liệu mình sẽ về với ánh sáng hay vực thẳm nữa.
Bà Mẹ
Trẻ tiếp tục vẽ bức tranh. Một bến thuyền tấp nập chiếm lấy không gian.
Những con thuyền ngư dân neo đậu quanh những con thuyền chiến và thuyền
thương nhân. Trên bờ, từng đám phu khuân vác đang làm việc. Những chiếc
xe thồ, xe ngựa đi về phía Kinh Châu. Những thành cao mới cháy sém chiếm lấy khoảng không. Những lá cờ trắng và đỏ thêu tên “Lưu” phấp phới giữa những lỗ châu mai và phần phật trong gió. Được sáu cánh cổng có lính
canh cẩn mật bao quanh, đô thành được gia cố theo dáng của một con rùa
mang chiếc mai cứng cáp. Bên trong bờ thành, nơi những hẻm phố nhỏ hẹp,
một đám đông nhộn nhịp qua lại rồi tụ tập giữa những ngã tư, trước các
cửa tiệm, ở lối vào các đền chùa. Đi ngựa hoặc đi bộ, họ là người dân
trong thành, khách viễn du, lính tráng, người hành hương, ăn mày, nghệ
nhân.
Thành Kinh Châu, tòa thành quân sự nổi tiếng, đã lấy lại
vẻ xưa kia. Từ khi tổng đốc cho hội về những chức quan quý tộc và các
đại thần trong triều đình, Kinh Châu, cửa sông, đã trở thành cửa vào
quyền lực. Tất cả những ai có ý muốn xây dựng sự nghiệp trong quân ngũ,
tất cả những ai muốn được mặc áo lụa, tất cả những ai mơ về một gia tài
kếch sù đều vê đây an gia lập thất trong niềm hy vọng được ở gần người
thủ lĩnh và lấy được lòng phu nhân của ông.
Sự nhộn nhịp ở dưới
phố đã ngưng và cái tĩnh lặng sang trọng của giai cấp cao hơn trong
thành đã đến. Dinh thự của tổng đốc không còn là nơi sầu não của các tòa nhà tan nát và cỏ dại. Những khu vườn đã nở hoa ở nơi những xác người
từng la liệt. Một cung điện đã được dựng theo bản vẽ của Bà Mẹ Trẻ, phô
ra những mái nhà oai vệ, nơi ở của người đại diện cho tinh thần bờ Nam
Trung Hoa.
Một ngôi nhà, ông nội đã nói, cho thấy tính quy củ
mạnh mẽ của chủ nhân. Ngược lại, các tòa nhà sẽ nuôi dưỡng đạo đức và
tinh thần của con người. Bà Mẹ Trẻ đã muốn rằng lối vào của dinh thự sẽ
tương xứng với phần đầu: cánh cửa chính, dành riêng cho chồng nàng và
các quan lại, được hai hàng sư tử bằng khoáng vật cùng binh lính mặc
trang phục xanh vàng canh giữ. Cánh cửa mở lối vào hai phòng tiếp khách
như hai bờ môi trên miệng. Một con đường lát đá có viền khắc tạo thành
“mũi” dẫn tới những tòa nhà làm việc, tức “hai mắt”, rồi dẫn tới một sân lớn bao quanh bởi các tòa nhà tầng trong đó là những phòng đầy kinh thư và giấy tờ. Thư khố là “trán”.
Khu nhà trung tâm được chia làm
hai nửa. Ở chỗ “lá phổi” có một sân tập và một chuồng ngựa. Ở chỗ “tim”
có một điện thờ nơi chồng nàng thờ phụng tổ tiên và các thần thánh phù
hộ độ trì. Trong khi khắp nơi trong dinh thử có những cây ăn quả, hòn
non bộ và bông hoa thì trong điện thờ chỉ có địa y xanh và những cây
tùng trăm tuổi tỏa hương thơm nhã nhặn. “Kín đáo, phong phú, thanh tao
và thành kính phải ở trong tim mỗi người”, cha nàng từng nói vậy.
Một bức tường cao ngăn cách khu vực việc công với khu vực dành cho gia tộc. “Bụng” gồm có các tòa nhà có tre và lựu bao quanh. Một hành lang hai
bên đầy tranh vẽ nối các tòa nhà này lại với nhau và uốn lượn qua những
bụi hoa để người ta có thể đi dạo mà không bị ướt mưa. Nếu Bà Mẹ Trẻ
phải đi ra ngoài, nàng sẽ không bao giờ đi lối cổng chính. Một chiếc xe
ngựa bốn bánh sẽ đến đón nàng ở cổng bên hông. Có trướng phủ kín màu
xanh đen, chiếc xe sẽ chở nàng đi lại bí mật trong thành mà không ai
biết người ngồi trong là ai.
Bà Mẹ Trẻ gọi yêu khu sau nhà là
“chân”, vì chân luôn chạm đất và mang lại cho thân thể sức mạnh của đất. Quanh phòng ngủ, nàng đã trồng một khu vườn diễn đạt lại cái mênh mông
của thiên nhiên. Những lối mòn rải sỏi đủ màu sắc lấy từ dưới lòng sông
Dương Tử bao quanh các “núi” là những hòn non bộ được khéo léo chồng lên nhau thể hiện những bờ đá dốc đứng và những đỉnh núi xa xôi. Tán cành
của những cây liễu rủ, cây trẩu, cây mận, cây đào, cây thích lùn làm
người ta liên tưởng tới một khu rừng rậm rạp. Những thác nước đổ xuống
từ trên cao trở thành thượng nguồn. Một cây cầu tía bắc ngang qua hồ
nước, qua những thân sen cao mảnh và những lá súng to bản rồi dẫn tới
một tòa nhà ba tầng có mái vòm.
Bà Mẹ Trẻ được vẽ một cách kín
đáo trên bức tranh, một bóng người gần như bị nhòe mờ vì những đường nét chằng chịt và những mảng màu phóng khoáng. Đó là một phụ nữ ngồi bên
hiên cái điếm nghỉ trên mặt nước chơi đùa với chiếc quạt nan. Bóng nàng
soi xuống mặt hồ làm lũ cá chép vây lại. Chỉ khi quan sát kĩ cái bóng
trên mặt nước, người ta mới phát hiện ra một điều bí mật. Những nếp gấp
của chiếc áo lụa đôi chỗ bị căng lên, làm lộ ra cái bụng đang ngày một
to lên.
Bà Mẹ Trẻ đã mang thai! Tất cả các ngự y đã soi đồng xu
của mình, tất cả các nhà chiêm tinh đã xem kĩ các chủ tố đều tiên đoán
đó sẽ là một hoàng tử. Nàng tự vẽ chân dung của mình để thể hiện niềm
hạnh phúc này.
Không như cô con gái Huệ Viên lâu nay vốn không
có tên, Nghĩa Phù, con trai nàng, được cha đặt tên từ trước khi ra đời.
Cuộn trong bụng nàng, cuốn lấy dạ dày nàng, nó làm Bà Mẹ Trẻ buồn nôn và những cơn chóng mặt trong hạnh phúc. Một đoàn ngự y ra vào mỗi ngày bốc cho Bà Mẹ Trẻ cả chục thang thuốc uống từ sớm đến tối. Những món quà
các các tổng đốc quân sự, lời chúc phúc của Hoàng đế và Hoàng hậu, sự ân cần của các chiến binh và người đưa tin triều đình qua lại mỗi ngày làm Bà Mẹ Trẻ vốn quen một mình cảm thấy khó chịu. Mang trong mình đứa con
trai nối dõi của thống soái, nàng không còn biết trốn đi đâu. Nghĩa Phù
đã ra đời để thay đổi cuộc đời nàng. Chính đứa bé này sẽ mang cho nàng
hạnh phúc và nỗi buồn, sự bình tâm và lo lắng.
Trên bàn trang
điểm, cuộn tranh nằm bất động dưới sức nặng của những viên ngọc thạch.
Bà Mẹ Trẻ thở dài chầm chậm. Tóc nàng đã được cuốn lại thành một búi đơn giản. Trên chiếc váy đỏ là một chiếc áo xanh nàng mặc như áo khoác khi
làm việc. Nàng bặm môi, cúi xuống, đưa tay trái qua phải để cầm lấy viền bên phải. Cầm một cây cọ cực mịn, nàng bắt đầu vẽ đứa con gái Huệ Viên
đang chơi trong vườn. Nét cọ khẽ chạm trên giấy để lại những nét màu.
Các điểm, đường nét giới hạn nhau rồi trở thành khuôn mặt, nếp áo. Nét
cọ vẫn tiếp tục chạy và làm hiện lên sống mũi, đôi mắt. Bà Mẹ Trẻ bắt
đầu vẽ đôi lông mày và mái tóc khi giọng nói lo lắng của bà quản gia
vang lên sau lưng:
- Thưa phu nhân, ngự y không cho phu nhân vẽ nữa ạ! Phu nhân đang làm gì vậy?
Cây cọ dừng giữa không trung.
- Thưa phu nhân, con xin phu nhân hãy đi nghỉ đi ạ!… Chúng ta có một tin dữ.
- Một con hầu của thống soái Kiến Khang đã mang thai, – một người đàn ông nói.
Nàng nhận ra giọng nói của người quản quân.
- Các ngự y đã khẳng định là con trai!
Bà Mẹ Trẻ ngoái đầu lại và buông cây cọ.
- Hãy mau nghỉ ngơi, thưa phu nhân, – người quản quân thúc giục, – đừng
làm mình mệt. Giọt máu trong bụng phu nhân là tương lai nhà chúng ta!
Ngập tràn cảm xúc buồn bã xen lẫn thất vọng và oán hận, nàng không nhúc nhích.
Một con hầu đến, giọng nó giải tỏa bớt bầu không khí:
- Quý cô đã học xong. Cô đang tìm phu nhân ạ!
Nàng ngẩng lên. Che giấu cảm xúc của mình, nàng trả lời:
- Tốt. Hãy chuẩn bị trà và bánh ở nhà Thủy. Ta đến ngay.
Nàng đứng dậy rồi ra lệnh cho các nàng hầu đang chờ ở cửa lau sạch các chén đĩa màu.
Vịn vào tay bà quản gia, Bà Mẹ Trẻ đi chầm chậm theo đường mòn khảm đá. Mùa xuân đã đến, ong bướm lượn quanh những cây hồng đào và lê trắng. Mặt
trời đổ lên mặt nàng những đốm vàng. Bị chói, nàng nheo mắt. Trên hồ,
một đôi vịt hoàng gia đang rỉa lông. Thấy nàng, chúng nghểnh cổ lên rồi
vỗ cánh bơi lại gần. Hầu nữ đã rút bớt những bức trướng giữa những cột
nhà để nó trở thành một hành lang mở có góc nhìn rộng rãi về phía vườn.
Căn phòng được trang hoàng đơn giản với hai bàn thấp sơn đen, một tấm
chắn gió có vẽ cảnh mà Bà Mẹ Trẻ cho thay đổi luân phiên theo mùa và một chậu dài có cổ mảnh mai lúc nào cũng có một nhành hoa. Đêm trước, nàng
cho thay nước để đặt vào đó một nhánh hoa lê. Vậy mà những cánh hoa
trắng cũng đã rụng cả trên nền đất rồi.
Nàng nằm trên chiếu lụa, dựa bụng mình lên gối, tì khuỷu tay lên một chiếc bàn được làm riêng
cho nàng rồi ngả đầu vào bàn tay. Trên thềm, một bếp lò nhỏ đã được đưa
tới. Một nàng hầu thổi than hồng để đun nóng nước suối, một nàng khác
tán nhỏ trà. Cả hai vận đồ xanh tối, dáng họ chìm vào lũy tre trong
vườn.
Bà Mẹ Trẻ đã chán những nét đẹp đó. Hoa và cây cối thi
nhau làm nàng vui, tỏa hương thơm nhẹ nhàng. Nàng nhìn chúng mà trong
lòng như lửa đốt. Cái đẹp nhắc cho nàng nhớ thời gian đang trôi đi, và
mùa xuân tuổi trẻ của nàng đã kết thúc. Nhưng mùa xuân vĩnh cửu thì tạo
ra những cái đẹp khác để thay thế nàng, tươi mới hơn, thơm hơn, quyến rũ hơn. Xuân đến xuân đi, nàng không còn là người phụ nữ như xưa nữa. Con
tim đã bớt ngây thơ, đôi mắt đã mở to hơn, nàng phải chịu đựng số phận
mà chồng nàng đã định đoạt như một cánh bướm bị gắn lên tường.
- Mẹ! Mẹ!
Bà Mẹ Trẻ ngước mắt lên rồi khuôn mặt bừng sáng. Từ xa, trên con đường mòn đầy rêu và cánh hoa hồng, cô con gái Huệ Viên vừa đi vừa nhảy nhót. Nó
như đang chạy. Bà quản gia nắm chặt lấy tay nó và cứ phải kéo nó lại.
Cơn gió thổi giọng nói ầm ầm của bà ta đến:
- Phu nhân đang mệt lắm. Đừng có chạy tới chỗ phu nhân. Cô sẽ làm phu nhân đau…
Bị nắm lấy cánh tay, Huệ Viên đu trèo như một chú khỉ. Bất ngờ nó thoát ra rồi phóng lên cầu la lớn:
- Mẹ! Hôm nay con viết được bốn mươi chữ! Thầy khen con giỏi lắm!
Bà quản gia chạy theo sau con bé.
- Đứng lại tiểu thư ơi! Đến đây nào!
- Mẹ! Mẹ!
Tiếng Huệ Viên la hét với nàng còn ngọt ngào hơn tiếng hót của chim vàng anh. Bà Mẹ Trẻ cuối cùng cũng cười mỉm rồi mở rộng vòng tay. Nàng cảm thấy
thèm thuồng được cảm nhận sức nóng của cái cơ thể nhỏ bé kia.
Thoắt cái Huệ Viên đã ôm lấy nàng.
- Mẹ! Con nhớ mẹ quá!
Bà Mẹ Trẻ ôm chặt lấy nó rồi hít hà mùi thơm của con hoẵng con. Khi một
đứa bé nhảy ào đến chỗ mẹ nó, đó là lúc nó muốn được hưởng sự bảo bọc âu yếm của mẹ. Khi một bà mẹ trẻ ôm đứa con vào lòng, bà ôm cả cuộc đời
nhảy nhót trong từng mạch máu và uống lấy sự ngây thơ trong ánh mắt đứa
bé, cái ánh mắt làm bà quên mọi ưu phiền trên thế gian. Huệ Viên là một
điều kỳ diệu và Bà Mẹ Trẻ luôn thấy rất khó tin. Sinh ra trong chuồng
ngựa giữa một cuộc thảm sát, nó đã sống sót giữa chiến tranh, giữa cái
đói, giữa bệnh tật. Nó đã trở thành một cô bé nhỏ nhắn, với hàm răng và
đôi chân chắc khỏe, rất giống cha nó. Nó có nước da màu thẫm, đôi mắt
to, miệng chúm chím và tính nết của nàng. Huệ Viên là một viên lửa long
lanh và rực rỡ.
- Cha đi đâu rồi mẹ? – Nó la lên. – Bao giờ cha về?
- Cha con là một anh hùng phải theo đuổi những cuộc phiêu lưu. Cha sẽ về khi nào cha thắng trận mới.
- Cha cho con cái này nè!
Huệ Viên xòe bàn tay rồi giơ ra một con rùa bằng ngọc thạch. Bà Mẹ Trẻ cầm lấy nó rồi đem nó ra chỗ sáng.
- Nó để nhắc con rằng chiến cuộc sẽ sớm kết thúc và cha sẽ về với rất nhiều quà.
- Con không muốn con rùa, con muốn cưỡi ngựa với cha!
Bà Mẹ Trẻ bảo con bé ngồi xuống, đưa trà cho nó uống, đưa bánh cho nó ăn rồi hỏi han việc học của nó.
Huệ Viên nhìn bụng mẹ rồi mặt mũi tối sầm. Nó ngoảnh mặt đi rồi cúi gằm mặt.
- Tại sao Nghĩa Phù nấp trong đó? Tại sao em không ra chơi với con?
Rồi nó quay mặt lại.
- Mẹ, con muốn có em gái!
Năm 410
Bà Mẹ Trẻ cởi áo cho con bú. Nghĩa Phù mút và nhìn nàng không chớp mắt. Bà Mẹ Trẻ phát điên vì giây phút này, khi thế giới cũng chẳng còn tồn tại
nữa, chỉ còn mình nàng và Nghĩa Phù, cùng một hơi thở. Vì lý do đó, nàng không bao giờ muốn giao con trai cho vú nuôi. Nó đã bốn tuổi và nàng
tiếp tục cho nó bú như một đứa bé sơ sinh.
Phải chăng các thánh
thần thổi luồng sinh khí từ người mẹ sang cơ thể của đứa con. Phải chăng nàng già đi để đứa con được lớn lên? Nghĩa Phù là điều thần kỳ thứ hai
trong cuộc đời nàng. Nó có làn da trắng trẻo, mũi bẹt dài, đôi mắt như
hạt hạnh nhân, khuôn mặt như trăng tròn và tất cả những nét quý phái của giới quý tộc Trung Nguyên. Đến với cuộc đời này vì vinh quang và sự
giàu có của cha, nó mang lại cho mẹ cơn đau và niềm kiêu hãnh.
Nghĩa Phù sinh ra trong thành Kinh Châu bốn mươi mốt ngày trước đứa em là
Nghĩa Chân, con trai một nàng thiếp yêu của thống soái thành Kiến Khang. Từ lúc đó, những nàng thiếp đã làm thành một phe thù địch, âm mưu chống lại nàng và người vợ cả là nàng Tăng, không sống ở kinh đô. Còn trẻ,
đẹp và tham vọng, những tỳ thiếp này gọi hai nàng đầy khinh miệt là
“những nông dân trong thành Kinh Châu”. Chúng không chấp nhận sự hợp
thức của Nghĩa Phù, kết tội Bà Mẹ Trẻ đã dan díu với một lính canh.
Chúng chọc ghẹo nàng Tăng mỗi khi nàng đến Kiến Khang yết kiến triều
đình, chúng cho nàng ăn đồ nguội lạnh và bắt chuột bỏ vào phòng nàng.
Cách đây một năm, nàng Tăng đã lìa đời trong oán hận và giận dữ, làm Bà
Mẹ Trẻ mất đi người đồng minh duy nhất dưới chồng, người chẳng hiểu gì
về những cuộc tranh chấp của đàn bà. Sau cái chết này, nàng đã được
thăng lên thế chỗ vợ cả và từ đó được hưởng đặc ân triều đình. Nghĩa Phù được ấn định àm người thừa kế của thống soái. Vì Nghĩa Phù, Bà Mẹ Trẻ
phải đối mặt với thị phi nhiều hơn bao giờ hết.
Ở thành Kinh
Châu, đứng ngồi giữa tiếng sột soạt của áo quần và những lời xiển dương
êm tai, Bà Mẹ Trẻ phải hít thở sự cô đơn và im lặng. Dù nàng đã quyết
không dính đến triều chính, nàng vẫn bị những thái giám và tướng lĩnh lo ngại những âm mưu của phe Kiến Khang tấn công. Những người hầu cận
trung thành này cúi lạy khiêm nhường dưới chân nàng và kể cho nàng tất
cả những chuyện soi mói nghe được ở kinh đô. Lời họ nói, được kể chậm
rãi, giống như những ngụm thuốc độc chạy dọc theo cổ nàng làm chân tay
nàng bủn rủn.
Trên ngôi vị vợ cả và mẹ của người thừa kế thống
soái, nàng phải đi cùng những đứa trẻ về kinh đô mỗi dịp lễ trong triều. Không hề giấu giếm sự hung dữ của mình, các tỳ thiếp soi mói nàng, vạch lá tìm sâu, chê bai những bộ áo của nàng, nữ trang của nàng và từng
bước đi của nàng trước một bầy nàng hầu. Bà Mẹ Trẻ phải giữ nguyên nụ
cười và chỉ được khóc lúc đêm thâu đến. Ở sân chầu, Hoàng đế và Hoàng
hậu hết lời dành cho nàng những vinh dự và quà cáp. Những món quà này
làm nàng đau khổ: bực tức và cay cú, đám tỳ thiếp chỉ muốn nàng chết. Từ đó nàng phải cẩn trọng từng miếng ăn để tránh bị đầu độc. Thỉnh thoảng
nàng giật mình tỉnh dậy giữa đêm vì có cảm giác những kẻ ám sát lảng
vảng đâu đó…
Nghĩa Phù đã thôi bú. Nó dựa đầu trên đùi mẹ nằm ngủ.
- Mẹ! Mẹ!
Huệ Viên kéo rèm rồi nhảy tót vào phòng. Vừa thấy Nghĩa Phù, nó đứng yên, lăn vào vòng tay mẹ. Nó bĩu môi lay thằng em.
- Dậy đi, đồ lười nhác, tới giờ học đàn cổ cầm rồi.
Những nàng hầu mang bàn thấp đến rồi đặt trước mặt Huệ Viên và Nghĩa Phù hai cây đàn được làm riêng cho chúng.
Bà Mẹ Trẻ bắt đầu bài học bằng một tràng dài cầu nguyện. Bắt chước mẹ,
Nghĩa Phù và Huệ Viên chắp tay lại. Một ngày nào đó có lẽ nàng sẽ giải
thích cho chúng tràng cầu nguyện này là lời xin tha tội gửi đến tất cả
những kẻ vô tội bị chồng nàng, tức là cha hai đứa trẻ, giết chết.
Một làn hương mỏng manh thoát ra khỏi lư hương chạm vàng. Làn hương có hình cung tròn uốn lượn rồi biến thành một nữ thần mặc váy đuôi dài, rồi
thành một đoàn quân ngựa phi nước đại để trở thành những cuộn mây khổng
lồ rồi bay vút đi trong hình dáng một bầy ngỗng trời. Hương là chữ viết
của linh hồn bay đi giữa cái hữu hình và vô hình. Mùi hương nhè nhẹ là
niềm sảng khoái của nỗi cô đơn. Giống như hương, âm nhạc là một thể tự
do, Bà Mẹ Trẻ dạy những đứa con. Nàng đi theo linh hồn bay lên đến tận
trời.
Nghĩa Phù và Huệ Viên bắt đầu lên dây đàn. Từng cặp dây
được khẩy lên. Một dây đàn lên hoàn chỉnh khi nó phát ra âm hòa hợp với
dây nghịch của nó. Khi Nghĩa Phù lên ba tuổi, Bà Mẹ Trẻ dạy nó chơi đàn
cổ cầm để nó có được các đức tính theo lời dạy của cố nhân. Biết rằng nó sẽ được thừa hưởng vị trí của cha, nàng muốn nó trở thành một bậc nhân
từ và đúng đắn.
- Chữ “Cầm”, cây đàn bảy dây, cũng là chữ “Cấm”, điều bị cấm, – nàng dạy các con. – Một người giống như một cây đàn có
bảy dây lụa rung lên mỗi ngày. Đàn phải được lên dây, người phải được
dạy và biết sửa chữa. Cấm, điều cấm là sự thấu hiểu cái không. Khi ta
cấm những ý nghĩ sai trái, những ham muốn dư thừa và những hành động xấu xa, con người đi vào con đường Thiện nhờ nhận ra con đường Ác…
Bên ngoài, mùa xuân đã bừng nở sắc xanh, sắc hồng, sắc đỏ, sắc da trời và
sắc tím. Bên trong, bóng những bụi tre đung đưa trên sàn nhà loang loáng bóng mặt trời. Gió thổi, để lại trên đồ đạc những cánh hoa muôn màu.
Huệ Viên lên tám. Vẻ cao phổng làm nó như đã lên mười và thừa hưởng
những nét kiêu kỳ của cha nó.
- Cầm có phải là Thanh, sự trong sạch không mẹ? – Con bé hỏi.
Bà Mẹ Trẻ khuyến khích nó nói tiếp. Huệ Viên bắt chước giọng cha nó khi ông đang bàn việc quân:
- Một khi linh hồn đã bám bẩn như một mặt hồ bị khuấy bùn thì lỗ tai trở
thành Trọc và không nghe thấy âm thanh tinh tế của đàn cổ cầm nữa. Khi
một linh hồn đã khép kín và bình thản thì lỗ tai nghe ra tiếng mặt hồ
trong xanh phản chiếu mọi động tĩnh của thiên nhiên. Đó là lý do vì sao
người chơi đàn cổ cầm phải tập cho tâm bình ổn, phải rửa sạch tay, phải
đốt hương trầm và suy tư trước khi chạm vào bảy dây đàn.
Bà Mẹ
Trẻ khẽ gật đầu đồng ý. Nàng rất hài lòng. Huệ Viên là một đứa trẻ thiên bẩm, có thể đọc thuộc lòng Kinh thư của Khổng Tử từ lúc còn nhỏ. Đã
nhiều lần chồng nàng thầm tiếc tại sao con bé không phải là nam nhi để
thừa hưởng chức tước của mình. Bên cạnh chị mình, Nghĩa Phù há miệng
cười sảng khoái. Nó ngưỡng mộ chị nhưng cũng sợ chị. Huệ Viên vừa chăm
sóc em vừa chọc ghẹo tính ẻo lả của nó. Con bé luôn tìm cách nổi bật hơn khi chúng cùng ở bên mẹ.
Huệ Viên và Nghĩa Phù là hai ngọn cây
nở hoa mỗi ngày. Huệ Viên cao lớn và mạnh dạn như một cây rừng nhỏ trong khi Nghĩa Phù mảnh dẻ và nhạy cảm như một bông hoa mẫu đơn. Bà Mẹ Trẻ
sợ chúng bị một trận gió lốc nào đó đánh gục! Nàng canh chừng từng bữa
ăn, giấc ngủ. Nàng luôn lo chúng có bị lạnh, bị sốt, bị say nắng, dầm
mưa hay không. Nàng biết một ngày nào đó Huệ Viên sẽ kết hôn và rời xa
nàng đi về nhà chồng, rồi Nghĩa Phù sẽ phải theo cha trên những cuộc
chiến tàn khốc. Những giờ bình an được học đàn này có lẽ là những khoảnh khắc hạnh phúc cuối cùng mà nàng có với con mình. Chúng sẽ sớm trưởng
thành, sẽ rời xa nàng, nàng không còn gặp lại chúng nữa.
Bà Mẹ Trẻ quay mặt đi, âm thầm chùi nước mắt. Rồi nàng tiếp tục lời dạy:
- Hôm nay ta sẽ dạy các con bản Hoa lan trong thung lũng, một khúc nhạc
do Đức Khổng Tử soạn. Ngày xưa, khi bị đuổi khỏi quê hương, Đức Khổng Tử lang thang từ vùng đất này đến vùng đất khác cùng những đồ đệ đi tìm
một đức vua anh minh biết nghe theo lời dạy của mình. Không có ai quan
tâm tới những gì ông nói. Một ngày nọ, khi đi ngang thung lũng, ông phát hiện ra một loài hoa lan nở giữa bụi rậm. Ông dừng lại, chơi một khúc
cổ cầm trước hoa. Các con nói xem, tại sao ông lại soạn khúc nhạc này?
Tranh thủ lúc học đàn cổ cầm, Bà Mẹ Trẻ dạy các con những bài thơ cổ, dậy đạo đức Khổng giáo, dạy các nguyên tắc Lão Tử và kinh Phật. Cả hai đứa bé
là một dải lụa trắng tinh mà nàng muốn vẽ lên những bức tranh đẹp nhất
trong cuộc sống.
Nghĩa Phù mở to mắt. Huệ Viên nhanh nhẹn trả lời:
- Giống như loại hoa quý phái nở trong rừng hoang, Khổng Tử bị các ông
vua ghẻ lạnh nhưng vẫn tiếp tục truyền bá các bài học thông thái trong
dân chúng.
- Con của mẹ giỏi lắm!
Bà Mẹ Trẻ không giấu được niềm sung sướng.
Nàng chơi khúc nhạc hai lần rồi nói hai đứa con chơi lại.
Huệ Viên bắt đầu trước rồi Nghĩa Phù chơi theo. Hai cây đàn vang lên như hai con hoẵng chạy nhảy ở bìa rừng.
Tiếng đàn rõ ràng, sáng sủa vẽ nên những cây cối um tùm trong thung lũng.
Đến khoảng lặng, những bờ đá dốc đứng lại hiện ra.
Những âm thanh bềnh bồng vẽ ra một màn sương mờ lang thang ám vào những hang động.
Những âm thanh xoắn mạnh gợi những dòng nước quanh co xuyên qua rừng.
Các nốt nhạc tung lên như thác nước đổ trong gió.
Những âm “hãm” rung lên rồi trở thành từng chiếc lá mảnh dẻ của loài hoa lan.
Bà Mẹ Trẻ quay mặt đi rồi lại lau nước mắt.
Những cơn ác mộng chiến tranh đã chấm dứt. Dinh thự là một khu vườn đang trổ
hoa. Con trai nàng sẽ là đấng quân vương có dáng đi quý nhân và trái tim nhân hậu. Niềm hạnh phúc này làm nàng đau khổ!
Năm 416
Những cột khói bắc lên tận trời như mái tóc một người phụ nữ buông lơi trong gió.
Những dải sắc đỏ lượn sóng, xoắn lại. Đó là những ngọn lửa bắc thang lên trời để gặm nhấm mây.
Sau tấm màn the, nàng thấy một người phụ nữ đang gội đầu. Ngồi trước một
tấm gương đen, người phụ nữ vận đơn giản một chiếc áo trong màu trắng.
Từ khuôn mặt không son phấn tỏa ra một ánh sáng nhẹ nhàng như đồ sứ cổ.
Đôi mắt bà được tô để tôn lên khuôn mặt hình trái xoan, đôi môi là hai
cánh hoa đào không bao giờ biết đến bão tố. Những ngón tay bà thon dài
dỡ từng thanh cắm tóc khảm ngọc cùng cái lược bằng vàng chạm đá ngọc
thạch rồi đặt chúng lên một khay nhung. Tháp tóc nghiêng xuống rồi xõa
ra. Làn tóc đen chảy qua gáy bà, lượn trên lưng bà rồi lao xuống đất.
Người phụ nữ nằm ra, ngả đầu trên gối bằng ngà rồi nhắm mắt lại. Một
chậu bạc đầy nước ấm và cánh hoa hồng được đưa tới. Một nàng hầu nhúng
mái tóc vào bồn rồi chải chuốt nó. Tay cầm một bình nhỏ, nàng hầu thứ
hai đổ nước lên trán của người phụ nữ. Nàng hầu thứ ba mở một lọ dầu
hương nhài mà nó đã chuẩn bị trước để làm mượt tóc. Tóc vẫn còn ướt được chải từng búi một trong dầu. Những cọng tóc rụng được nhặt từng cọng
một, túm lại thành lọn rồi đặt vào một cái túi nhỏ. Tóc là một phần cơ
thể, một vật phẩm của thánh thần.
Bà Mẹ Trẻ giật mình tỉnh dậy. Nàng nhận ra rằng người phụ nữ đó là mẹ mình và giấc mơ là một ký ức về thời thơ ấu.
Mùa xuân khỏe khoắn đã đến trong thành Kinh Châu và đêm xì xầm muôn lời to
nhỏ. Đó là tiếng măng tre nhú lên, tiếng nụ hoa khép lại, tiếng lá sen
duỗi thẳng trên mặt nước. Bà Mẹ Trẻ thu mình co ro. Dù đắp ba lớp lụa,
cái lạnh ẩm vẫn chui vào. Nàng ho.
Rồi tiếng một con hầu nhanh chóng cất lên ngoài cửa:
- Phu nhân thức dậy ạ? Chúng con có phải thay lò than không ạ?
- Vào đi, – nàng trả lời.
Một lát sau, cánh cửa kéo được vén lên. Năm nàng hầu im lặng đi vào. Một
nàng mang lò than lạnh đi bằng một cái kẹp đồng, một nàng khác đặt trước giường nàng một lò than mới trong đó than đang tí tách ửng hồng, nàng
thứ ba mang đến một lồng ấp chân nhỏ bằng bạc đặt trên khay cùng hai
chén nước cất, nàng thứ tư đưa đến một chậu đựng đầy nước ấm ướp hương
kim ngân, nàng thứ năm mang đến khăn mặt và ống nhổ. Nàng nhúng một khăn vào nước, lau mặt và tay, rồi dùng một khăn khác để lau khô. Nàng súc
miệng bằng tách nước cất đầu tiên, nhổ vào ống nhổ rồi cầm lấy tách thứ
hai để uống. Nàng lấy cái lồng ấp chân rồi đi ngủ lại. Bên ngoài, lính
canh đi tuần gõ chuông báo giờ Dần. Trời sắp sáng. Dù có cái lồng ấp
chân, nàng vẫn không thể thoát khỏi cảm giác lạnh lẽo. Nàng kéo chăn lên đến tận cằm.
Đêm qua, nàng bất ngờ gặp lại đứa em trai út. Khi
họ chia lìa nhau mười sáu năm về trước, nó vẫn còn là một đứa trẻ con.
Bây giờ, nó đã có râu quai nón, trở thành một con người, một người vô
danh. Nó đã kể cho nàng nghe mẹ nàng đã rời khỏi cõi đời để gặp những tổ tiên đáng kính. Rằng gia đình đã không hề nhận được tin tức và không
ngừng tìm kiếm nàng. Không biết tên của tên tướng đã cướp nàng, họ nghĩ
rằng nàng đã chết, cho tới một ngày họ biết rằng nàng đã thành hôn thê
của thống soái, phu nhân thượng cấp trong triều, người phụ nữ đáng kính
nhất của vương quốc chỉ sau hoàng hậu.
Cuộc gặp gỡ giữa đứa em
trai và chị là một tình huống cay đắng đến mức không hề có một tiếng thở dài hay nước mắt. Câu chuyện của đứa em trai, bài ca đều đều về những
năm dài xa cách làm nàng lạnh cứng cả thân thể. Nàng đã chào từ biệt nó
bằng một động tác buồn bã để rồi lại một mình đối diện với nỗi đau.
Tại sao những người đưa tin nói dối nàng? Tại sao chồng nàng cố giấu những bức thư? Nàng đã là một tù binh mà không hề hay biết.
Mười sáu năm, thật dài khi đếm ngày đếm tháng, nhưng đó chỉ như cái chớp mắt trong đời người phụ nữ. Trong mơ, nàng luôn là một cô gái trẻ còn chưa
hề biết cuộc đời tàn bạo; lúc thức dậy, nàng đã là mẹ, là phu nhân trong triều, đã ngán ngẩm những vụ âm mưu ngày càng nhiều quanh mình. Hôm
qua, cuộn hai búi tóc hình hoa trà, nàng nhảy cẫng, chạy, hát reo vui
vẻ. Hôm nay, nàng đi lại giữa một bầy hầu gái và thái giám, rồi luật lệ
trong cung buộc nàng phải đi kiệu và xe đính từng chiếc là bằng vàng.
Từng động tác của nàng không còn tự do nữa; nàng là chiếc áo lộng lẫy
của chồng và con mình, là thứ trang hoàng cho sức mạnh của họ.
Trước căn phòng, có tiếng sột soạt của váy áo. Đó là những nàng hầu thay ca.
Toán hầu ngày đến thay toán hầu đêm. Nàng ho một tiếng, tức thì cánh cửa mở lớn rồi một toán cô gái trẻ bước vội vào. Họ xếp thành ba hàng rồi
quỳ lạy trước giường nàng, đồng thanh hô lớn:
- Nô tỳ bái kiến phu nhân! Kính chúc phu nhân trăm tuổi xuân thì!
Nàng để cho các nàng hầu lau rửa và thay đồ. Một số mang cho nàng nước cất
lúc thức dậy buổi sáng, số khác lại lo việc chải tóc và trang điểm cho
nàng. Bên ngoài cánh cửa đang mở rộng, nàng thấy ngày đã đến. Những lũy
tre và các tòa nhà sơn son thếp vàng xa xa vẫn chìm trong bóng tối.
Người làm tóc vấn từng búi tóc của nàng lên rồi quấn quanh những sợi tóc giả, tạo thành một tháp cao để cắm vào đó những đồ trang sức hợp với danh vị của nàng. Các nàng hầu bôi lên da mặt nàng một lớp dầu thơm. Sau khi đã đánh bóng cổ nàng, xoa hai bên má, viền mắt và thái dương, họ phủ lên
da một lớp phấn làm từ sữa và thảo mộc.
Khi nàng thay đồ xong,
mặt trời đã rọi những tia nắng vàng xuống khu vườn; vô tư không biết đến nỗi đau và khốn khổ của con người, những chú chim hát vang vui mừng.
Trong phòng sinh hoạt, các nàng hầu mang đến hàng chục khay đựng thức ăn cho bữa trưa, nhưng nàng chỉ có thể nuốt một tách trà.
- Mẹ! Mẹ!
Nàng run run. Ngoài thềm, Huệ Viên và Nghĩa Phù đang cúi chào nàng. Nàng ra
hiệu cho chúng vào. Mặc một bộ áo gấm và mang một búi tóc lớn hình con
gà, Huệ Viên ngồi trên ghế vững vàng, khuôn mặt khép nép.
Nghĩa
Phù đã mười tuổi. Nó là một cậu bé dễ thương quấn tóc theo kiểu thông
chúi xuống. Như một người thượng lưu, nó mặc áo có tay dài thêu ngọc
trai và mang đôi dép gót cao bằng gỗ quý. Nghĩa Phù ngồi cạnh Huệ Viên.
Bỗng nó lấy tay áo che mặt rồi nức nở.
Bà Mẹ Trẻ cố giấu nước
mắt. Nàng đã mong con gái được thứ hạnh phúc mà nó sẽ không biết: một
đám cưới linh đình với con trai một người thượng lưu ở Trung Nguyên.
Nhưng nàng không biết chồng nàng đã ra tay để Huệ Viên được chọn vào
triều. Ông thích dùng con gái để đạt những mục đích chính trị hơn. Trở
thành thiếp trong triều, Huệ Viên sẽ là con tốt được đặt dưới quyền
Hoàng đế. Nếu nó sinh được một hoàng tử thì đứa bé sẽ được thừa kế ngai
vàng. Khi Hoàng đế đương trên ngai bị ép thoái vị, đứa bé con sẽ trở
thành Thiên tử. Trong vai vế là ông ngoại, thống soái Lưu sẽ là nhiếp
chính và cai trị hợp pháp toàn bộ đế chế ở bờ Nam.
Những nàng hầu quỳ lạy trước thềm.
- Bẩm phu nhân, xe triều đình đã đến. Thái giám trong cung sẽ vào dinh thự. Xin phu nhân trở gót diện kiến ạ!
Ôm chặt đứa em trai, Huệ Viên gục xuống trong nước mắt. Tay choàng quanh
cổ chị, Nghĩa Phù la hét đến khàn cổ. Bà Mẹ Trẻ lảo đảo đứng dậy. Nàng
dựa vào cánh tay nàng hầu để không ngã xuống. Nàng biết rằng tất cả các
cô gái trẻ vào Tử Cấm Thành đều không được gặp cha mẹ nữa và phải sống
trong im lặng. Phải cạnh tranh với mười nghìn tỳ thiếp khác để được sự
sủng ái của Hoàng đế, con bé sẽ chết vì tủi nhục, vì bị đầu độc hoặc vì
bị lãng quên.
Bà Mẹ Trẻ đi qua hai đứa bé mà không nhìn chúng.
Bên ngoài, mặt trời chói chang. Nàng nhìn lại chiếc váy cưới mà nàng đã
không mặc nữa khi lánh nạn chiến tranh. Hằng hà sa số những nét thêu vẽ
thành hình hoa mẫu đơn, bướm, chim, cây cỏ và mây trời. Tại sao cái niềm hạnh phúc đơn giản này cô con gái nàng lại không thể có?
Nàng
chùi nước mắt rồi ra lệnh cho người trang điểm dặm phấn lại mặt mình
cũng như cô con gái. Nàng ngẩng cao đầu rồi lấy lại giọng điệu quý phái
và lạnh lùng của một phu nhân thượng cấp trong triều. Nàng túm váy lên
rồi đi xuống thềm để đón đoàn thái giám của triều định đến tìm Huệ Viên. Theo đúng luật, lối đi chính điện được phủ một dải lụa dài và vải lông
đỏ thẫm. Dưới chân mang đôi giày vàng mũi cong, nàng cảm thấy một dòng
sông máu đang chảy.
Năm 417
Mười hai tháng đã trôi qua
mà Bà Mẹ Trẻ không thể thoát khỏi sự đờ đẫn bắt nhốt nàng, làm nàng vô
cảm với mọi cơn đau và vô cảm với mọi sự.
Ở trên núi Bắc, chùa
Đại Bi trôi giữa mây trời, Bà Mẹ Trẻ từ chối đi kiệu để leo ba nghìn bậc thang thể hiện lòng thành Phật pháp. Khi nàng đến được cổng vào, sư
Phát Quang ngạc nhiên chào nàng.
- Đừng từ chối ta, – Bà Mẹ Trẻ
nói với sư. – Ta mới vừa bỏ cung đình. Hãy cho ta ngồi trong một phòng
tu như một người đàn bà bình thường lánh nạn nơi đất Phật.
Ở
chùa, những nữ tu thức dậy lúc sáng sớm và chỉ ăn hai bữa nhẹ mỗi ngày.
Đã rời bỏ áo lụa và trang sức vàng bạc, Bà Mẹ Trẻ mặc một chiếc áo vải
gai thô và theo một chế độ ăn chay: một bát cháo trắng, một nhúm ngũ cốc và vài cọng rau. Đôi má tròn trĩnh, cơ thể đầy đặn, mái tóc dày và óng
mượt của nàng tương phản với cánh tay xương xẩu và sắc da xanh nhợt nhạt của các tu sĩ. Da sạm và khô, các nữ tu giống như những cây khô rụng lá vào mùa đông. Họ đi theo đoàn chậm rãi, ngồi xuống mỗi người một góc
không gây ra tiếng động trong các phòng tu và gặp nhau để đọc kinh. Họ
ít nói, không tán gẫu, không bao giờ cười. Không ai hỏi Bà Mẹ Trẻ tại
sao nàng lại muốn đến nơi này. Khuôn mặt họ không chút biểu cảm. Cái
không của tôn giáo, sư Phát Quang nói với nàng, đó là sự xa rời khỏi
nhục dục và những tình cảm phàm trần. Người ta phải dẹp bỏ bản ngã và
chấp nhận làm một nét tối. Nhiều nét tối sẽ làm thành bức thư pháp mà
thần linh tìm kiếm.
Trên bậc thềm vào chùa, khi trời đẹp, Bà Mẹ
Trẻ mở tầm mắt nhìn cánh rừng mở rộng đến tận đầu ngón chân nàng và ngắm dòng sông Dương Tử. Quanh nàng, những đỉnh núi nhuốm hồng khi mặt trời
xuống. Khi thời tiết xấu, từng đám mây cuồn cuộn kéo tới vây quanh,
sương mù từ dưới đất sâu dâng lên, cây cối biến mất, con đường mòn dẫn
lên chùa biến mất, thế gian trở thành một quả cầu tròn mờ đục, làm người ta thấy con đường giữa thế giới bên ngoài và thế giới trong chùa vĩnh
viễn bị ngăn cách.
Trong phòng Tam Thế Phật, nàng tụng kinh đến
tận khi cảm thấy cơn sốt sắp tóm lấy mình và linh hồn nàng rời khỏi cơ
thể để hòa vào những nén hương. Nàng xin Phật tha tội cho chồng nàng,
người đang viễn chinh ở phương Bắc, khi chinh phục được nhà Yên do một
bộ tộc Tiên Ti dựng lên, đã cho xử chém ba nghìn quan lại giữa chợ. Nàng cầu xin chư thế Phật bảo hộ những đứa con thơ dại của mình để chúng
không phải chịu đựng số phận tồi tệ lần nữa.
Phật Thích Ca Mâu
Ni, Phật Dược Sư và Phật A Di Đà, những người chủ của Hiện tại, Quá khứ
và Tương lai vừa lắng nghe nàng vừa mỉm cười.
- Phu nhân! Phu nhân!
Tiếng la hốt hoảng của những người phụ nữ chen vào dòng suy nghĩ của nàng. Nàng nhận ra tiếng một nàng hầu:
- Bẩm phu nhân! Xảy ra chuyện lớn rồi! Xin phu nhân theo chúng con ngay.
Chúng con vừa biết cậu nhà phải rời thành Kinh Châu theo thống soái ra
mặt trận phương Bắc!
Bà Mẹ Trẻ ngước nhìn Tam Thế Phật. Trán nhăn nheo, đôi mắt khép hờ, khóe môi nhoẻn cười, họ chỉ cho nàng con đường nhập định.
Những nàng hầu đã vào trong phòng và quỳ gối.
- Xin phu nhân mau trở về. Chỉ có phu nhân mới phá được âm mưu đang vây
quanh cậu nhà. Kiệu cho phu nhân đã sẵn sàng, đang chờ phu nhân ở cửa ạ!
Nàng thở dài rồi đứng dậy. Kinh Châu đã nhắc nàng về chức vị và nghĩa vụ. Sư Phát Quang tiễn nàng đến tận cửa chùa mà không đưa ra bất kỳ lời bình
phẩm nào. Chắp tay lại, sư cúi đầu chào nàng. Bà Mẹ Trẻ cũng chào sư rồi đôi mắt nàng dừng lại nơi cái đầu đã cạo của vị nữ tu. Khi tóc của Bà
Mẹ Trẻ được gội và chải thẳng, chúng quấn quýt vào nhau và ru nàng ngủ
làm nàng có cảm giác trở lại thuở ấu thơ. Từ đâu sư Phát Quang có được
sức mạnh để từ chối bộ phận này trên cơ thể, bộ phận đã làm nên tính nết hiền hòa của một người phụ nữ?
Trên đường xuống núi, Bà Mẹ Trẻ
biết rằng Trường An, trái tim của Trung Nguyên, cố đô của các triều Hoa
Hạ, vùng đất đầy mộ tổ tiên nàng, đã được chồng nàng giải phóng; những
cư dân Trường An đã đón thống soái như người cứu độ Hoa Hạ và tôn chàng
làm thủ lĩnh. Nhưng vì vội vàng về lại phương Nam, nơi chàng đánh hơi
thấy một âm mưu chống lại mình, chồng nàng đã theo lời khuyên của những
người hầu cận và quyết định đem Nghĩa Phù lên miền Bắc cai trị thay
mình.
Ở cảng Kinh Châu, ánh sáng đã tắt và sương mù bao phủ.
Những con thuyền bị che mất đỉnh buồm và phần cánh buồm. Chúng trở thành những đường cong đứt đoạn, những nét rời rạc.
Lúc nhỏ, nàng đã
biết ở phía đông, dòng sông mở rộng ra rồi trở thành biển cả. Nơi đó, có hai hòn đảo trôi nổi theo sóng, cây cối luôn xanh tươi quanh năm và trổ ra những trái thơm ngát, những thác nước mù hơi đổ vào hồ nước nóng.
Mặc đồ may bằng mây và bằng ánh sáng, những con người bất tử ở đó sống
thỏa mãn, vô tư lự. Hoàng đế đầu tiên, Tần Thủy Hoàng, đã cho đóng một
con thuyền khổng lồ sơn đỏ mạ vàng và đá quý. Năm trăm thanh niên và năm trăm cô gái đã được chọn để đi đến tận cùng thế giới tìm những hòn đảo
này, nơi cất giữ bí mật về sự bất tử. Là ông hoảng của các vương quốc mà mình đã đánh sập thành, ông hoàng của các đoàn quân vượt qua mưa tuyết, nhưng Hoàng đế Tần Thủy Hoàng đã không được những người bất tử lựa
chọn. Con thuyền đi mãi không về.
Trên bờ, đứng đầu đoàn người,
Bà Mẹ Trẻ chờ đợi. Sau lưng nàng, Nghĩa Phù run lên vì lạnh và muốn về
nhà. Nàng buộc nó phải đứng đó và mở mắt thật to để nhìn. Một bóng tối
kéo đến. Cái miệng hung tợn của con ác thú ló ra khỏi sương mù, rồi để
lộ ra thân hình quái vật, nơi những mái chèo có vô số chân di chuyển
nhịp nhàng, đánh lên từng đợt sóng cuồn cuộn. Nàng quay lại để chắc chắn Nghĩa Phù đang chắp tay trên trán và cúi chào con thuyền của cha nó.
Một con thuyền nhỏ cập bờ. Trong tiếng ồn ào của binh khí, một toán lính
tuôn ra từ đó rồi chia thành hai hàng. Ở cuối hàng, một người quân sư
thân cận của chồng nàng bước lên. Thất vọng và bực tức, Bà Mẹ Trẻ vẫn cố giữ nguyên cốt cách. Đã lâu rồi nàng không được gặp lại chồng mình và
họ chỉ trao đổi với nhau gián tiếp qua người đưa tin. Quân sư vội vã
bước chân và quỳ gối trước Bà Mẹ Trẻ. Ông rút ra một cuộn giấy từ tay áo rồi dâng bằng hai tay qua đầu.
- Bẩm phu nhân, đại thống soái,
tổng quân bình định phương Bắc, tể tướng đương triều đang chờ mong quý
tử ở Trường An. Ngài đã gửi thần đến để hộ tống quý tử về phương Bắc.
Mắt Bà Mẹ Trẻ liếc qua cuộn giấy. Nàng nhăn mặt, nhấc cằm rồi trang trọng nói:
- Trong vai trò là người nối dõi họ Lưu, con trai ta Nghĩa Phù sẽ không
đi về phương Bắc. Nó sẽ không rời khỏi thành Kinh Châu. Ngươi hãy trở về đi.
Gió thổi giọng nói mạnh mẽ của nàng. Hoàn toàn sững sờ, viên quân sư cúi đầu rồi lạy tạ, hai tay để dọc bên đùi.
- Bẩm phu nhân, đây là lệnh.
Bằng một động tác nhanh gọn, nàng xé bức thư viết lệnh của chồng có con
triện của thống soái rồi ném nó xuống đất. Quan lại và binh lính la lên
sợ hãi rồi đứng nghiêm lại. Nàng quay đi, nhẹ nhõm vì lần đầu nói không
với chồng.
- Đến đây, chúng ta về! – Nàng nói với Nghĩa Phù đang đứng sững như tượng.
Nàng nắm tay nó, dẫn tới xe ngựa. Các quan thái giám đi theo, cùng với quân
lính hộ vệ. Đoàn người rời khỏi bến thuyền, để mặc những người đưa tin
từ phương Bắc.
Vài ngày sau, Nghĩa Chân, con trai thứ hai của
chồng nàng, sinh sau Nghĩa Phù một tháng, vượt qua dòng Dương Tể để vào
thành Trường An. Giống như Nghĩa Phù, nó mới mười một tuổi.
Thông qua những thái giám thân tín, Bà Mẹ Trẻ biết rằng trong nội cung ở Tử
Cấm Thành, Hoàng đế cảm thấy bị đe dọa vì danh tiếng của thống soái nên
đã từ chối vinh danh con gái nàng là Huệ Viên, còn hoàng hậu thì sỉ nhục nó công khai. Những bức thư của Huệ Viên rất hiếm hoi. Chúng được viết
theo những công thức khách sáo, lễ nghĩa. Bà Mẹ Trẻ đọc những con chữ
lạnh lẽo và lịch sự này với nỗi lòng tê tái của một người mẹ không bảo
vệ được con mình. Nàng thức giấc giữa đêm, nghĩ rằng đã nghe tiếng Huệ
Viên, chỉ để biết rằng nàng đã mất đứa con gái vĩnh viễn.
Năm 418
Mùa xuân lạnh lẽo đã đến. Qua tấm mành xe ngựa kéo, Bà Mẹ Trẻ chỉ thấy
người già và phụ nữ trong sương mù. Những người đàn ông hiếm hoi mang áo và mũ giáp, bao tên và lưỡi kiếm. Ở bến thuyền, thuyền bè cập bờ để rồi lại lên đường, đưa người bị thương xuống rồi lại mang lính viện binh
lên. Trước cái nồi lớn mà Bà Mẹ Trẻ cho đem đến, những người lính cụt
tay cụt chân, mù lòa, rách rưới và rên xiết đứng xếp hàng để nhận từng
chén canh nóng. Họ sẽ được phân tán vào những doanh trại để được chữa
trị rồi lại gửi lên phương Bắc chiến đấu tiếp.
Chồng nàng giờ ở
đâu? Bà Mẹ Trẻ không cần biết nữa. Nàng ngắm dòng Dương Tử và chỉ thấy
một màn nâu của sương mờ và hơi nước nối liền trời và đất. Sáu tháng
trước, chồng nàng bất ngờ trở về Kinh Châu. Vừa về đến, chàng đã gặp các tổng quân, những quan lại phòng quân, những chiến binh đánh thuê. Giọng họ lúc thì đều đều, lúc thì bị kích động vượt ra khỏi những cánh cửa
màn kéo. Bà Mẹ Trẻ chờ đợi chàng vô vọng trong phòng. Lúc đêm thâu, khi
nàng đến tìm chàng, tất cả nến đều đang cháy và nàng thấy chàng đang ngủ giữa phòng tiếp khách, áo giáp còn chưa cởi. Chàng đang ngồi trên ghế,
để một tay lên bụng, chàng ngả đầu trên tay kia đang đặt trên chiếc ghế
thấp kế bên mũ giáp. Trong ánh sáng của nến, nàng phát hiện ra tóc chàng đã bạc. Nàng lui ra mà không đánh thức chàng. Ngày hôm sau, khi nàng
đến, mọi người nói chàng đã lên đường.
Nhiều đêm liền, lính
tráng qua lại làm nàng lo ngại. Trong mơ, thân thể họ héo hon, những vết thương hằn sâu, còn phụ nữ và con trẻ mà họ bỏ lại thì đang khóc than.
Bà Mẹ Trẻ ra lệnh cho nhà bếp lớn, nơi những đầu bếp tay chân lông lá có thể chặt cả một con heo bằng rìu, từ nay phải chuẩn bị các bữa ăn cho
lính bị thương. Nàng cho đặt một nhà bếp nhỏ gần tòa nhà của mình và ra
lệnh nấu theo những thực đơn đặc biệt cho Nghĩa Phù, để phát triển thể
chất mà nàng cho là dễ bị tổn thương ở tuổi đang lớn. Những cô gái trẻ
tay trắng nõn, móng tay gọn gàng nhào bột, làm bánh và viên thịt, nấu
những chén xúp đựng trong bụng trái cà tím, trái mướp, trái bí. Họ trộn
lá trà với gừng, trộn rễ tre với các phụ gia mua ở vùng phía tây, ướp cá trước khi bọc bằng lá chuối rồi hấp lên. Họ đặt những mẩu sừng hươu
trong một cái tô chôn xuống đất trước khi lấy lên nấu. Ngồi gần Nghĩa
Phù khi nó ăn, Bà Mẹ Trẻ nhìn theo từng cử động của cánh tay và răng hàm nó.
Được tôn làm tổng đốc của thành Trường An, Nghĩa Chân, con
thứ hai của chồng nàng không biết trị vì. Quanh vị thủ lĩnh mới mười hai tuổi, các quan lại mưu hại lẫn nhau để cai trị thay nó. Sự tranh giành
của họ cuối cùng không thoát khỏi tay những người láng giềng. Nước Hạ
dấy quân man di chiếm Trường An. Hoảng sợ, Nghĩa Chân bỏ kinh thành chạy về phương Nam. Trên đường về, nó không biết cấm quân sĩ cướp bóc và bắt bớ phụ nữ. Chậm chạp vì túi nặng chiến lợi phẩm, quân đội của nó bị
lính nước Hạ bắt giữ.
Nếu Nghĩa Chân chết ở phương Bắc, Bà Mẹ
Trẻ nghĩ, thì con trai nàng là Nghĩa Phù sẽ củng cố sự thừa kế hợp pháp
và không còn kẻ nào ngăn nó lên kế vị. Kinh hãi vì mình dám nghĩ tới
điều thất đức, nàng quỳ sụp dưới chân Phật và cầu nguyện cho Nghĩa Chân. Vài ngày sau, nàng được tin trong số một trăm nghìn lính, chỉ huy Nghĩa Chân và vài trăm lính thân cận thoát được cuộc thảm sát của quân Hạ để
trở về phương Nam.
Mất thành Trường An và sự trở về của Nghĩa
Chân từ phương Bắc đã thúc đẩy nhiều sự việc trong triều. Rồi thình lình Bà Mẹ Trẻ được tin về cái chết đột ngột của Hoàng đế do chứng bệnh
đường ruột. Trước đám đông thái giám, nàng giữ khuôn mặt thản nhiên và
làm ra vẻ không biết họ đang nghĩ gì. Ai có thể không nghi ngờ chính
chồng nàng đã hạ độc Hoàng đế? Một hoàng đế mới sẽ lên ngôi, Bà Mẹ Trẻ
biết rằng hoàng đế đó đã được chọn vì là kẻ nhu nhược nhất trong các
hoàng tử. Ở tuổi mười tám, Huệ Viên không bao giờ biết được niềm hạnh
phúc của phụ nữ mà đã phải trở thành góa phụ trong triều. Nó sẽ phải làm góa phụ đến tận cuối đời và phải lựa chọn trở thành một nữ tu trong
chùa hoặc ở lại trong cấm cung để chịu tang. Bà Mẹ Trẻ gấp rút viết thư
cho chồng để xin chàng cứu con bé ra khỏi ngục tù. Nàng không nhận được
câu trả lời.
Một đêm, nàng thức giấc vì có tiếng động trước
phòng. Những chiếc lồng đèn lướt qua lướt lại dọc những bức rèm tranh và rọi sáng dáng người một viên quan mặc giáp quỳ lạy trước mặt nàng.
- Phu nhân, đại quan thống soái đã lệnh cho thần gấp rút đến Kinh Châu.
Thần phải bí mật hộ tống quý tử về kinh đô Kiến Khang. Phu nhân, xin
thức giấc và chuẩn bị. Chúng ta sẽ lên đường ngay lập tức.
Nàng
thay đồ rồi leo lên xe ngựa phủ trướng xanh thêu những nhánh hải quỳ
tía, trang hoàng những lá vàng và cắm cờ đỏ trắng của chồng nàng. Ngày
mới vẫn chưa đến, nàng nghe tiếng vó ngựa băng qua đường phố trong
thành. Giọng nói trầm trầm của con người, tiếng lao xao của binh khí,
tiếng ngựa hí vang lên. Nàng nhận ra rằng cả một hệ thống bắt đầu vận
hành để hộ tống nàng về kinh đô, nàng với tìm tay đứa con trai trong
bóng tối. Thích được mẹ nắm tay, thằng bé ngả qua người nàng rồi gối đầu lên chân nàng.
- Ngủ đi con, – nàng vừa nói vừa vuốt mái tóc nó. – Đường còn xa lắm.
Mười tám năm trước, trong một chiếc xe la kéo, nàng ôm siết bụng bầu và chạy trong bóng tối, không biết người ta sẽ chở nàng đi đâu, không biết liệu khi kết thúc chuyến đi sẽ là cái chết hay sự sống. Ai đang chờ họ ở
kinh đô? Lệnh về Kiến Khang có phải từ chính thống soái không? Hay chính những kẻ âm mưu đã đầu độc chồng nàng rồi giăng bẫy Nghĩa Phù, người kế vị? Số phận đang mang điều gì đến với họ? Ôm đầu thằng bé trong tay,
nàng bắt đầu hát một khúc ca của Mẹ Lưu.
Hai ngày sau, nàng vào
dinh thự thống soái bằng cổng chính. Tất cả các quan lại, tướng lĩnh,
hầu cận, thư lại đứng dọc hai bên lối đi chính đều lạy chào nàng. Nàng
lo lắng khi biết chàng đang chờ nàng trong nội cung. Băng qua bức tường
cao ngăn cách thế giới đàn ông và thế giới đàn bà, nàng ngạc nhiên vì sự chào đón mà chàng đã chuẩn bị cho nàng. Các tỳ thiếp, phu nhân tổng đốc và nàng hầu xếp thành hai hàng, họ cũng cung kính chào khi nàng đi qua.
Chồng nàng đứng trên thềm nhà. Nàng lên bậc thang. Sau lưng nàng, Nghĩa Phù
ngoan ngoãn theo sát gót. Đại quan thống soái không chờ được Bà Mẹ Trẻ
và đứa con trai cúi chào, chàng nói ngay:
- Hoàng đế nhà Tấn đã
quyết định nhường ngôi báu lại cho ta. Di chúc sẽ được tuyên bố ngày
mai. Ta đã xem chiêm tinh. Triều đại mới mà ta lập ra là nhà Tống. Suốt
những năm chiến tranh nàng đã theo ta và âm thầm ủng hộ ta. Nàng đã cho
ta một người kế vị và nàng đã chấp nhận xa ta khi ta cần nàng canh giữ
thành Kinh Châu. Tất cả những đau khổ mà nàng đã phải trải qua bây giờ
sẽ được bù đắp. Nàng phải biết ơn những điều đó. Nàng sẽ là hoàng hậu
của ta.
Nàng lùi lại một bước rồi nhìn quanh mình. Tất cả phụ nữ đã quỳ xuống, chỉ còn một mình nàng đứng. Từ hai mươi năm nay, thế gian đồn đại về tham vọng mà chồng nàng giấu kín trong khi nàng không hề tin vào những điều vu khống đó. Hôm nay, quyết định phá bỏ luật lệ, chàng
đã buộc nàng phải phạm tội và gắn nàng với những thủ đoạn của mình.
Nàng xấu hổ và sợ hãi. Nàng khom lưng, liếc mắt nhìn Nghĩa Phù để lấy chút
sức mạnh từ đó rồi đứng thẳng lại. Một giọng nói, như tiếng rít, thoát
ra khỏi cổ họng nàng:
- Không, thưa quan lớn. Thần từ chối!
- Cái gì?
Giọng nổi giận của chồng nàng làm nàng run rẩy. Nàng cảm thấy một bóng tối dữ tợn đang trườn trên người mình. Nàng bất chợt nhận ra mình vừa kết tội
chồng thừa kế bất hợp pháp và coi chồng là kẻ soán ngôi.
Nàng ngước lên, ánh mắt nàng dè dặt nhìn hết thảy đám đông.
- Nàng Tăng, dù đã qua đời, là người phụ nữ duy nhất xứng đáng được nhận
tước hiệu cao quý tột cùng này. Vì chính nàng đã chia sẻ sự cùng quẫn và những nỗi khổ nhục thời trai trẻ của chàng mà không dám than một lời.
Sớm bị gọi về nơi đất Phật thanh cao, nàng đã không thể cùng hưởng sự
giàu sang quý hiển của chàng. Nhưng linh hồn nàng vẫn tiếp tục dõi theo
chúng ta, tiếp tục cầu nguyện cho chàng. Thiếp không có quyền được hưởng đặc ân, xin chàng hãy vinh danh nàng Tăng quá cố là hoàng hậu.
Năm 420, triều Tống
Đi sau Hoàng đế, Bà Mẹ Trẻ mặc bộ đồ chín lớp vải thêu chín biểu tượng
hoàng triều và vấn tóc búi cao cắm đầy đá quý. Từ trên cao bên cửa Ánh
Sáng màu tím tía, nàng ngắm Tử Cấm Thành từ nay sẽ là nhà của mình. Mười nghìn nhạc sĩ cung đình ngồi bên hiên những cung điện gõ chuông đại và
chơi những khúc nhạc lễ nghênh tiếp trong cung.
Hàng trăm đôi
chân đứng thấp hơn, trước cổng Ánh Sáng, gồm các hoàng tử, công hầu, nhà ngoại giao, quan lại triều đình, tướng lĩnh mặc những bộ đồ màu sắc
khác nhau, tùy theo chức vị, trật tự lớp lang mà lần lượt cúi lạy.
Tiếng leng keng trang trọng của chuông đồng lại vang lên.
- Hoàng đế vạn tuế… Hoàng đế vạn tuế…
Tiếng chúc tụng vang lên rồi dịu xuống.
Mặt đất rung động, bầu trời nghiêng ngả, mây như những bầu vú căng phồng
hơi mưa liếm qua những mái bằng vàng của các cung điện. Bà Mẹ Trẻ ba
mươi sáu tuổi. Trải qua nhiều năm trời trong bóng tối của dinh thự Kinh
Châu nên da nàng vẫn trắng trẻo không tì vết. Nàng dùng làn da trắng
trẻo này như một chiếc mặt nạ che giấu nỗi lòng mình. Được hứa gả cho
con trai nhà họ Vương, bị tướng Lưu bắt đi, nàng đã chấp nhận làm thiếp, xem mình như vợ một nông dân trở thành nhà binh, rồi bây giờ nàng là
phu nhân của một kẻ soán ngôi.
Cách đó vài bước chân, Thiên tử
mới với khuôn mặt rám nắng đầy nếp nhăn, mái tóc bạc trắng giấu sau một
chiếc mũ làm từ những sợi chỉ vàng, mang trên mình chiếc áo hoàng bào
thêu nhiều tầng nhiều lớp. Dù sang trọng trong bộ áo hoàng triều, chàng
vẫn có vẻ đã yếu đi và mệt mỏi. Bà Mẹ Trẻ biết chồng mình vốn quen với
vó ngựa chiến chinh, với áo giáp và lời nói thô lỗ của binh lính, chắc
chắn cảm thấy khó chịu với những luật lệ chán chường của chiếc vương
miện và rất bực mình vì phải mặc những bộ đồ quá cầu kỳ. Nhưng vì chính
chàng đã điều chỉnh đường đi của các vì sao để được hưởng ân sủng của
trời cao, chàng phải kiên nhẫn chấp nhận tất cả những ràng buộc này. Cặp lông mày hơi cau lại, nhoẻn miệng cười, chàng cho thấy một vẻ mơ màng,
một niềm vui đang cố kìm giữ.
Bên cạnh Bà Mẹ Trẻ là hoàng tử nối ngôi. Mười bốn tuổi, Nghĩa Phù lớn nhanh như thổi, mặc chiếc áo người
kế vị một cách chỉnh tề cùng với chiếc mũ bằng bông nhuộm đen cắm một
nhành ngọc thạch trắng dài. Bà Mẹ Trẻ chợt thấy nó nháy nháy mắt và
nhoẻn miệng. Nó nhăn mặt để thư giãn khuôn mặt co rúm lại vì không khí
trang nghiêm mà nó phải ra vẻ phù hợp. Nàng biết nó cảm thấy nặng nề vì
những tiếng xưng tụng, hốt hoảng vì những lễ nghi hiếu thảo đang chờ nó. Một cảm giác hối tiếc bao trùm lấy nàng. Nghĩa Phù đã được nàng nuôi
lớn. Những năm qua, nàng đã giữ nó trong những hành lang ở Kinh Châu,
tránh xa những âm mưu quyền lực và sự tàn bạo của chiến tranh. Nó chỉ là con ngỗng con hiền hòa của giới thượng lưu. Nàng đã dạy nó theo truyền
thống của cổ nhân Trung Hoa, để nó trở thành một trượng phu thông kim cổ hiền hòa và sở thích tao nhã. Không bao giờ nàng nghĩ tới việc biến nó
thành một hoàng tử nối ngôi, một hoàng đế.
Chồng nàng quay lại
phía nàng. Gia đình hoàng đế mới phải đến dự lễ, nơi năm nghìn bộ đồ ăn
đã bày sẵn. Khi đi ngang qua Nghĩa Phù, chàng dừng lại rồi thì thầm vào
tai nó. Nghĩa Phù nhẹ bước lùi lại.
Dù không mang vương miện
hoàng hậu, Bà Mẹ Trẻ vẫn được ngồi ở phòng tiệc như là hoàng hậu. Ngồi
giữa chồng và con, nàng lại nhận được sự cúi chào tôn kính của những
thượng quan trong triều. Một hàng người kéo dài đến tận những tòa nhà
bên ngoài. Người đầu tiên tiến lên, quỳ gối, chúc chồng nàng vạn tuế là
hoàng đế trước đây của nhà Tấn, bị giáng làm thường dân. Rồi ông ta nhẹ
nhàng lui gót về chỗ, tay để dọc theo người.
Hoàng tử, những
người thừa kế, các quan cai quản các bộ, tướng lĩnh, quan lại nối đuôi
nhau, lần lượt quỳ gối, cúi lạy. Họ mất hết gương mặt và cơ thể để trở
thành những cái bóng di động trên chân của mình. Dưới bục, trong bóng
tối, một biển đồ cống nạp chảy dồn vào. Nàng quay sang Nghĩa Phù đang
nhắm mắt. Nàng mỉm cười, thầm đưa tay nhéo vào đùi nó. Nó giật mình.
Không nhúc nhích đầu, nàng hỏi nó:
- Lúc nãy cha con nói gì vậy?
Nó rên rỉ:
- Người ta sẽ dạy con việc triều chính…
Nàng quay sang nhìn chồng mình. Mặt chàng tách ra khỏi những mái xà thếp
vàng, những chai lọ và đèn nến khổng lồ. Khi bất động, chàng trông giống như một phiến đá đơn độc giữa những cơn sóng hung dữ của dòng Dương Tử.
Những cánh cửa hoàng cung được bọc đồng cao đến chóng mặt, lần lượt mở ra
trước mặt nàng. Một lối đi lát đá khoáng vật, trang hoàng bằng rồng và
phượng chạm khắc, hiện ra, dẫn nàng đến những hậu cung, nơi người phàm
cấm được vào. Những bức tường tím tía không còn là vách ngăn; nàng lệnh
nhấc then cửa, rút thanh cài. Khi nàng đi sâu vào cấm cung, những bầy
phụ nữ nhỏ nhắn, trắng trẻo, thon thả trang điểm phấn son để chào Hoàng
hậu mới và chúc nàng vạn tuế. Nàng thật đau xót biết mấy khi gặp Huệ
Viên trong khu những góa phụ. Nếu những hoạn quan không dẫn nó đến, chắc nàng không thể nhận ra. Chỉ vài năm, con bé đã không còn hai má đầy đặn và bờ môi tươi trẻ thời con gái. Trong bóng tối của các cung điện hoàng triều, nó đã trở thành một phụ nữ gầy trơ với khuôn mặt hốc hác, tích
góp trong cơ thể mảnh khảnh một sức mạnh nam tính lạ kỳ. Trước mặt người mẹ đang tìm cách thể hiện niềm vui và sự âu yếm, nó vẫn im lìm và lạnh
lùng. Sau những chào hỏi lễ nghĩa, nó xin phép được lui. Bà Mẹ Trẻ biết
được rằng từ lâu con gái nàng chỉ ăn chay và theo giới luật của những
người theo Phật. Nó không còn dự những bữa tiệc trong cung điện và sống
trong sự im lặng của tòa nhà đã trở thành đền thờ.
Bà Mẹ Trẻ quỳ sụp xuống chân Hoàng đế rồi khóc lóc thảm thiết. Một tháng sau, sau
nhiều buổi chầu ở chánh điện với các quan đại thần, Hoàng thượng đã ra
chiếu chỉ cho thư lại hoàng triều soạn: Huệ Viên, thiếp của triều trước
đây, sẽ thay đổi chức vị và trở thành công chúa trong hoàng tộc. Vì Bà
Mẹ Trẻ vẫn tiếp tục lui tới cung điện của chồng than vãn và khóc lóc,
Hoàng đế đã thông qua sắc lệnh thứ hai, cho phá bỏ luật góa phụ và cho
phép các tỳ thiếp được tái hôn.
Nhưng tin tức đến quá chậm trong một thế giới đã bị vỡ tan. Huệ Viên đón nhận sự tự do trong vô cảm.
Ngay khi được rời khỏi Tử Cấm Thành, nó cũng rời xa cha mẹ, vào ở trong
điện của mình. Bà Mẹ Trẻ thúc giục nó tìm một tấm chồng. Nàng gặp những
người mai mối do các triều thần gửi đến và hỏi thăm họ hàng của những
người cầu hôn. Nàng bám lấy Hoàng đế để chàng không dùng Huệ Viên tạo
một mối quan hệ đồng minh chính trị. Khi nàng biết chàng đã tổ chức
những cuộc đàm phán với một vị vua man di phương Bắc, đẩy hoàng tử nối
ngôi Nghĩa Phù lên chiến tuyến, nàng đã quấn lấy chân chồng và đe dọa tự sát nếu Huệ Viên phải vượt qua dòng Dương Tử sống trong cung của người
Tiên Ti hay người Hung Nô.
Bà Mẹ Trẻ đập bàn mạnh đến mức Huệ
Viên ở cuối cung điện còn nghe được. Sau đó, nó đã gửi một bức thư dài
đến cho cha, trình bày ý muốn trở thành nữ tu. Bị Hoàng đế gọi vào để
chuyển cho đọc bức thư, Bà Mẹ Trẻ rụng rời vì những gì mình đọc được.
Như một người đắm thuyền tìm một khúc gỗ trong vô vọng, nàng rơm rớm
nước mắt quay sang nhìn người chồng đang nổi giận. Trong khoảnh khắc,
nàng hiểu rằng chàng, vốn là kẻ chiến thắng quân man di phương Bắc và
những tổng đốc phương Nam, không còn động lòng với cảm xúc nữa.
- Khóc lóc vô ích. Ta đã quyết rồi. Ta cần Huệ Viên để thực hiện việc
thống nhất Nam – Bắc. Số phận mà ta định cho dân tộc Trung Hoa quan
trọng hơn thân phận một công chúa. Nàng hãy đến nói nó thay đổi ý định
đi.
Giữa người man di hay đền thờ cho đứa con gái thì Bà Mẹ Trẻ
thích lựa chọn đầu tiên hơn. Để thuyết phục Huệ Viên, đứa bé cứng đầu
như cha nó, nàng quyết định viện đến bài học hiếu thảo mà Đức Khổng Tử
dạy trong Kinh thư. Nàng muốn kể cho nó nghe niềm vui của Bà Mẹ Trẻ,
người đã mang thai và cho nó ra đời. Nếu trong trường hợp tất cả lời lẽ
của nàng thất bại, nàng sẽ quyết đem nó về lại Tử Cấm Thành rồi sống với nó một thời gian.
Bà Mẹ Trẻ cho chuẩn bị xe rước rồi đi tới
điện của công chúa. Nàng đi băng qua sân, những hành lang, những khu
vườn và những tòa nhà. Căn phòng của Huệ Viên đã đóng cửa. Nàng gọi nó
liên tục, nó vẫn không trả lời. Nàng cho thái giám lấy rìu phá cửa. Khi
vào được bên trong, nàng uất ức tới mức chẳng còn chút máu trong người.
Hàng trăm ngọn đèn dầu nhảy nhót trong bóng tối. Một bức tượng Phật dựng ở giữa căn phòng. Dưới chân Phật, Huệ Viên cắt đi mái tóc dài rồi trải
ra quanh nó. Khi thấy mẹ tới gần, nó đưa mũi kéo xuống cổ họng. Hai mắt
lấp lánh ném ra cái nhìn giận dữ.
- Phật đã phù hộ cho con rồi! – Huệ Viên hét lên, giọng đã khàn. – Nếu cha mẹ không đồng ý để con xuất
gia, con sẽ chết ngay tức khắc!
Con đường lầy lội đất nhão nhoẹt vì bánh xe và vó ngựa mở ra dọc theo sông Dương Tử. Một chiếc xe lừa
kéo rời xa trong sương mù của buổi chiều tàn. Nó chở Huệ Viên về Kinh
Châu để đến với sư Phát Quang trên chùa Đại Bi trong núi Bắc.
Hôm trước đó trời đã mưa. Những chiếc lá thu chao lượn rồi trôi trên mặt
nước tối tăm. Ngồi giữa chòi nhạc, nơi nàng soạn cho con gái bữa ăn gia
đình cuối cùng, Bà Mẹ Trẻ cảm thấy mình bắt đầu già đi. Cái thở dài của
chồng nàng kéo nàng ra khỏi sự đờ đẫn:
- Ta đã mang theo mình
cây đàn cổ cầm của nàng. Nàng có muốn chơi cho ta nghe một khúc không?
Đã nhiều năm cả nhà chúng ta không ăn tối cùng nhau. Ta nhớ mấy khúc
nhạc của nàng quá.
Đàn cổ cầm? Bà Mẹ Trẻ giật mình. Đã lâu nàng không chơi đàn và Huệ Viên là thứ âm nhạc vừa mới tắt.
Theo cái phất tay của Hoàng đế, lũ thái giám mang đến một bàn thấp, đặt lên
một cây đàn cổ cầm rồi lui gót ra ngoài. Cái nhìn của Bà Mẹ Trẻ lướt
chầm chậm qua khoảng không gian quanh mình. Trong phòng, chỉ còn chồng
nàng và con nàng là Nghĩa Phù, cả hai đều đội nón văn nhân bằng vải đen
và mặc bộ áo lụa giản dị, không có trang trí gì đặc biệt. Được cả một
vương quốc tôn phong và sùng bái, tối hôm đó, họ chỉ là một người cha
hòa đồng và một đứa con trai sướt mướt trong một gia đình bình thường.
Lần theo trí nhớ của mình, nàng nhận ra nàng chưa bao giờ chơi đàn cổ
cầm cho cả cha, con trai và con gái nghe cùng lúc như thế này. Luôn luôn vắng mặt một người nào đó.
Những tiếng động vẳng lên từ bờ sông, một bầy ngỗng trời bay qua ánh mặt trời chiều rồi đậu xuống bến thuyền.
- Ta muốn chơi khúc Ngỗng trời trên bến thuyền quạnh hiu, – nàng nói. –
Ta đã rất muốn dạy khúc nhạc này cho Huệ Viên khi con lớn lên…
Tiếng vỗ cánh lướt ra khỏi những ngón tay của nàng. Khi đoạn nhạc đầu vang
lên, nàng quên cả vị đắng của rượu mà nàng mới uống say. Đoạn hai và ba
dựng lại dinh thự gia đình thời thơ ấu cả nàng, bao quanh là cánh đồng
và vườn tược. Đoạn bốn mô tả những xoáy bóng tối và những ánh sáng phản
chiếu nhảy múa trên sông. Đoạn năm và sáu ca ngợi vẻ đẹp của những con
ngỗng trời đầu xanh cánh hồng lốm đốm. Là những khách lữ hành không mệt
mỏi và những kẻ di cư đơn độc, chúng bay trên mảnh đất Trung Hoa từ Nam
chí Bắc, theo dấu mặt trời. Đoạn bảy, một âm thanh thánh thót phát ra
sau một tràng nốt nhạc gãy gọn. Đó là dòng Dương Tử đang chảy về đông ra biền lớn, mang theo trong lòng những niềm hối tiếc và cơn đau buồn.
Năm 422
Không mang danh hiệu nhưng nàng vẫn được tôn kính như hoàng hậu. Khi nàng
thức dậy, một toán hầu nữ quỳ bệt dưới sàn để thể hiện sự tôn kính. Cứ
mỗi lời nàng ra lệnh là có một tràng tiếng nói đồng thanh trả lời. Vô số các lễ nghi, yến tiệc cần nàng có mặt, nàng không thể đi lại mà không
có một đoàn người đi trước và một đoàn người đi sau. Bà Mẹ Trẻ chấp nhận những bổn phận triều chính mà không hề than thở. Đêm trở thành nơi cư
ngụ của nàng và lớp chăn lạnh là người bạn duy nhất đáng tin mà nàng có. Ngả đầu lên chiếc gối ngọc thạch, nàng duỗi thẳng chân, dãn xương cốt
đã mệt mỏi vì phải bận những lớp áo cứng nhắc và những đồ trang sức bằng vàng, nàng đặt tay lên ngực rồi thở dài mỏi mệt. Nàng gắng tìm một
tiếng tre rì rào hay tiếng côn trùng quấn quýt nhưng vô vọng. Chỉ có sự
im lặng chết chóc lảng vảng trong cung điện có cửa sổ và cửa chính bọc
đồng. Nàng đọc thầm kinh sách đến khi ngủ.
Chồng nàng và nàng
lần đầu tiên sống trong cùng một kinh thành, cùng chung một mái nhà.
Nhưng nàng cảm thấy vẫn còn rất xa với chồng. Từ ngày Huệ Viên đi, tất
cả các cách đến gần Hoàng đế đều bị canh giữ; để được gặp chàng, nàng
phải cầu viện tổng quản thái giám. Dính vào việc triều chính điều khiển
cả một đế chế như một con bò bị mắc vào cối đá, chồng nàng không có thời gian đến thăm nàng. Hai lần mỗi ngày, các quan lại thái giám chậm rãi
xuất hiện bên cửa thềm. Buổi sáng họ hô lên: “Hoàng đế hỏi phu nhân có
được yên giấc không?”; buổi tối, chúng rít lên: “Hoàng đế hỏi phu nhân
ngày hôm nay có vui không?”
Vợ và chồng gặp nhau ở những bữa
tiệc công, mỗi người đi từ một cánh gà trong nội cung đến, vây quanh là
các thái giám, quan lại, quản giám và quân hầu. Cả hai đoàn người gặp
nhau để cùng bước song song. Hoàng đế lưng đã còng và có vẻ bận rộn. Bà
Mẹ Trẻ thì có vẻ yên bình và mang nụ cười an nhiên, tự tại. Nàng thì
thầm với chồng: “Hoàng đế phải làm việc ít đi và chăm sóc cho long thể…” Hoàng đế trả lời: “Triều đại của chúng ta vẫn còn chưa vững chắc. Ta
muốn để lại cho Nghĩa Phù một đế chế hùng mạnh…” Nàng nghe rõ trong
giọng chàng sự mệt mỏi. Những nếp nhăn của chàng ngày xưa linh hoạt và
dữ tợn, nay đã dãn ra và co rúm lại trên trán, còn quanh mắt chàng là
một tấm màn đầy những lo toan rối rắm.
Những ngọn đuốc thắp vòng quanh hồ hoàng cung. Bà Mẹ Trẻ chơi đàn cổ cầm những đêm mất ngủ. Trở
thành nữ tu, Huệ Viên không còn là con gái nàng nữa. Được tôn làm hoàng
tử nối ngôi, Nghĩa Phù đã rời nàng để vào sống trong Tử Cấm Thành với
những lính canh, thầy dạy chữ và các quan nịnh thần. Bà Mẹ Trẻ ở trong
cung điện đẹp nhất, có khu vườn lớn nhất, nàng có thể ban phát sự sống
và cái chết, nhưng cây đàn cổ cầm kể nỗi lòng cay đắng của một người phụ nữ bị bỏ rơi.
Chồng nàng đã ngã bệnh. Phải rời xa những cuộc
diễu binh và chiến tranh, chàng bị đánh gục bởi một điệu nhạc chầm chậm, một khúc nhạc tẩm hương, lụa là gấm vóc mát mẻ và những lễ hội. Tiện
nghi và nhịp sống chầm chậm đã làm mềm cơ thể chàng vốn hay phải bị đói
và căng thẳng. Chỉ không lâu, Tử Cấm Thành đã làm suy yếu kẻ chinh phạt. Hai năm sau khi soán ngôi, chàng từ giã cõi đời và lên gặp các tổ tiên
trên trời.
Bà Mẹ Trẻ không có thời gian để dự tang lễ. Ở tuổi
mười bảy, con trai nàng là Nghĩa Phù nối ngôi trở thành Hoàng đế thứ hai của triều Tống. Triều đình tuyên bố một chức vị chính thức cho thân mẫu của Thiên tử mới. Nàng buộc phải chấp thuận tuân theo sắc lệnh và chức
vị cao sang là hoàng thái hậu. Những âm mưu vây quanh nàng. Ngai vàng,
bị chồng nàng lật đổ rồi chiếm đoạt, bây giờ lại là miếng mồi ngon cho
những kẻ soán ngôi khác. Các quan cai quản các bộ liên minh với các tổng quân và tranh nhau quyền lực nhiếp chính. Chúng dựa vào hai tỳ thiếp
của Hoàng đế, mẹ của hai hoàng tử út từ lâu không chấp nhận quyền kế vị
của Nghĩa Phù. Bà Mẹ Trẻ tìm một tướng lĩnh trong triều để bảo vệ quyền
lợi cho đứa con trai trong vô vọng. Chúng lợi dụng sự tin cẩn của nàng
và chỉ cố trực lợi dụng xây tầm ảnh hưởng của mình.
Nghĩa Phù
trốn tránh những phiền hà thường nhật để ẩn nấp trong lạc thú tầm
thường. Nó rút ngắn thời gian chầu triều để nhanh chóng quay về nội
cung, nơi những nàng họa sĩ trẻ, những nhạc công và các nàng thơ mơn
trớn và mua vui cho nó. Mực màu chạy trên giấy dó, những âm thanh như
pha lê thoát ra từ các nhạc cụ làm nó quên những giấy tờ đè nặng trên
bàn làm việc. Lo sợ và lúng túng, Bà Mẹ Trẻ lo toan hòa giải các xung
đột và phá hủy các âm mưu. Sống xa chồng nên nàng chưa bao giờ học được
từ chàng những chiến lược trong triều chính và mưu mẹo quyền lực. Nàng
buộc phải dùng những hoạn quan mưu mô và những nàng hầu độc ác làm quân
sư.
Nhà Ngụy tấn công phương Nam. Bà Mẹ Trẻ tin rằng vua Tiên Ti đã liên kết với những kẻ nội gián nên bí mật thương lượng hòa bình,
dâng đất đai và các kinh thành. Bị nhốt trong Tử Cấm Thành, nàng chỉ gặp những tướng lĩnh vào dịp yến tiệc long trọng. Mối liên lạc của nàng với thế giới đàn ông phải tuân theo luật lệ. Những tin tức của nàng được
các thái giám mà nàng không tin cẩn nổi mang đi. Dù đã cố gắng, nàng cảm thấy quyền lực đang trượt khỏi tay mình, còn nàng càng lúc càng bị cô
lập.
Nghĩa Phù hồn nhiên giễu cợt những lo toan của nàng. Nó
ngáp ngủ khi nàng gọi nó lo việc trong triều. Nó cũng càng lúc càng
không thể tiếp cận. Để gặp được nó, nàng phải xin xỏ sự cho phép của
tổng quản thái giám.
Gió nổi lên thổi tiếng nhạc đồng ca và tiếng cười của những cô gái trẻ đi khắp Tử Cấm Thành.
Năm 423
Nàng đã mơ thấy một tai họa đến từ trời cao như những đám mây đen chứa đầy
nguy kịch. Một cái lạnh thấu xương chiếm lấy nàng và đóng đinh nàng
xuống giường. Những cánh cửa rèm bị giật mạnh. Những bóng người to lớn
bước vào mà không báo trước rồi quỳ gối và đập vào áo giáp. Nàng nhéo
vào đùi mình thật mạnh. Không phải là cơn ác mộng nữa.
Một bóng đen lên tiếng:
- Bẩm Hoàng Thái hậu, xin người thức giấc! Con trai người là Nghĩa Phù đã không hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng. Nghĩa Phù phải nhường ngôi cho
em út của mình. Chúng thần đã tịch thu con dấu hoàng tộc và mang đến
đây.
Ai đang nói đó? Bà Mẹ Trẻ nhận ra giọng người quen. Đó chắc chắn là một quan bộ mà nàng đã gặp.
Một thái giám mang nến đến để chiếu sáng hàng người đang quỳ gối trước
nàng. Những lông vũ trang hoàng mũ giáp của họ đung đưa. Một mùi da
thuộc nặng nề và máu chảy trên vũ khí của họ. Họ đặt con dấu hoàng tộc
chạm rồng trên mặt cái khay.
Một vụ soán ngôi! Một cơn đau đập
vào đầu nàng rồi nện vào bụng nàng. Chúng đã dẫn quân vào Tử Cấm Thành?
Lính gác triều đình đâu? Làm sao chúng lấy được con dấu cất giữ trong
phòng mật của Hoàng đế? Nghĩa Phù đâu? Chúng đã làm nó bị thương, đánh
đập nó hay đã ám sát nó? Nàng muốn hỏi nhưng lưỡi nàng nhúm nhó và cổ
họng nàng khô đi.
Một trong số những kể âm mưu giấu mặt nói:
- Phu nhân, hãy thay trang phục. Người là Hoàng Thái hậu, Người đã nhận
từ tay Thái Thượng Hoàng toàn bộ quyền nhiếp chính. Người có quyền chỉ
định một hoàng đế và người kế vị. Chúng thần đã chuẩn bị chiếu chỉ tuyên bố sự lựa chọn này. Người chỉ còn ký và đóng dấu nữa thôi.
- Ta phải gặp con trai ta, – cuối cùng nàng cũng nói được.
- Phu nhân, Hoàng đế đang ở trong tay chúng thần. Nếu không ký sắc lệnh,
người sẽ chết và ngai vàng sẽ chuyển sang cho em trai người, – một kẻ
khác thúc giục.
- Phu quân ta đã cho các người vinh quang và của cải. Chỉ một năm sau khi ông ấy băng hà, các người dám phản bội quả phụ và đứa con trai mồ côi sao?
- Phu nhân, đừng tốn thời gian nữa, – một giọng nói nóng nảy vang lên. – Hãy đứng dậy. Chúng thần chờ người ngoài cửa.
Những kẻ âm mưu lui ra và đám hầu lao xuống đất nức nở. Trước gương, Bà Mẹ
Trẻ nhìn lại mình. Chiếc gương đồng tròn phản chiếu khuôn mặt xanh xao
và đôi mắt đen. Làm sao khuôn mặt này có thể sống qua bấy nhiêu dông
bão? Làm sao nàng tiếp tục hít thở nữa, làm sao sống tiếp? Có phải vận
mệnh của các thần linh đã chọn cho nàng là phải ở giữa bấy nhiêu nỗi đau trần thế như vậy chăng? Tại sao những người đàn ông bắt nàng để nàng
phải là nhân chứng và đồng lõa của chiến tranh, của những âm mưu của họ? Người làm tóc vừa khóc vừa quấn từng búi tóc dài lên đỉnh đầu nàng. Dần dần, một lọn tóc hình hoa mẫu đơn thành hình.
Tiếng ồn ào xâm
chiếm lấy cung điện của nàng. Binh lính lao đến lục lọi mọi hòm rương.
Những kẻ âm mưu thúc giục nàng. Chúng cho nàng biết Nghĩa Phù đã bị nhốt trong nhà, nhưng sau khi ký sắc lệnh phế truất, nàng có thể cùng nó rời Tử Cấm Thành. Chúng đe dọa, nếu nàng từ chối, chúng sẽ xử chém cả hai
ngay lập tức. Đoán được chúng muốn tuyên bố “phế truất” ngay buổi chầu
ngày mai, nàng cố kéo dài sự chờ đợi của chúng với cớ rằng để ký sắc
lệnh hoàng tộc, nàng phải ăn mặc chỉnh trang và phải mang những trang
sức của Hoàng Thái hậu. Khi nàng sửa soạn xong thì mặt trời đã lên đến
đỉnh. Mặc cho binh lính nhiều lần đe dọa, nàng trải bức sắc lệnh mà
chúng đã mang đến cho nàng ra. Những từ ngữ, hết sức nghiêm trang, mở ra một chuỗi dài kết tội trong danh nghĩa của nàng:
“Bất hạnh cho
hoàng tộc, tai họa từ trời cao đã giáng xuống thế gian. Hoàng đế băng hà bỏ mặc những điều phù phiếm của trần thế, để lại đại nghiệp chưa thành, Nghĩa Phù, con trai người, phải kéo dài vinh quang của người. Nhưng số
phận buộc ta phải nhận sự khốn khổ và không thể dạy dỗ con trai mình.
Suốt tang lễ kéo dài, nỗi buồn bao trùm thế gian, chỉ có con trai người
cười vui và đưa ra nhiều lời xấc xược. Nghĩa Phù lệnh cho nhiều nhạc
công, những ca sĩ bị hoạn và những vũ công kỳ tài đến điện, quên cả việc quốc gia đại sự. Thay vì kiêng kỵ, Nghĩa Phù còn bày nhiều đồ ăn gấp
đôi và ưa thích con hầu hơn là tỳ thiếp. Thay vì tránh xa dòng máu không trong sạch của phụ nữ thì lại vui chơi đóng vai bà đỡ đẻ… Sự tra tấn
trở thành trò chơi ưa thích của Nghĩa Phù. Nghĩa Phù chính tay đánh đập
những người vô tội để làm trò cười cho đám đàn bà. Cung điện mùa đông và mùa hạ được xây lên đã làm kiệt quệ ngân khố hoàng triều, nông dân phải bỏ cả đất đai, nô bộc chết vì phải gánh vác quá nhiều công việc nặng
nề. Tiếng khóc của các tỳ thiếp đã làm các thần linh nổi giận… Cùng với
y, hoàng tộc đã phải chịu nhiều nỗi ô nhục. Làm sao còn có thể theo đuổi nghiệp lớn của người hôn phu quá cố của ta chinh phạt mười nghìn kinh
thành phương Bắc? Hôm nay, ta quyết định phế truất y và đưa người em út
của y lên ngai vàng…”
Bực mình với sự chậm rãi của nàng, những
kẻ âm mưu đã vào phòng chờ đợi, gươm lăm lăm trên gối. Bà Mẹ Trẻ ngước
mắt nhìn hết thảy đám người. Trong vườn, những con chim ríu rít và cây
cối đã trổ màu xanh. Lại một màu xuân nữa! Ánh mắt nàng trở lại nhìn
những kẻ mưu phản và quét qua khuôn mặt chúng. Chúng lộ rõ vẻ mệt nhọc,
mặt cúi gằm. Trong số chúng, ai là kẻ tham vọng nhất? Ai sẽ đánh bại tất cả những kẻ khác để trở thành bá chủ thiên hạ? Tất cả đều không quan
trọng với Bà Mẹ Trẻ.
Chọn gì đây? Cứu con trai bằng cách làm nó
mất danh dự? Hay giữ danh dự cho con trai bằng cách để nó chết? Nếu nàng không chấp thuận cái sắc lệnh bôi nhọ tên của Nghĩa Phù vĩnh viễn về
sau, những kẻ mưu phản sẽ giết nàng cũng như con nàng, và đó sẽ là khởi
đầu cuộc nội chiến giữa những người trung thành và những kẻ mưu phản.
Nếu nàng ký vào sắc lệnh này, nàng sẽ để con mình đi vào lịch sử của các triều đại như một người thừa kế ô nhục của cha nó, như kẻ yếu đuối nhất và đáng khinh nhất trong số các Thiên tử.
Các thần linh đã đưa vào tay nàng một lựa chọn mà không để cho nàng được chọn.
Nàng lấy hết sức mạnh rồi bình tĩnh lại.
- Các đại nhân đã phản bội lại di chúc của Hoàng đế, người cho các người
được lên chức sắc, công hầu. Các ngươi đã xúc phạm danh dự một người góa phụ và ra sức bôi nhọ quyền kế vị của một đứa con mồ côi đã tin tưởng
vào các ngươi. Con đường mà các ngươi đi theo không phải là con đường
của ta.
Nàng xé bức sắc lệnh.
- Ta để cho các ngươi lựa chọn kết cục.
Năm 424
Thương nhân dỡ những tấm bảng gỗ khỏi cửa sổ. Những người bán hàng rong bày
hàng bán ở góc đường. Những vó ngựa đang phi nước kiệu gõ xuống con
đường lát đá tảng. Ngồi trong chiếc xe ngựa kéo phủ trướng nâu, nàng
quan sát kinh thành đang thức giấc. Kiến Khang, kinh đô của các triều
phương Nam, đã cho chồng nàng sự nghiệp và đẩy con nàng xuống vực thẳm.
Nàng sẽ rời xa kinh thành này mãi mãi! Nàng sẽ không bao giờ quan tâm
đến những kiểu cách áo quần, ẩm thực hay nhà cửa của nó nữa. Nàng sẽ
không bao giờ đi dạo trong thôn quê của nó, không bao giờ thăm thú những ngọn núi người ta trồng rừng, không bao giờ ngắm dòng Dương Tử từ những mái chùa nổi tiếng. Nàng không bao giờ đón tiếp các thi nhân, họa sĩ,
nhạc công nữa. Nàng đã đi vào Tử Cấm Thành như một con vẹt ấp trứng và
đấu tranh. Nàng rời khỏi nó, ốm yếu và cô độc. Trái với ý muốn của nàng, Kiến Khang đã cho nàng vinh quang của mọi vinh quang; cũng tái với ý
nàng, Kiến Khang đã biến nàng thành Bà Mẹ Trẻ đau khổ nhất thế gian.
- Dừng lại! – Nàng hét lên.
Chiếc xe đứng sựng lại. Binh lính ăn mặc như thương nhân đi lại phía nàng.
Bằng giọng mạnh mẽ, nàng nói nàng khát nước và muốn uống chút trà. Sau
khi đã bàn thảo với nhau, binh lính mở cửa. Một trong số chúng quỳ xuống đất để làm bậc lên xuống.
Nàng rùng mình khi chạm đất. Nàng
không đi bộ dưới phố thị từ hai mươi năm nay! Mặt trời lướt qua những
mái nhà. Mọi người ngoái lại nhìn, ngạc nhiên thấy trong đám dân chúng
một người phụ nữ che mạng và mặc áo gấm. Nàng ngồi trong quán trà. Một
người bồi trẻ chạy đến bên hỏi nàng muốn dùng gì. Nàng đỏ mặt.
- Hãy mang đến tất cả những gì mà ngươi có, – cuối cùng nàng trả lời.
Quán trà mở ra bốn hướng. Người qua đường đi dưới lan can. Đàn ông và đàn bà tầng lớp thấp kém mặc đồ vải hay áo bông không màu sắc nói chuyện với
nhau, dòm ngó những mặt hàng bày trên xe bán, không hề để ý tới nàng.
Dân chúng chưa bao giờ biết mặt Hoàng Thái hậu.
Tiếng họ bàn tán lọt vào tai nàng. Qua tấm mạng bằng vải mịn, đôi mắt nàng dừng lại ở
một cặp vợ chồng trẻ. Cô vợ khoảng hai mươi tuổi dựa vào chồng, đưa tay
chỉ những tấm vải trong tiệm đang bay trong gió và thì thầm vào tai
chàng trai. Người đàn ông lục trong túi, có vẻ hơi buồn rồi lộn túi ra.
- Này!
Nàng muốn gọi họ lại để cho họ những tấm vải. Nhưng họ biến mất trong đám
đông. Một nỗi đau lạ lùng trong tim, nàng quay về phía người bồi trẻ đã
bày ra bàn mọi món ngon nhất: bánh lựu, bánh trứng cút đậu đỏ, bánh giòn cam nướng với mứt đào, xôi mận mè đen. Những món ăn nhỏ nhanh chóng để
lên đầy bàn. Nàng chỉ nhâm nhi mỗi món nửa muỗng.
Binh lính ra
hiệu cho nàng đã tới lúc phải đi. Nàng đứng dậy rồi đi về phía chiếc xe
trong khi người bồi bàn vừa chạy theo sau vừa la:
- Bà quên chưa trả tiền!
- Trả tiền?!
Sững sờ, nàng nhìn xung quanh. Sự phẫn nộ của người bồi bàn làm một đám người tò mò vây lại.
- “Trả tiền” nghĩa là sao? – Nàng hỏi.
- Bạc! Bà không mang theo bạc sao?
Người bồi bàn bực mình.
“Bạc”, nàng không bao giờ cầm bạc trong tay. Binh lính vây quanh người bồi
bàn, túm lấy cổ hắn rồi mang hắn đi mất. Nàng leo lên xe, tim đập thình
thịch.
Cánh cửa đóng lại. Sự thịnh vượng và suy thoái của những người đàn ông không thể chạm đến nàng được nữa.
Ngựa phi dọc theo dòng sông về hướng thành Kinh Châu, dọc theo bóng xanh lục của những bờ đá. Ngọn núi là một cuốn sách mở ra. Nhưng không ai có thể giải mã những từ ngữ hay hiểu được ý nghĩa của nó.
Bà Mẹ Trẻ đi ngang qua dinh thự cũ nhưng không dừng lại. Nàng xuống xe ở chân núi
Bắc rồi lên kiệu do bốn lính khiêng. Họ leo lên cầu thang ba nghìn bậc
rồi đến cổng chùa Đại Bi, quỳ lạy rồi lui đi.
Sư Phát Quang đi
đầu đoàn nữ tu đón Bà Mẹ Trẻ. Tay chắp lạy, họ chào nàng. Đôi mắt Bà Mẹ
Trẻ tìm trong đám đông. Hiểu được sự vồn vã của bà, các nữ tu đứng ra
hai bên để một người duy nhất đứng bất động. Bà Mẹ Trẻ bước tới rồi nắm
lấy tay người đó. Sự tôn kính của người đó là một lời từ chối. Cố không
khóc, Bà Mẹ Trẻ cúi người rồi chào lại. Lần này, Huệ Viên không thể bỏ
trốn khỏi nàng được nữa, vì Bà Mẹ Trẻ cũng đã quyết định xuống tóc trở
thành nữ tu.
Không một lời chào mừng, không một chút thể hiện
niềm vui, không hỏi lời nào về hai năm xa cách, Huệ Viên lui vào trong
phòng tu của mình. Bà Mẹ Trẻ nán lại một lát trước cửa rồi đi.
Nàng vào trong phòng mà các nữ tu đã dành cho mình rồi quỳ xuống một chiếc
chiếu hẹp. Lưng nàng dựa vào một tấm gỗ thay vì ngả ra trên một tấm nệm
lụa lót bông. Nàng run bần bật rồi nằm sấp, lấy tay che mặt. Từ nay,
nàng phải giữ trong lồng ngực mình sức nặng của bi kịch gia đình mà nàng đã muốn kể với Huệ Viên.
Những kẻ mưu phản đã tha cho nàng và
con trai được sống vì chúng đã bắt chước được chữ viết của nàng. Chúng
đã phát tán sắc lệnh rồi ép Nghĩa Phù thoái vị. Chúng đem lên ngai vàng
đứa em là Nghĩa Chân mà không biết rằng sáu tháng sau đó, thân tộc của
hoàng tử thứ ba là Nghĩa Long, con của một tỳ thiếp khác, đã gây ra vụ
soán ngôi thứ hai. Những kẻ mưu phản mới đã giết chết những kẻ mưu phản
cũ và tước ngôi của Nghĩa Chân. Cả hai anh em, Nghĩa Phù và Nghĩa Chân,
sinh ở Kinh Châu và Trường An cách nhau một tháng, đã bị ám sát cách
nhau vài ngày. Chúng chỉ vừa mười tám tuổi. Khi sống, theo hai phe phái
thù địch nhau, chúng khinh bỉ thù hằn nhau và nói chuyện với nhau nặng
lời. Khi chết, chúng được chôn gần phần mộ của cha, như hai cánh tay
cùng một thân thể. Trên phiến bia mộ, những con chim gù ngày đêm như thể cuối cùng chúng cũng đã được tha tội và giờ đã cùng nhau hát ca. Nghĩa
Long, người em út trong số ba anh em, đã trở thành hoàng đế thứ tư của
nhà Tống…
Tóc nàng, đen như lông quạ, rơi xuống, được cắp lên
rồi thổi bay đi trong gió. Đầu đã sạch tóc, Bà Mẹ Trẻ nhận tên hiệu
Trinh Không và một chiếc áo nâu. Những ảo tưởng vỡ tan như những chiếc
lá khô, sư Phát Quang nói để kết thúc nghi lễ.
Năm đó, lần đầu
tiên, Trinh Không không mừng sinh nhật. Nàng quỳ dưới chân Phật để cầu
nguyện. Mùa xuân tìm nàng trong cả hai kinh thành rồi cuối cùng tìm thấy nàng trong núi Bắc. Nàng không còn nghĩ đến nó nữa khi thình lình những cây táo ngả sang hồng và những cây lê ngả màu trăng trắng. Những nữ tu
đã mở tổ ong và những con ong bay theo bầy bướm bay dập dờn vô tư. Trong các tán cây, chúng tìm thức ăn, liếm mật, kêu vo ve và xì xào. Nàng
nhìn chúng, miệng mở to. Nàng vẫn còn phải chịu đựng nỗi lòng đau đớn
trong lồng ngực.
Nàng bốn mươi tuổi và đã có ba cuộc đời ở sau lưng.
Sáu
Năm 581, nhà Trần
Một con gà gáy đinh tai. Chuỗi tiếng gáy hoan hỉ của nó lôi Thẩm Phong ra
khỏi giấc ngủ. Chàng quay lại lắng tai nghe. Căn nhà im lìm. Chàng không còn nghe tiếng ngáy của người thợ đàn già. Lúc đó chàng nhớ ra sư phụ
đã bỏ đi. Thẩm Phong thở dài rồi thức dậy. Để tiết kiệm nến, chàng đã
quen mò mẫm trong bóng tối. Đôi tay chàng tìm chiếc áo đã mặc đêm qua.
Dù chàng đã giặt dưới sông, nó vẫn còn mùi ngôi mộ: một mùi hương ngọt
và nồng hòa vào bụi không mùi vị. Xỏ tay áo vào, chàng nắm lấy sợi dây
mảnh bên trong thắt lại. Chàng với tay lấy dợi dây lưng bị ném dưới đất
rồi siết lại cho chặt. Chàng rút cái lược gỗ dưới gối ra. Tóc chàng phủ
lên vai thô ráp như những cọng cỏ khô cùng vô số nút thắt làm cho cây
lược bị vướng lại. Cuối cùng, chàng dùng những ngón tay vuốt chúng ra
phía sau đầu, thắt thành búi, rồi lấy một que gỗ xỏ qua giữ lại. Ngón
chân chàng mò mẫm chạm vào đôi ủng rồi xỏ vào. Trong bếp, lửa đã tắt
nhưng than vẫn ưng ửng hồng. Chàng tìm được cái lọ kế bên rồi lấy một
muôi nước. Chàng uống một ngụm. Đó là bữa sáng của chàng.
Chàng
ra khỏi nhà. Các vì sao khảm trên nền trời xanh tối đang nhấp nháy, sao
Bắc Đẩu cho biết trời sắp sáng. Chàng khép cửa lại. Sư phụ và chàng
không bao giờ khóa cửa. Thường thường, họ thấy những con vật lang thang
vào lục lọi trong nhà. Họ chưa từng thấy trộm. Những người hàng xóm luôn giúp đỡ họ và canh chừng đồ đạc cho nhau. Nhưng ngôi làng nghèo đến mức những tên trộm cũng né tránh vì sợ cái nghèo sẽ bám vào chúng. Thẩm
Phong chớm đi ra vườn rồi bỗng ngập ngừng. Chàng quay trở vào nhà. Tay
chàng sờ vào tấm gỗ nắp quan tài mà chàng đã đặt dưới giường để làm nó
sống lại. Chàng đẩy nó chạm vào tường rồi phủ rơm lên nó. An tâm rồi
chàng lại đi ra, đi vài bước, ngừng lại, rồi lại đi vào. Chàng ném những đống cỏ khô vào bếp rồi thổi than hồng. Những tia lửa dợm cháy lên.
Chàng lôi tấm gỗ ra rồi vuốt ve bằng đầu ngón tay. Sợ nó bị chuột gặm
khi chàng đi vắng, chàng mang nó vào góc. Chàng leo lên cối xay, kéo nó
qua xà rồi giấu nó trong đống lá tre làm mái nhà.
Bên ngoài,
trời đã sáng báo hiệu một ngày đầy nắng. Thẩm Phong chạy men theo sườn
núi xuống làng. Mặt trời chói lòa che cả đường chân trời, quét qua những cánh đồng và cây cối, bắt được chàng giữa con đường mòn và chìa tay ra
với chàng. Những tia sáng ấm áp của nó đè lên vai người thợ đàn làm
chàng bất động. Thẩm Phong ngẩng mặt, hít một hơi thật sâu bầu không khí buổi sớm. Mặt trời chui vào hốc mũi chàng rồi nhấn chìm tim phổi chàng. Đến khi ánh sáng tràn ngập khắp tay chân, chàng lại đi tiếp.
Khi vào sâu trong rừng, con đường mòn tẽ ra thành nhiều nhánh rồi biến mất. Một vài con đường không dẫn đến đâu cả, một số khác chạy về phía hồ,
một số khác quanh co lên núi và số khác nữa khúc khuỷu chạy vòng vòng
trong cánh rừng đến vô tận. Chỉ một nhánh duy nhất đến được sông Dương
Tử và thành Kinh Châu.
Từ khi nào người ta đã vẽ nên cái mê cung khổng lồ bằng đôi chân trần của họ? Cánh rừng, với những thảm cỏ rậm
rạp và những cây cối um tùm làm nên một tường thành bảo vệ những ngôi
làng rải rác trong núi Bắc. Vì đường sá quanh co ngăn trở và sợ bị lạc
đường nên các quan lại thu thuế không dám vào. Tuy nhiên, dọc theo bờ
sông, chúng là nỗi ám ảnh của các ngôi làng và không tha cho các nông
dân. Dẫn theo binh lính, chúng đột nhập vào những xóm thôn nhỏ nhất rồi
cướp lấy ngũ cốc và những cuộn vải dệt theo đúng chất lượng mà luật lệ
quy định. Tàn nhẫn và hung tợn, chúng cướp đi nhiều hơn những gì chúng
phải lấy, vì tất cả các cấp bậc triều đình đều phải giữ lại chút gì đó
làm của riêng. Những năm được mùa bội thu thì chúng để lại cho nông dân
vừa đủ ăn thôi. Còn những năm mất mùa, ngoài việc trả sưu thuế, họ còn
bị bắt và biến thành nô lệ cho những xưởng trong cung. Trong số họ, vài
người trốn thoát và từ đó sống trên những mỏm núi cao chót vót, không ai tới được.
Thẩm Phong nhớ đường đi nhờ vài cây cối mà chàng biết đến từng thay đổi nhỏ. Chàng gắn cho mỗi cây một nốt nhạc và nhớ con
đường dẫn về kinh thành như thể nó là một khúc nhạc cổ cầm dài. Chàng
chia cây cối thành nhóm rồi chơi các hợp âm tùy hứng. Chàng thay đổi bản nhạc của mình bằng cách đi đường vòng. Hài lòng khi thấy chàng đến chào mình, cây cối rung rung lá.
Đây đó những dấu chân hươu nai và
chim trĩ bỗng nổi bật giữa những lớp rêu và hoa cỏ mùa xuân. Mặt trời đi theo sau Thẩm Phong vào sâu trong rừng. Mặt trời nhìn chàng qua kẽ lá
và chuyển từ cành này sang cành khác để chạy trước hay theo sau chàng.
Khi Thẩm Phong ngừng lại rồi ngước mắt nhìn, mặt trời ân cần đổ xuống
chàng những mảnh vàng. Qua đôi mí mắt nheo lại, Thẩm Phong thấy hàng
nghìn chấm đen bập bùng và xoay tít trong sương mờ đỏ chót. Khi thì
chúng giống như những đồng tiền đồng hứa hẹn giàu sang và hạnh phúc, khi thì chúng tản ra rơi lả tả như những đồng tiền tang ma bằng giấy mà
người sống đốt dâng lên người chết.
Hàng nghìn mảnh vàng! Ai đã
tạo ra những đồng tiền có lỗ vuông ở giữa để xâu chỉ qua? Những người
giàu xâu chúng vào sợi dây da và đặt trên bàn tính của những thương nhân làm chúng kêu lách cách. Còn người nghèo tích góp chúng trong một cái
túi dài và phẳng, chỉ lấy từng xu ra sau khi đã đếm kĩ lưỡng và vuốt ve
chúng. Trước khi trả, họ đếm lại một lần nữa như thể khi bị vùi trong
túi, chúng có thể sinh ra con đàn cháu đống.
Khi sư phụ có tiền, ông gói chúng lại trong chiếc khăn mà ông vụng về thắt bốn góc lại. Ông đến gần Thẩm Phong, khuôn mặt rạng ngời, đôi mắt lấp lánh vui như trẻ
con. Ông tháo nút ra làm những đồng tiền rơi xuống.
- Cầm lấy! – Ông nói với Thẩm Phong. – Chúng ta sẽ trả một bữa ăn thật ngon!
Một bữa ăn thật ngon! Với Thẩm Phong, vốn quen rỗng ruột, điều đó có nghĩa
là một cái đĩa đang bốc khói đầy thịt, cơm trắng ăn tùy thích và rượu
chảy dọc theo cuống họng làm đầu óc quay cuồng. Bạc có mùi của những món đầy gia vị, cái nóng của canh đang sôi, vị bánh mì nhân thịt, bánh bao
chiên trong dầu và trên hết là miệng ngoạm vào đùi cừu, sườn heo làm
quên đi tất cả những buồn bực trong quá khứ và những nỗi lo toan cho
ngày mai đến gần.
Với tấm gỗ nắp quan tài, chàng sẽ làm giả một
cây đàn cổ cầm của nàng Sái Văn Cơ. Cùng với nó, tiền sẽ từ trên trời
rớt xuống như mưa mặt trời hoặc một thác tiền tang ma. Tay che đầu, Thẩm Phong nhảy múa. Quanh chàng, những cây trẩu, cây đồng, cây tần bì, cây
dẻ, cây thích, cây keo ngắm nhìn. Khu rừng giống như một cuộc hội họp
của những con người không biết tên tuổi, không biết số phận ra sao. Tựa
như những bóng tối và những chiếc lá đan xen, hạnh phúc và buồn khổ,
giàu sang, phú quý và cùng cực, khốn đốn chỉ là một giấc mơ trôi.
- Quyết định rồi hả? – Lưu Bé Bự giả vờ ngạc nhiên hỏi. – Khi nào thì cậu mang đến cho ta?
Thẩm Phong nhấp miếng trà. Chàng muốn đòi thêm tiền nhưng không biết phải
nói thế nào. Chàng tiếc đã đến tiệm của tay buồn đồ cổ mà không báo cho
Chu Bảo. Chu Bảo mà những người buôn bán bên đường ai cũng e ngại có thể biết cách moi thêm ở Lưu Bé Bự khoản tiền mà nó cần. Thẩm Phong húng
hắng ho rồi ấp úng một chuyện bịa đặt:
- Để làm đàn cổ cầm của
nàng Sái Văn Cơ, tôi cần mua những vật liệu tốt nhất. Chẳng hạn như một
thân gỗ nghìn tuổi để làm hộp hòa âm… Thật là… khó tìm và… rất đắt… Tôi
phải tìm ở chợ đen những xà nhà của các cung điện hoàng triều thời Tống
và thời Tấn…
Lưu Bé Bự ngước mắt nhìn chàng. Tim Thẩm Phong đập
liên hồi. Chàng có cảm giác tay buôn đồ cổ chuyên bán đồ giả với giá
thật cao có thể đọc được trong mắt chàng điều dối trá và sự thật. Y khom lưng rồi hạ cằm xuống.
- Cậu muốn bao nhiêu?
Chàng đỏ mặt.
- Tôi không biết. Ông nghĩ xem bao nhiêu… Ba nghìn đồng?
Môi Lưu Bé Bự kéo ra, vểnh lên để lộ hàm răng bằng vàng. Y cười phá lên.
- Ta có ý hay hơn!
Y vỗ vai Thẩm Phong, cặp cằm chẻ đung đưa.
- Hai cây đàn! Ta muốn hai cây đàn của nàng Sái Văn Cơ!
Thẩm Phong bối rối không biết phải cười hay cúi lạy.
Lưu Bé Bự đứng lên rồi biến mất sau bức rèm gió làm những chiếc vòng ngọc
thạch móc trên thắt lưng kêu leng keng. Y trở lại rồi ném vào tay Thẩm
Phong một túi nhỏ nhưng nặng trịch.
- Mở ra, mở ra! – Y thúc giục.
Những tia lửa tối tăm cháy lên trong mắt y.
Thẩm Phong kéo sợi dây thắt rồi đổ ra lòng bàn tay: tám mẩu vàng. Lưu Bé Bự hét lên:
- Thù lao đó, Thẩm Phong! Hãy đi mua một thân cây to rồi chẻ làm đôi. Ta
muốn hai cây đàn giống hệt nhau, cậu nghe không? Hai cây đàn của nàng
Sái Văn Cơ!
Thẩm Phong đưa những mẩu kim loại lên nhìn, không
tin vào mắt mình nữa. Đó là vàng hả? Cổ chàng nghẹn lại. Tai chàng lùng
bùng. Cả đời chàng chưa bao giờ đụng vào vàng. Chàng chưa bao giờ dám
tưởng tượng mình có thể cầm chúng trong tay. Một cảm giác khoan khoái
lẫn sợ hãi bắt lấy chàng. Những ý nghĩ, giống như một tổ chim bị kinh
hãi, lướt qua đầu óc chàng. Nắp quan tài đủ để làm một cây đàn, nhưng để làm hai cây phải quay trở lại hầm mộ và dỡ cỗ quan tài ra. Dù nghĩa địa là nơi vắng vẻ nhất trong chùa nhưng nó luôn luôn là nơi nguy hiểm…
Ngược lại, với vàng của Lưu Bé Bự, chàng có thể tìm được một tấm gỗ đủ
tuổi ở chợ… Nhưng Chu Bảo cần tiền để thoát khỏi vương quốc cùng với
người nữ tu càng nhanh càng tốt. Nếu chàng đưa cho nó những đồng vàng,
chàng sẽ không còn đủ để mua chỗ gỗ cần thiết… Mà nếu không có gỗ thì
không thể làm hai cây đàn cổ cầm mà Lưu Bé Bự đòi… Vậy là chàng phải
quay lại nghĩa địa, với nguy cơ bị bắt… Hoặc trả lại Lưu Bé Bự một nửa
tiền thù lao, tức là bốn đồng vàng, rồi nói thật với y là chàng chỉ có
thể làm được một cây…
Thẩm Phong khựng người. Tại sao phải trả
những đồng vàng này? Với số vàng này, sư phụ chàng có thể có một ngôi
nhà, những bữa ăn ngon, một người vợ, hoặc có thể hai…
- Không
có gì hết! – Giọng sấm rền của Lưu Bé Bự chen ngang những suy tính của
Thẩm Phong. – Chúng ta sẽ cùng nhau làm nên gia tài!
Lưu Bé Bự
hớn hở như đứa trẻ. Y đưa bàn tay trái mũm mĩm lên rồi huơ huơ trước mặt Thẩm Phong, nhấc bàn tay phải lên, úp lên lật xuống.
- Nhìn này, đây là hai bàn tay ta, chúng gần như giống nhau, có phải không?
Thẩm Phong nhíu mày, chẳng hiểu trò này của y là muốn nói gì. Lưu Bé Bự nắm hai tay lại, vỗ bộp bộp.
- Thấy không! – Y vừa nói vừa cười hô hố. – Ta là thương nhân tốt bụng nhất mọi thời đại!…
Nụ cười của gã buôn đồ cổ làm Thẩm Phong nổi da gà, nắm chặt những đồng
vàng trong tay. Chúng không phát sáng như lời đồn đại. Thẩm Phong không
biết nên bỏ chúng vào túi hay cứ cầm nguyên chúng đó, trong lòng bàn
tay. Chàng không biết chúng có thật sự thuộc về chàng không. Có thể
chàng đã hiểu lầm và Lưu Bé Bự sẽ lấy lại vàng? Rồi một nỗi lo vụt lóe
lên trong đầu chàng làm chàng rùng mình: nếu vàng của Lưu Bé Bự là đồ
giả thì sao?
Giọng của tay buôn đồ cổ vang lên:
- Đừng có làm mặt đó, Thẩm Phong! Ta giải thích cho cậu nghe!
Lưu Bé Bự hạ giọng.
- Nhìn đây, tay trái này, đây là bờ Bắc. Ở phương Bắc, tướng quân Dương
Kiên đã soán ngôi, tiêu diệt các hoàng tử, lật đổ nhà Chu, lập nhà Tùy.
Hắn ta tham vọng chiếm phương Nam. Nhưng vị Thiên tử vốn là chiến binh
hung tợn nắm giữ triều chính bằng bàn tay giết chóc này lại sợ một
người…
Lưu Bé Bự đằng hắng ho rồi cười. Y nói tiếp:
- Vợ hắn! Bà Hoàng hậu sinh ra ở tộc Độc Cô. Cha bà, có lẽ cậu đã từng nghe
tới, là Độc Cô Tín lừng danh, vị tướng tài ba có khuôn mặt thanh tú nổi
bật từ xa trên chiến trường với bộ áo giáp sáng bóng. Hai trăm năm chiến tranh Nam Bắc đã sinh ra hằng hà sa số anh hùng và Độc Cô Tín là một
trong số đó. Tộc Độc Cô gốc người Hung Nô, nhưng con cháu lại sống cùng
với những người Tiên Ti. Nhờ tính gan dạ nổi tiếng của mình, họ liên hết với tộc Thác Bạt, tộc người đã lập nên nhà Ngụy. Những người phụ nữ Độc Cô đã sinh ra nhiều hoàng đế. Không có người Độc Cô giúp sức, Dương
Kiên, một người Hán, chắc không thể phế truất nhà Chu của người Tiên Ti
để lập ra nhà Tùy. Làm vợ của Dương Kiên từ năm mười bốn tuổi, bà Hoàng
hậu Độc Cô là người có ăn học và tận tụy. Một người phụ nữ, khi nàng ta
xem tham vọng của chồng mình là một nghĩa vụ hôn nhân thì sẽ cần mẫn và
dứt khoát hơn cả chồng! Ngày nào, lúc sáng sớm Hoàng hậu cũng đi theo
chồng tới tận cửa chầu triều đình. Nàng chờ lão ấy trong xe và chỉ đi
với lão ấy về khi nàng cho là chồng đã xong việc… Ha ha…
Lưu Bé Bự cười. Gò má của y rung rung và mắt trở thành hai cái khe ti hí.
- Nếu ta mà có vợ như vậy, chắc ta đã chùn chân mỏi gối từ lâu! Nhưng
Dương Kiên, Hoàng đế của triều đình độc ác nhà Tùy, sợ bà ta. Hắn ta đã
thề không bia giờ có con với một người phụ nữ khác. Tự phụ và ghen
tuông, Độc Cô Hoàng hậu ra lệnh trong nội cung cấm tất cả những con hầu
trang điểm và mặc váy màu. Đứa nào tìm cách được Hoàng đế sủng ái sẽ bị
xử tội chết. Và Hoàng đế bạo ngược đã chấp thuận sự bạo ngược của bà
hoàng!…
Lưu Bé Bự hạ bàn tay trái xuống rồi nhấc tay phải lên.
Những đường chỉ nhỏ chạy dọc trong lòng bàn tay rồi biến mất trong những kẽ nứt ở đầu ngón tay của y. Chúng giống như vô số con đường được thêu
bởi những cánh đồng lúa.
- Còn đây, bây giờ là Nam triều chúng
ta, vương quốc xanh rờn của những linh hồn bị đày ải… Khi Hoàng đế nhà
Trần của chúng ta băng hà, đứa con cả trong số bốn mươi hai hoàng tử trở thành hoàng đế. Trong lễ tang, một trong số bốn mươi mốt người anh em
đã nhảy bổ vào Hoàng đế mới rồi cắt cổ hắn bằng một lưỡi dao giấu trong
tay áo. May mắn thay là hắn sống sót. Nhưng, nhưng…
Tay buôn đồ cổ lắc đầu.
- Ở phương Bắc, có Hoàng hậu hỗ trợ, Dương Kiên khuyến nông, cách tân
quân đội, tập hợp người giỏi chuẩn bị gây chiến với phần còn lại của thế gian. Ở miền Nam, Hoàng đế của chúng ta, từ ngày bình phục thoát khỏi
cuộc huynh đệ tương tàn, đã bỏ bê cả việc triều chính. Ở phương Bắc ra
lệnh sống thanh đạm và tiết kiệm. Ở phương Nam, triều đình chi tiêu
không nháy mắt. Ba ngọn tháp bằng gỗ hương cao chót vót đã được dựng lên cho ba nàng thiếp yêu và được nối với nhau bằng những cây cầu trên
trời. Ở Kiến Khang, khi trời đẹp ta có thể thấy chúng trong mây. Phủ đầy đồ trang sức và mặc váy lụa đuôi dài, ba nàng thiếp yêu có cuộc sống vô tư lự như những người bất tử. Người được sủng ái nhất trong số đó là
Trương Lệ Hoa mới có mười sáu tuổi, còn hai người kia lớn tuổi gấp đôi
nàng. Nhưng tóc nàng đã dài đến mức nó vẫn còn nguyên trên giường khi
nàng đã ra khỏi phòng. Hoàng đế chỉ tin cẩn cô gái này, kẻ từng làm hầu
gái trước khi được tôn lên thành thiếp trong hoàng cung. Khi hắn tiếp
các quan bộ lại, hắn ôm nàng ta trên đùi và cũng chính nàng là người đọc các giấy tờ, chính nàng đối thoại với các quan lại và lũng đoạn triều
chính! Ở miền Nam cũng như miền Bắc, phụ nữ đang nắm quyền!
Lưu Bé Bự khoa tay chán nản.
- Cậu và ta, chúng ta là hạng thường dân, những hạt sỏi bên đường, cỏ dại trên đồng mà thôi! Chúng ta chẳng biết gì là hoan lạc cả! Nhắm mắt lại
và hãy tưởng tượng một khoảnh khắc trong đời các ông hoàng đi. Ngay khi
chúng thức dậy, những nàng hầu trẻ đẹp đã mang đến cho chúng những chiếc áo may từ lụa mịn màng và những chiếc áo thêu. Trên bàn của chúng,
những món ăn lũ lượt kéo ra và chúng thậm chí chỉ nếm một nửa trong số
đó. Mùa hè, những quan thái giám phe phẩy quạt lông công; mùa đông,
những lò than trong cung đốt cháy những bó trầm hương. Đàn bà lớn bé,
mập ốm, da trắng, da thẫm, lưng ong, thơm tho, ánh mắt trìu mến, môi
ngọt mọng, vô số những bàn tay trắng trẻo và nhẹ nhàng biết vuốt ve
chiều chuộng. Nếu ta bán hai cây đàn cổ cầm này, ta sẽ có ba nàng thiếp
nữa. Tốt hơn là mấy tay quản gia của ta nên tiết kiệm thời gian và la
đuổi những vị khách ít tiền đi chỗ khác. Tỳ thiếp sẽ ở trong những căn
phòng. Chúng ta sẽ chơi đùa với chúng nếu chúng ta muốn… Thẩm Phong à,
đừng có đỏ mặt!
Lưu Bé Bự dừng lại, uống cạn tách trà rồi cười khẩy:
- Hai cây đàn quý cho hai bà chủ của thiên hạ! Nếu cây này là giả thì cây kia đích thị là thật! Người mua được cây thật sẽ tin chắc người kia mua phải cây giả. Nếu không có cây giả thì người ta đã không bán cây thật!
Đi đi, Thẩm Phong, đi tìm thân gỗ của cậu đi. Chúng ta sẽ trở nên giàu
có, rất giàu có…
Con đường mở ra, uốn cong đến tận mặt trời. Con đường là một dòng sông đầy những tia nắng, nơi những thương nhân lươn
lẹo đang tìm bắt con mồi. Giữa trưa trời không có mây. Tiếng xì xào của
đám đông tạo thành một thứ âm nhạc hỗn độn hòa lẫn cả nỗi lo âu, ham
muốn, vội vã, ân sủng và thất vọng. Thẩm Phong đi giữa đường, siết chặt
những đồng vàng trong áo. Bị ép vào lồng ngực, chúng nhảy múa theo từng
nhịp thở, nhắc nhở chàng chúng đang tồn tại trong từng bước chân. Quanh
chàng, mọi người đang bàn tán, cãi cọ rồi giải hòa, ham muốn tột cùng
mình được giàu lên. Nếu họ biết Thẩm Phong mang theo vàng trong người,
chắc họ sẽ bóp cổ chàng để lấy túi vàng mất.
Chàng chán nản nghĩ tới tất cả những thứ chàng có thể tự thưởng cho mình ngay lập tức.
Những bộ quần áo mới? Quần áo của chàng đã rất thoải mái và dễ mặc. Một
bữa ngon? Lạ thay, cơ thể chàng chẳng phản ứng với thứ hấp dẫn này. Cổ
họng chàng thắt lại, chàng không đói. Nếu người thợ đàn già đang đi với
chàng, chắc họ sẽ ăn mừng và uống đến tận khi trời sáng. Thẩm Phong thở
dài rồi vội vã bước đi. Chàng lao nhanh đến quán Vượng Phong sang trọng, chắc Chu Bảo đang ăn trưa với băng đảng ở đó.
Từ xa, tiếng cồng đánh tiếng dài và chậm báo hiệu kẻ tử tù đang bị giễu qua phố. Ở Kinh
Châu, hành hình là một màn thu hút cả kinh thành. Những cánh cửa sổ mở
ra, lũ trẻ con chạy theo, đám đông bu lại bên đường chờ đợi đoàn người.
Thẩm Phong luồn vào trong mái che của một cửa tiệm. Kế bên chàng, một
người bẫy chim đã bỏ hết lồng chim xuống đất. Lũ chim đập cánh hốt
hoảng. Thẩm Phong ngồi xổm, vừa chọc phá chúng vừa huýt sáo. Bất thình
lình, chàng nghe tiếng một đứa trẻ la lên: “Nữ tu! Nhìn nữ tu kìa!”
Tiếng la của nó dẫn theo một đợt sóng tiếng xì xào: “Một nữ tu phạm tội, thật là nhục nhã!…” Thẩm Phong đứng phắt dậy, đi một mạch xuyên qua đám đông. Ở giữa đường, một toán lính mặc đồ màu sặc sỡ, biểu tượng của
lính bộ hình, diễu qua phố trong tiếng binh khí chạm vào nhau. Họ dắt
theo một người đàn ông và một người đàn bà lưng dựa vào nhau. Cả hai bị
nhét giẻ vào miệng và mang trên đầu tấm biển ghi chữ “tử tù”. Thẩm Phong nhận ra Chu Bảo và vị nữ tu trẻ tuổi. Quần áo của họ bê bết máu, bùn
đất và khuôn mặt họ lem luốc, bụi bặm. Chuyện gì đã xảy ra chứ? Họ đã
quay lại ngôi mộ hòng tìm thấy châu báu bị giấu ở đâu đó hay sao? Làm
sao người ta bắt được họ? Người ta đã hỏi cung, tra tấn họ hay sao?
Bụng nhộn nhạo, Thẩm Phong vội lấy tay bịt miệng. Chàng muốn theo đám đông
nhưng cơ bắp co rút và dạ dày xoắn lại. Không xa đó, một người đàn ông
trạc sáu mươi nói lớn:
- … Tổng đốc muốn nêu gương. Ông ta đã lệnh xử chém chúng ngay lập tức!
Rồi những kẻ hiếu kỳ liền vây lấy ông hỏi dồn.
- Chúng đã bị bắt hôm qua trong hầm mộ! – Một người có vẻ biết tất cả nói xen vào.
- Nhìn con mụ kia, nó có đôi mắt cáo, – một người hiếu kỳ khác xen vào. – Ê, người đẹp, ta ở đây kia mà!
- Có vẻ các nữ tu chỉ nghĩ tới chuyện đó thôi! – Một người khác cười. – Nghe đồn các nữ tu làm chuyện đó giỏi nhất đó.
- Đồ ngu. Để làm tình thì nấp trong mộ làm quái gì, – người lên tiếng đầu tiên lại xen vào. – Chúng đã tính cướp mộ một hoàng hậu nhà Tống.
- Ở đâu?
Một người mới đến tham gia vào cuộc tranh luận:
- Chắc không? Hoàng hậu nào chứ?
- Phu nhân Hoàng đế họ Lưu, người chinh phạt các vương triều phương Bắc,
tổng đốc thành Kinh Châu. Người ta đoán bà chết sau khi con trai là
Nghĩa Phù bị mất ngôi báu. Thật sự thì bà đã xuất gia thành nữ tu trên
chùa Đại Bi trong núi Bắc đó.
- Ê, mày nghe tin đó ở đâu?
- Anh họ tao là lính gác cổng cho dinh thự của tổng đốc. Tối qua ông ta
đang đứng canh thì các nữ tu nổi giận đập cửa ầm ầm đòi tiếp kiến ngay
lập tức. Hắn tên là Chu Bảo. Còn cô ả, ả là nữ tu ở chùa Đại Bi đó.
- Á à, kho báu à? Bao nhiêu đồng tiền vàng?
- Hiện tại thì không gì hết! – Người đàn ông hạ giọng. – Tổng đốc đã ra
lệnh đóng cửa chùa và cách ly toàn bộ khu vực. Ông ta sẽ phái một toán
quân đến đào?
- Quân?
- Thời này ai mà chẳng hám tiền.
Tổng đốc là số một… Thằng có tiền có thể mua thêm lính và ngựa để binh
hùng tướng mạnh. Có vẻ như vẫn còn một tên đồng bọn nữa… Người ta đang
tìm hắn…
Thẩm Phong lùi lại rồi lẩn vào đám đông. Chàng đi chậm
lại và cố tỏ vẻ mặt bình thường. Đám đông đi xuống phố, mọi người giẫm
đạp lên nhau đi theo. Nhịp chậm rãi và từng cú rời rạc của những chiếc
cồng làm máu đập trong tai chàng. Thẩm Phong định chạy ngược lại. Nhưng
đàn ông và đàn bà đứng chặn cả bốn góc thành để xem hành hình. Như một
làn sóng dâng lên, đám đông khép chặt lại trước mặt Thẩm Phong, ép chàng vào giữa rồi cuốn chàng đi theo.
Giàn hành hình đã dựng lên
giữa chợ. Dù ở trong khu đông đúc nhất của đô thành nhưng nơi hành hình
vẫn không một bóng người và đầy tang tóc, chỉ có chó và mèo hoang qua
lại. Thậm chí, vào những đêm trăng tròn, không ai dám đi qua đó, sợ rằng những hồn ma sẽ xuất hiện sau những lan can nhuốm đầy máu và những mẩu
sọ người. Binh lính xua đuổi lũ chó mèo đang phơi nắng. Lúc súc vật gầm
gừ rồi đi ra xa nằm. Bị kéo về phía trước, cặp trai gái khập khiễng đi
tới giàn hành hình. Bất ngờ, Chu Bảo ngã khuỵu xuống, làm người nữ tu
cũng bị lăn ra đất la lên dù miệng đang bị nhét giẻ. Binh lính lấy giáo
đâm họ. Họ co rút người lại. Chân họ giãy đành đạch. Mặt họ đầy nước mắt và mồ hôi rực sáng lên như hai tấm gương. Vừa gượng đứng lên họ đã
khuỵu xuống lần nữa. Binh lính nắm sợi dây siết cổ lôi họ đi về phía
giàn hành hình. Họ để lại sau lưng một vệt dài màu đổ thẫm.
Những tiếng cười cất lên.
- Lũ nhát gan… chúng tè ra quần rồi…
Một giọng như sấm át hết tiếng xì xầm:
- Tránh ra! Đao phủ tới!
Thẩm Phong quay lại. Hai người đàn ông, cha và con, mặc đồ đen, tay áo dài, đang chen qua bức tường chật cứng người hiếu kỳ.
- Cho qua! Cho qua! – Người già hơn vừa la vừa đẩy đám đông trước mặt.
Ai đó hét vào ông ta:
- Sư phụ Tân, ông đến trễ đó!
Ông ta trả lời:
- Không phải ta! Chỉ vì chúng muốn chết sớm quá thôi. Hôm nay ta gả con gái mà.
Một người reo lên:
- Phải nấu rượu thôi! Sư phụ Tân là nhanh nhất! Từ khi ta theo xem những
vụ ông làm, chưa bao giờ thấy phải dùng hai nhát! Một nhát là đủ.
- Đa tạ quá khen! Lát nữa đến làm một chén nhé huynh.
Một người khác cũng la lên:
- Sư phụ Tân, hôm nay có một nữ tu. Ông chặt thế nào? Từ phía sau hay từ phía trước?
- Ta để ả cho con trai ta. Phải dạy nó lạnh lùng với vẻ quyến rũ của đàn bà!
Đám đông phá lên cười rồi ai đó lại nói thêm:
- Cậu bé, hãy tập trung vào lưỡi đao! Lần trước cậu đã để cái đầu bay ra văng vào mặt một quan lớn đấy nhé!
Đứa con trả lời:
- Cú này tôi sẽ cho cái đầu bay tới ngoạm ông đấy!
Những tràng cười lại phá lên lần nữa. Xương sống Thẩm Phong gập lại, chân bủn rủn, tay run lẩy bẩy, cổ họng khô khốc. Chàng muốn buông bỏ hết đống
tiền vàng, nhưng chẳng còn chút sức lực nào. Bất ngờ, ai đó đập vào vai
chàng, làm chàng giật thót. Đó là tay đao phủ cha dẫn đứa con đi ngang
qua chàng. Khi Thẩm Phong định thần lại, đôi mắt chàng chợt nhìn vào
lưỡi đao mà người trẻ tuổi vác trên vai. Lưỡi đao buộc chặt trong cái
bao da cá mập. Cán dài của nó có thắt dây tím tía vòng quanh dính những
chấm đen bắn vào. Nhìn vào nó, Thẩm Phong bất thình lình điều khiển được chân mình. Chàng dùng tay dạt những người đàn ông ra rồi chạy qua đám
đông như một mũi kim thêu.
Chàng đi. Chàng chạy. Những con đường dường như không bao giờ dứt. Đường dài, đường trắng xoá, đường làm lấp
lánh ánh mặt trời đang đuổi theo chàng. Có thật ít bóng tối trong đô
thành! Thẩm Phong ép vào tường, luồn dưới mái che, vụt đi ngay khi có ai đó nhìn thấy mình. Khi gặp ánh mắt dữ tợn của binh lính, chàng cúi đầu, bịt miệng lại và vọt ra cổng Bắc. Vừa ngoảnh lại để xem có ai theo sau
mình không, chàng vừa băng qua những ngọn đồi và những cánh đồng lúa.
Cuối cùng núi Bắc cũng hiện ra trên trời.
Chàng chui vào mê cung trong rừng.
Chàng chạy vòng quanh cây cối.
Chàng chạy về phía hồ nước mà làng của chàng dựa lưng vào.
Chàng lặn xuống.
Nước lạnh quấn lấy cơ thể nóng hầm hập của chàng. Nước giội vào vầng trán
đang sốt của chàng và xoa lên gáy chàng đang nặng nề lo sợ. Nước vuốt ve ngực chàng, trôi tuột qua chân chàng, xoa bóp đùi chàng, áp vào những
sợi gân cho đến khi đôi chân duỗi thẳng. Chàng mở mắt dưới nước.
Những con đường sáng sủa, đám đông người và binh lính đội nón giáp, lũ chim
trong lồng biến mất như thể chàng vừa tỉnh giấc khỏi cơn ác mộng. Quanh
một cột ánh sáng chói loà, từng lớp tảo mỏng như lông vũ dập dềnh ùn
tới. Những con cá bạc bơi như thể đang bay trong không trung. Lũ tôm
giật bắn mình lùi lại. Một con ếch xăm hai vằn màu vàng trên lưng bung
chân ra rồi lại khép chân vào, bơi qua cột ánh sáng. Thẩm Phong ló đầu
lên khỏi mặt nước rồi bơi vào bờ. Chàng lắc người rồi nằm trên cỏ, mặt
phơi dưới bầu trời.
Những chiếc lá tròn, bầu, răng cưa làm thành một bức tranh trên nền trời xanh thẫm. Chàng nháy mắt cho tới lúc cảm
thấy đau để đón nhận cái nhìn yên bình này. Đâu đó có tiếng chim đang ca hót. Đó là một tiếng láy đơn độc giữa niềm vui và nỗi buồn. Một con bọ
rùa bò lên thái dương chàng.Chàng đưa tay lên bắt nó rồi nhận ra đó hoá
ra là nước mắt. Chàng ngạc nhiên há miệng to rồi nghiến răng lại để dập
tắt tiếng nức nở đang giày vò mình. Một con bướm cánh đen vện hai vòng
đỏ chót lả lơi trên chàng. Chàng giơ tay ra với nó. Con bướm đậu lên
ngón tay chàng một chút rồi vỗ cánh biến mất. Chàng buông tay rơi xuống
rồi khép mi mắt lại.
Một con chim cu đang gáy. Lũ côn trùng xào
xạc. Tiếng nước vỗ ì oạp đánh lên một khúc đàn trong chàng. Lúc đầu nó
yếu ớt và không rõ, sau thì dâng lên rồi thành dữ dội. Chàng run rẩy và
cắn rứt. Nhưng bằng những âm rung động, thứ âm nhạc đó ghì chặt lấy
chàng. Giọng một người phụ nữ át hết những nốt giữa quãng rồi thì thầm:
- Thế gian tối tăm nhưng âm nhạc là ánh sáng… Những người tìm đến âm nhạc sẽ được sủng ái… Âm nhạc đánh bại những quái vật gặm nhấm trong tim,
làm xương tê lạnh và làm đôi chân nặng trĩu…
Giọng nói xoay vòng trong không khí rồi mang lại cho Thẩm Phong một cảm giác sảng khoái. Sợ rằng giọng nói đó sẽ biến mất nên chàng nằm im và nín thở.
-
Cuối cùng Dương Tử, ở giữa đại dương có những hòn đảo trôi nổi. Chim
chóc có cánh trong veo đến đậu trên những rặng san hô màu tía. Những
cánh hoa mảnh khảnh và dợn sóng bừng nở, còn quả của chúng màu đỏ, vàng, xanh, lục, nuôi dưỡng những sinh vật nhẹ hơn lông hồng. Chúng bay qua
bay lại như vô hình. Đó là những tia sáng óng ánh, sáng loáng lên, vụt
tắt, rồi lại bừng lên. Tinh nghịch và tự do, chúng là những ảo vọng của
con người…
Thẩm Phong nghe tiếng rì rầm của sóng và tiếng kêu sắc lảnh của chim mòng. Nhưng giọng nói bỗng nhỏ hơn:
- Đến với ta. Đến với ta…Chúng mình sẽ là gió, là ánh sáng, là sương mù,
là những khúc nhạc buông… rồi chúng mình sẽ đi theo những con người
không cần nghỉ ngơi và không bao giờ dừng lại… chúng mình sẽ khiêu vũ
quay tròn bay lên chấp chới…
Những giọt nước mắt như từng bầy
kiến bò trên thái dương Thẩm Phong rồi rớt xuống đất. Chàng nhấc cánh
tay chùi phắt đi. Bất thình lình, chàng nhảy dựng lên rồi lục tìm trong
túi áo. Túi bạc đầy tám đồng vàng đã biến mất. Chúng hẳn đã rơi mất khi
chàng lặn qua hồ! Chàng lao đến bên bờ. Trước mặt chàng, nước hồ nhảy
nhót ném ra hàng nghìn những ngọn lửa mù loà.
Chàng cởi hết đồ rồi lại lặn xuống.
Những tiếng cười của một cô bé vang lại. Cô bé đang bập bẹ tập đếm. Cô bé đếm nhẩm, ấp úng rồi đếm lại từ đầu. Giọng cô bé như chim oanh líu lo, lúng liếng. Thẩm Phong nhô đầu lên khỏi mặt nước. Đêm đang đổ xuống thung
lũng. Trên mặt hồ một ngôi sao sáng rực. Mong ước ôm chặt được đêm, cánh rừng run rẩy thì thầm bứt rứt. Thẩm Phong vào bờ, vội vã mặc đồ rồi
chạy không ngoảnh lại. Thấy chàng chạy qua, cây cối cười khẩy đồng
thanh: “Vàng của thiên trả địa, vàng của thiên trả địa…”
Về đến
cổng làng, chàng ngồi xuống tìm các dấu chân trên con đường mòn để chắc
rằng binh lính của tổng đốc không đến bắt mình. Chàng lắng tai nghe. Sự
im lặng chiếm ngự không gian. Lũ chó đánh hơi thấy chàng liền vẫy đuôi
chạy ra. Chàng leo lên sườn núi rồi đẩy cửa vào vườn. Không một tiếng
động trong ngôi nhà. Sư phụ không về. Không có người thợ đàn già, căn
nhà tranh lạnh lẽo như hầm mộ.
Chàng thắt chặt dây lưng. Tay
chàng tìm thấy trong bóng tối một hũ đồ ăn còn dư, chàng tìm vài cọng
rau muối rồi uống ực một muôi nước. Một chút đồ ăn để làm cho cái bụng
cồn cào của chàng bình ổn. Chàng ngồi xuống bên thềm nhà. Đêm phủ lấy
núi Bắc, mang yên bình cho con người và sự bồn chồn cho lũ cọp. Cây cối
cắt vào vô số các vì sao, những cây đinh mà thần Nữ Oa đã dùng để vá lại bầu trời bị đổ. Hơi nóng nhẹ nhàng của đất xông lên. Nhiệt độ đã lên
cao bất thường từ trưa, ai cũng nghĩ đã là mùa hè. Đêm nay, nếu người
thợ đàn già ngủ dưới trời sao, Thẩm Phong nghĩ, chắc ông sẽ không bị
lạnh.
Chàng đứng dậy, trở vào nhà. Tay chàng tìm thấy hòn đá
lửa, ánh lửa lại phát ra. Chàng thêm một bó rơm vào bếp. Trong ánh sáng
của bếp, chàng đem tấm gốc mà chàng đã giấu giữa mái xà và cánh cửa
xuống tấm nệm rơm của mình. Những mảnh vụn của quan tài thở ra một luồng gió lạnh từ vương quốc của những người đã chết. Nhưng tấm gỗ này lại
rất thơm. Lấy tay vuốt ve nó, chàng có cảm giác gỗ ấm lên và vẫn còn
đang thở chầm chậm. Gõ gõ vào nó, chàng lại nghe được tiếng trong trẻo.
Điều đó cho thấy quan tài đã chống lại được tất cả hơi ẩm và tấm gỗ được đốn cách đây một nghìn năm khô như than. Tấm gỗ loé sáng theo nhịp lửa
rồi bất thình lình, chàng thấy khuôn mặt trắng trẻo của người chết hiện
ra. Chàng để nó lên giường rồi bước lùi lại. Sư phụ đã dạy rằng gỗ có
một trí nhớ, rằng chúng lưu trong những đường vân dấu ấn của những thời
đại mà chúng đã chứng kiến. Rằng âm nhạc của đàn cổ cầm là âm nhạc của
Thời gian.
Chàng đến gần rồi chầm chậm cúi xuống. Được phủ một
lớp sơn chất lượng tuyệt hảo, tấm gỗ bừng sáng như một tấm gương. Chàng
thấy ở đó khuôn mặt của mình. Trong làng, chiếc gương là vật xa xỉ của
phụ nữ. Họ dành dụm cả đời để được một túi đầy tiền đồng, đi vào thành
và đổi lấy một tấm gương đồng tráng bạc. Tròn vành vạnh như cái đĩa,
chiếc gương được truyền từ mẹ sang con gái cho đến ngày nó vỡ thì thôi.
Thẩm Phong chải lại mái tóc đang rối bù rồi quấn lên. Tấm gỗ phản chiếu
đôi môi mỏng, cái hàm tròn trĩnh và một vầng trán mịn màng. Chàng không
biết phụ nữ có thích mình hay không. Phụ nữ? Chàng lắc đầu rồi ngáp.
Chàng nằm lên tấm gỗ rồi ép má lên nó. Khi nhắm mắt, chàng thấy một hang động hai bên vách vẽ đầy tranh. Những con ngựa được thắng yên tuyệt đẹp kéo
những chiếc xe có đèn đỏ và rèm bằng tơ. Lính bộ binh cầm vũ khí theo
sau lũ chó vện đi theo hàng ngũ. Những thái giám huơ quạt lông công và
những chiếc dù thêu, dẫn theo những nàng hầu thon thả tóc vấn hoa Một số cầm chai, hũ, lọ, chậu vàng, số khác mang theo mèo, chó đuôi xoăn, lồng chim. Cơn gió thổi luồn dưới váy đủ màu sắc của họ rồi vén những nếp
gấp có thêu bướm đang bay giữa ngàn hoa. Họ là ai? Các nàng đi đâu?
Thế giới vô tư, không bệnh tật đói khát này, thế giới xuân thì vĩnh cửu
này, thế giới đang ca ngợi vẻ đẹp không phai tàn này là thế giới nào
vậy?
Bỗng giọng nói một phụ nữ thổi vào:
- Sau những bức rèm ngọc trai là tiếng gầm thét của những kẻ mưu phản và những kẻ giết
người đang huơ mũi kiếm… Những nụ cười, lụa là, vu khống, ta đã thoát
khỏi chúng mãi mãi…
Thẩm Phong run rẩy mở mắt. Lửa trong bếp đã
tắt. Một bóng trắng đi lại trong đêm, làm chàng nhớ tới những hạt bụi
nhảy múa trong hầm mộ. Dần dần, cái bóng có hình thù một phụ nữ rồi dạo
quanh chàng. Chàng đưa tay để chạm vào. Nàng vội lùi lại. Chàng chạy
theo nàng, tay chới với. Nàng bắt chước hành động của chàng rồi dang tay ra. Nhưng chỉ có những chiếc cánh sáng rực tung ra ở nơi cánh tay. Nàng bay lên rồi hạ xuống gần chàng khi chàng đã dừng lại, rồi lại lẩn trốn
khi chàng đến gần. Thẩm Phong thấy ngực thắt lại, đôi môi nhoẻn ra và
một tràng âm thanh thoát ra từ cổ họng chàng. Chàng phá lên cười. Bị bất ngờ, cái bóng cúi xuống để nhìn chàng và nhảy thót ra sau, đôi cánh run rẩy. Thích thú với trò chơi làm người trong gương của mình, nàng cũng
cười. Thẩm Phong nhảy vào không khí để bắt nàng, nàng cuộn người lại rồi biến thành một con mèo trèo lên tới mái nhà. Chàng vội vã huơ tay chạy
theo. Nàng nhảy ra phía trước, quay lại nhìn chàng nhăn mặt. Trong một
nỗ lực cuối cùng, chàng lao về phía nàng. Nàng biến ra phía cửa rồi biến mất trong ánh sáng ban ngày. Thẩm Phong quay lại giường, lượm chiếc áo
mặc vào để đi ra ngoài. Một ánh sáng mờ mờ thắp lên. Cái bóng lại hiện
ra dưới hình dạng một phụ nữ. Nàng bắt chước các hành động của chàng.
Chàng làm ra vẻ không hề biết rồi ngồi xuống bãi rơm, nàng cũng vậy.
Chàng quay đầu sang nhìn nàng, nàng cũng làm y vậy với chàng. Chàng nhìn nàng. Nàng quan sát chàng. Bỗng nàng tung cánh. Chàng đi vào một màn
sương có những hoa tuyết cuộn tròn rồi lấp lánh. Giọng một phụ nữ vang
lên:
- Chàng đã đến tìm em, em là của chàng!
- Nàng là ai?
Người thợ đàn trẻ quên mất rằng không được nói chuyện với hồn ma.
- Em không phải là Bồ Tát Quan Âm nghìn tay cầm roi và bánh xe lửa, mang
bình nước trường sinh và nhành liễu. Em không phải là con rồng đại
dương, thần của những cơn giận dữ làm bão tố và sấm sét. Em không phải
là tiên nữ canh gác vườn đào của Tây Vương Mẫu. Em không phải là người
phụ nữ bình thường mang những xúc cảm phàm trần. Em xuống mặt đất theo
dấu trăng. Em thì thầm với rừng rậm. Em ở trong giấc mơ của những chú
chim, trong hơi thở của thú hoang bắt mồi. Chàng, chàng làm em vui, và
vì chàng, em muốn làm những điều kỳ diệu. Chàng, đứa trẻ bị bỏ rơi, em
sẽ cho chàng mùa xuân vĩnh cửu…
Khi nghe sinh vật lạ lùng này nói, nỗi buồn bao phủ lấy Thẩm Phong. Chàng hỏi nàng:
- Nàng có thấy sư phụ của ta không? Ông ấy đi đâu rồi?
- Sư phụ chàng đã đi vào mùa đông vì em đến vào mùa xuân. Ông biết em đến, ông để lại cho chàng ngôi nhà mà chúng ta yêu mến.
Cái bóng quấn lấy Thẩm Phong. Tay nàng tựa như dòng nước nóng. Bị ngạt,
chàng muốn vùng vẫy nhưng tay chân đã mất hết sức lực. Chàng há miệng để thở. Cái bóng lao vào đó như một chùm ánh sáng.
Một cảm giác run rẩy chưa từng biết đốt cháy bụng dưới của chàng.
Thẩm Phong rùng mình sung sướng rồi giật thót mình dậy. Ngày đã lên cao. Mặt trời chiếu qua khe cửa, vẽ lên tường những vệt dài, những đường xoắn
ốc, những từ ngữ không thể giải mã.
Chàng đã dựng lên một cái
khung gỗ trước nhà. Mặt trời chiếu vào nó chằm chặp qua những tàn cây và ném những mũi lao vào thân thể trần trụi của nó.
Cầm dao nạo
trong tay, chàng sửng sốt với khám phá của mình. Khi lớp sơn bị nạo đi,
tấm gỗ trở thành một phụ nữ khoả thân. Không còn quần áo điểm trang hay
trang sức, nàng hé lộ nét đẹp tự nhiên lộng lẫy. Trước đây, khi lắng
nghe âm thanh nàng phát ra lúc chàng gõ tay vào, chàng đã cho đó là một
phiến gỗ thông cổ. Bây giờ, chàng lại đứng trước một loại gỗ chàng chưa
hề biết đến có màu vàng nâu và những đường vân tinh tế. Vì nhiệt độ lên
cao bất thường vào đầu xuân, tấm gỗ phả ra một mùi thơm lạ lùng.
Sư phụ xưa kia có nói tới một loại cây thần mọc trên những hòn đảo trôi
nổi ngoài đại đương ở phía đông. Rễ của chúng trồi lên khỏi mặt đất và
che đỡ cho những loài thú hoang. Thân của chúng đâm vào bầu trời. Lá của chúng uống mây và tái sinh trong ánh mặt trời. Từng đàn chim đến đó làm tổ vào buổi chiều tà rồi ra đi vào lúc bình minh. Mỗi sáng mỗi tỗi,
chúng đều gõ vào đó, tạo ra những tiếng động mà ngư dân ngoài bờ biển
còn nghe được. Người thợ đàn già nói rằng những cây thần không bao giờ
chết và không sợ sấm sét. Ngược lại, những ngày mưa bão, khi những tiếng sét xé toạc những đám mây và làm nổi sóng, bóng của chúng, có hình
những bông hoa khổng lồ, nghiêng vào bức rèm mưa và cuồn cuộn trên trời
như bầy sứa. Mỗi một nghìn năm, chúng lại trổ cành. Những cành cây khô
còn to hơn cả cành một cây tùng trăm tuổi sẽ rụng xuống biển và không
bao giờ tan rã. Những ngư phủ vớt được đem bán ở chợ đắt như vàng, chỉ
có những hoàng đế mới được dâng tặng để làm giường tủ, bức bình phong
hay những xà nhà sơn thếp làm cho cung điện ngập một mùi hương quý phái
gợi lại những hòn đảo thần tiên.
Nếu sư phụ đang ở đó, ông sẽ đi quanh tấm gỗ, sung sướng và kiêu hãnh lắm.
Thẩm Phong thở dài. Chàng đặt cái dao cạo xuống rồi ra khỏi vườn. Trong một
đêm, khu làng đã thay hình đổi dạng vì cây cối đã trổ hoa. Những cây
đào, cây ngâu, cây lê và cây táo, những bông hoa tú cầu và cây giáng nụ
tuyết đã tô điểm cho sườn núi, nơi mọc lên những mái nhà tranh chạy dọc
đến tận thung lũng. Lũ trẻ sung sướng với những gì đang thấy trước mắt,
lăn tròn trên cỏ rồi chạy nhảy thả diều, những con diều theo gió lên đến tận trời cao.
Gần giếng nước, Thẩm Phong gặp một người hàng xóm đang lấy nước. Chàng vội đến giúp bà.
- Lần cuối cùng mà trời nóng như thế này đã cách đây hai mươi lăm năm, –
bà lầm bầm. – Đợt đại hạn lúc đó đến làm người ta phải chờ mưa suốt hai
năm. Sau đó, đã gặp phải nạn cào cào, nạn quân nổi loạn, nạn man di
phương Bắc, rồi những kẻ sưu thuế… Sư phụ cậu biết thuật chiêm tinh, ông lão mà ở đây chắc báo được cho chúng ta xem có bị cạn nước không nhỉ?
Thẩm Phong tránh né:
- Con gánh xô nước về nhà bà luôn nhé?
- À, được! Cảm ơn chàng trai. Ta giờ đã già quá. Ngày xưa ta gánh hai xô hai đầu đòn gánh mà còn chạy được ấy chứ.
- Chờ con chút.
Đến lượt mình, Thẩm Phong kéo gầu nước lên rồi rảy nước từ đầu tới chân.
Chàng sắp sửa kéo gầu thứ hai lên thì bà hàng xóm la lớn:
- Đủ rồi, Thẩm Phong! Nếu cậu muốn tắm thì ra hồ. Giả như năm nay đại hạn thì mình phải tiết kiệm nước đó!
Chàng nghiến răng thả gầu nước rơi tòm xuống giếng rồi theo bà hàng xóm về nhà.
- Cầm lấy cái bánh, ăn đi khi còn nóng, – bà nói với chàng. – Còn cái bánh này đem cho sư phụ nhé!
Cơ thể chàng lại hoạt bát nhờ hai cái bánh, Thẩm Phong cầm lấy cái rìu đến trước tấm gỗ. Chàng giạng chân, bóp bụng, lắc lắc hông, hít thở thật
sâu rồi nhấc tay lên.
Chàng chưa bao giờ bị xây xẩm vì những
nhát rìu. Cái rìu lao xuống, không run rẩy. Khúc gỗ rung lên nhưng không bật nảy. Lưỡi rìu gãy gọn và sắc ngọt cắm vào ba phần tư tấm gỗ.
Lúc nhỏ, Thẩm Phong chẻ củi mỗi ngày mà không biết người thợ đàn già đang
rèn luyện chàng. Sau đó, sư phụ mới nói cho chàng biết:
“Sức
mạnh của người làm đàn không phải là sự hung tàn của chiến binh. Người
làm đàn phải cầm chặt công cụ của mình như một chiến binh không bao giờ
buông gươm giữa trận chiến. Nhưng một chiến binh chặt đứt, đâm vào và
lấy đi sự sống. Sức mạnh của chiến binh là lòng gan dạ, ông ta làm quân
địch hoảng sợ trước khi giết chóc. Còn sức mạnh của người làm đàn là sự
chính xác, người làm đàn phải làm chủ hoàn toàn đường đi của lưỡi rìu.”
Thẩm Phong nhẹ nhàng rút lưỡi rìu ra – sư phụ đã dạy chàng nhát chém hơi
nghiêng, một động tác khó thực hiện. Chàng lại nhấc tay lên. Lưỡi rìu
lấp lánh trong không khí rồi lại lao xuống. Một phoi xoắn chạy dọc theo
tấm gỗ.
“Con chưa tập trung! Hãy bịt tai lại!” Người thợ đàn già gầm gừ. “Khi con đối diện với gỗ, con không được nghe những tiếng động
quanh con! Khi con điều khiển lưỡi rìu, con phải lắng nghe tiếng trái
tim con đang đập. Vì động tác phải hoà nhịp với nhịp dồn máu. Phải luôn
luôn tập trung, mất tập trung là mất chính bản thân mình.”
Bị Thẩm Phong nện, nắp quan tài chuyển động.
Chàng nhấc chân lên rồi chặn đầu gối xuống mép tấm gỗ. Chàng giữ nó bất động
bằng tay và đầu gối, rồi đưa lưỡi rìu chạy dọc kẽ nứt mà chàng mới tạo
ra. Tấm gỗ thở ra rồi một loạt rung động truyền lên nắm tay chàng. Lưỡi
rìu chạy tới đâu, tấm gỗ run rẩy, than vãn, tạo ra những âm nhỏ xíu tới
đó. Nó lư ợn sóng rồi thở phì phì trong từng thớ gỗ bị lớp sơn tang mà
triều Tống làm cứng sượng.
Ngồi xổm bên thềm, tay cầm bát, miệng đầy ngũ cốc, Thẩm Phong vừa nhai vừa nghe tiếng chim hốt hoảng lúc
chiều về và nhìn ngắm những đám mây đang thay hình đổi dạng trên trời.
Chàng nhớ khuôn mặt người chết mà chàng thoáng thấy trong ngôi mộ trước
khi khuôn mặt này lại biến thành tro bụi.
Bà ta là ai? Đó có phải là phu nhân họ Lưu hay chỉ là một trong số những nàng hầu của bà?
Hoàng đế Lưu đã gây chiến với man di phương Bắc rồi lập ra triều Tống. Đó là
một anh hùng được ngợi ca ở phương Nam. Khắp nơi, trong các điếm trà,
những người ca sĩ mù hát vang những cuộc viễn chinh của ông ấy. Nhưng
người ta không biết gì về cuộc đời những bà vợ của ông. Người ta chỉ
biết những đứa con ông chém giết lẫn nhau rồi vương triều chỉ kéo dài
vài thập kỷ. Nếu người thợ đàn già ở đó, chắc ông đã kể cho chàng nghe
nhiều thứ.
Thẩm Phong đứng dậy rồi tới gần cái khung gỗ. Bị chẻ làm đôi, đặt cạnh nhau, tấm gỗ giống như hai chân một người phụ nữ.
Xâm hại ngôi mộ hoàng hậu của một anh hùng có phải là một hành động đáng
nguyền rủa không? Bằng chứng là, Chu Bảo và nữ tu đã bị hành hình và
binh lính đang tìm kiếm kẻ đồng phạm. Phải chăng họ sẽ băng rừng tìm bắt chàng? Hay là họ chờ chàng ở trong thành, chỗ Lưu Bé Bự? Nếu chàng
không thể quay lại gặp tay buôn đồ cổ thì tại sao lại phải làm cây đàn
này? Ngay cả vàng mà hắn đưa cho chàng để trả thù lao cũng đã mất. Bây
giờ, chàng trở thành tội phạm. Chàng có nên trốn đi không? Nhưng làm sao chàng trốn đi mà không báo cho sư phụ biết?
Đêm, ngọn sóng khổng lồ, ập xuống ngôi làng. Trong những tàn cây, chim im bặt. Những vì sao thắp lên.
Thẩm Phong nhồm nhoàm cổ nuốt một miếng ngũ cốc. Các hạt cạ vào cổ họng mà
không chịu trôi. Chàng toan vào nhà uống một ngụm nước thì chợt thấy
người phụ nữ trong mộ đứng dựa vào khung cửa chắn lối chàng vào nhà.
Chiếc áo của nàng bay trong gió còn tóc nàng buông lơi, màu nâu bạc,
cuộn từ lưng nàng dài xuống tận mặt đất. Nàng liếc nhìn Thẩm Phong bằng
đôi mắt màu hạt dẻ.
Chàng đứng khựng lại vì kinh hãi.
Nàng mỉm cười rồi né ra.
- Chàng vào đi.
Chàng vội vã đến gần hũ nước, uống nhiều ngụm liên tiếp.
Khi chàng ngẩng lên, người phụ nữ đã biến mất.
Chàng đến đóng cửa lại thì nàng lại xuất hiện trong vườn.
- Đàn cổ cầm được Phục Hy tạo ra để cho con người có đạo đức và sống đúng đắn. Ở xa thế gian, giống như loài khỉ vượn, sao chàng dám mong trở
thành thợ đàn?
Thẩm Phong im lặng. Chàng nhớ rằng nếu một hồn ma nói chuyện với người sống và nếu người sống trả lời, tính mạng người đó sẽ trở thành tù nhân của người chết.
- Ta không có đàn cổ cầm, – người phụ nữ tiếp tục. – Nhưng ta soạn nhạc bằng sức mạnh linh hồn ta.
Những luồng gió là những sợi dây đàn bằng lụa và ta làm cho tiếng thú
vật vang lên. Nghe này…
Người phụ nữ nhấc tay lên. Tay áo của nàng gợn xóng rồi để lộ ra một bàn tay màu xà cừ.
Một sự im lặng bao trùm lấy thung lũng.
Cỏ và những bụi rậm khẽ xao động, tiếp theo là tiếng rì rào càng lúc càng
lớn của cây cối oằn mình trong gió. Sau nhà Thẩm Phong, một con cú đang
rúc. Gió bỗng dứt rồi chia thành nhiều luồng khí băng qua rừng theo
nhiều hướng. Cây cối rung lên, bập bùng, càu nhàu. Tuỳ theo độ lớn thân
cây và độ rộng của tán lá mà chúng thì thầm hay rít lên rồi đáp lời
nhau, âm trầm âm bổng. Dàn đồng ca lúc thì giận dữ, lúc lại nhã nhặn,
được hoà cùng tiếng trống của những cành cây gãy đập vào nhau.
- Thẩm Phong! Thẩm Phong!
Một đứa trẻ trong làng chạy theo đường mòn lên núi. Nó dừng lại trước hàng rào khu vườn, thở hổn hển:
- Mẹ cháu sắp sinh. Ông thợ đàn có ở đó không ạ?
- Ông đi rồi, – Thẩm Phong trả lời.
Đứa bé thất vọng bỏ đi rồi quay trở lại.
- Ông có thể ghé qua khi ông trở về không ạ?
- Ừ.
Đứa trẻ nhảy lên rồi biến mất. Có vẻ nó không thấy có gì bất thường.
Gió ngừng thổi. Thẩm Phong tìm người phụ nữ và thấy nàng đang ngồi trên cây đào. Dưới những lớp váy áo, đôi chân nàng đung đưa. Nàng ra hiệu cho
Thẩm Phong rồi bất thình lình thổi vào đám hoa.
Một con chim rồi hai, ba, mười, một trăm con bắt đầu ca hót. Ngược với cây cối làm thành những âm thanh gợn sóng từng đợt một, lũ chim cùng lúc gào lên như hàng nghìn chiếc chuông leng keng không nghỉ. Tiếng hót hỗn độn làm đầu óc
Thẩm Phong quay cuồng. Chàng không còn cảm nhận được sức nặng của đôi
chân lẫn những cử động của cánh tay.
Chàng ngồi bệt xuống thềm.
Người phụ nữ ở trước mặt chàng. Nhưng chàng có cảm giác nàng cũng đang ở sau
lưng chàng. Trước mặt chàng, nàng dang tay ra. Sau lưng, nàng đã quấn
lấy chàng. Giọng nàng băng qua tiếng chim lọt vào tai chàng:
-
Những chiến trận đã thành đồng lúa, những đường hành quân giờ thành
đường cho xe chở hàng. Nơi thân xác binh lính lăn lộn giờ đã mọc lên vô
số cây chè, nơi những anh hùng ngã xuống giờ người ta xây nên các ngôi
làng. Chỉ có dòng Dương Tử nhớ tới những cái tên, nhớ những chiến công,
nó chảy về đông mang theo mùa màng và những tuần trăng.
Nàng ngừng lại rồi nói với Thẩm Phong:
- Chàng chưa từng sống, chưa từng thấy, chưa từng nghe, sao chàng dám chạm vào âm nhạc?
Thẩm Phong quyết định để mặc bóng ma có lẽ đã bị điên vì cô độc.
Mặt trăng từ từ lên trên ngọn cây. Bất ngờ, trăng lao xuống rồi cuốn một
tấm thảm xanh trên bầu trời. Những tia sáng như sữa tuôn ra, tràn qua
cây cỏ. Thẩm Phong bày xung quanh mình các công cụ, chàng để một trong
hai tấm gỗ lên đùi rồi đánh bóng nó.
Người phụ nữ ngồi trên ghế
đá. Nàng lấy tấm gỗ còn lại rồi bắt chước những động tác của người thợ
đàn trẻ. Tay nàng nhỏ nhắn, năm ngón mảnh khảnh, không giống tay những
cô gái trong làng, đỏ hồng và to bản. Vì nàng đang tập trung làm gỗ nên
chàng dám nhìn nàng: gương mặt nàng như trẻ con đang chơi đồ hàng; khi
nàng hạ cằm xuống, khuôn mặt lại thành khuôn mặt của một bà mẹ trẻ; khi
nàng ngước nhìn lên, trẻ thơ và người lớn hoà trộn trong nàng, nhìn
chàng e thẹn lẫn bạo dạn. Bơi trong ánh trăng, mái tóc nàng bồng bềnh
dợn sóng. Chàng nhận ra nó không phải màu nâu mà gồm vô số búi tóc màu
sáng lấp lánh hồng, cam, màu hoa cà, xanh và đen.
Thẩm Phong lấy cái đục. Nàng cũng vậy.
Ở trong làng, khi ai đó qua đời, tất cả mọi người đều đến dự đám tang,
khiêng áo quan đến nghĩa địa. Người ta khóc than người quá cố, người ta
kể lại chuyện đời người đó, ca tụng và an ủi người đó. Vì người ta nói
rằng nếu ai đó chết trong buồn rầu, người đó sẽ trở lại dương gian để hù doạ khi đêm đến, cướp đi sinh khí người sống. Những người trở về là
những tử thi quỷ dữ tóc xanh, răng nhuốm máu, mắt to như đèn lồng. Cách
Thẩm Phong hai bước chân, người phụ nữ không giống tí gì những điều đó.
Dù cho da nàng hơi nhợt nhạt, đôi má nàng vẫn hồng và đôi môi đỏ. Bờ mi
nàng rung rung còn mắt nàng sáng như mắt những phụ nữ bình thường khác.
Váy nàng, gồm nhiều lớp tinh tế, tôn lên một nét người duyên dáng, yêu
kiều.
Mặt trăng dịch chuyển bóng những tàn cây. Những nét cong
gãy của chúng nhanh chóng đổ lên bàn đá. Được ở cùng một người phụ nữ
quả là một cảm giác khác lạ! Thẩm Phong nghĩ. Một người phụ nữ, đó không phải là sư phụ kể chuyện thế gian, đó không phải là tay buôn đồ cổ tự
phụ, cũng không phải người bán nhạc cụ Lỗ Tứ giỏi nói năng, cũng không
phải Chu Bảo thất vọng vì không kiếm được bạc vàng. Nàng duyên dáng như
một con nai, với những tiếng mời gọi chàng trong im lặng làm chàng thích thú. Thẩm Phong nuốt nước miếng rồi căng tai. Nàng có vẻ nhưng đang nói với chàng: “Em không giống với những cô gái trong làng chạy chân trần,
em là tiên nữ từ trên trời. Hãy nhìn em đi, hãy nhìn em đắm đuối…”
Thẩm Phong nháy nháy mắt. Cái đục trượt qua tay chàng rớt xuống.
Da nàng trắng muốt như trăng. Dáng người mảnh khảnh và ngực đầy đặn. Tại
sao nàng lại đến với chàng, một thợ đàn nghèo chưa thấy nhiều, chưa sống nhiều?
Nàng quay về phía chàng rồi nhấn chìm ánh mắt chàng
trong ánh mắt nàng. Bị khựng người, chàng đỏ mặt đến tận mang tai, đằng
hắng ho rồi gãi đầu. Hai lúm đồng tiền hiện trên má người phụ nữ. Nàng
bắt đầu cười. Không để chàng kịp né tránh, nàng đã xích đến gần chàng,
nắm tay chàng rồi đặt lên người mình. Những ngón tay của chàng chạm vào
da thịt. Tim Thẩm Phong đập thình thịch. Chàng run lẩy bẩy.
Người phụ nữ quấn lấy chàng, giọng nàng lọt vào tai chàng mặc cho tiếng trái tim đập thình thịch:
- Đến đây, Thẩm Phong, đến với em. Hãy vào trong em. Em là thế gian. Em là sự sống.
Chàng hít mạnh. Vừa sợ hãi vừa biết ơn, chàng nhấc nàng dậy rồi bế vào giường.
Tim chàng đập mạnh. Tim chàng thả lỏng. Tim chàng nhịp nhanh đến mức chàng
không còn nghe thấy gì khác ngoài nó. Cơ thể chàng nóng lên. Da chàng
bốc cháy. Cổ chàng khô lại. Hơi thở dồn đến mức làm mũi chàng bị đau.
Tay chàng vốn chưa từng buông lỏng một con dao, một lưỡi rìu lại đang
run rẩy đến mức không thể vuốt ve làn da mịn màng của người phụ nữ.
Chàng đẩy nàng ra để tránh nàng. Bất ngờ, chàng bị xô ngã, bị ép, bị
nàng giữ chặt. Chàng há miệng để thở, rồi nàng đặt lên lưỡi chàng cái gì đó ngọt ngào và trơn ướt. Nàng mút vào rồi thổi vào cơ thể chàng một
luồng hơi nóng. Chàng hoảng sợ. Chàng chưa bao giờ chạm vào phụ nữ. Rồi
nàng thở hổn hển. Nàng có bị đau ở đâu đó không? Nhưng sao càng lúc
những cái ghì siết của nàng càng nóng bỏng? Nàng đợi chàng và chàng
không thể làm nàng thất vọng. Nhưng nàng đợi gì từ chàng? Vừa thoáng
nghĩ tới đây, chàng nghe một giọng nói nài nỉ vang lên trong đầu:
- Âm nhạc! Hãy biến em thành âm nhạc!…
Chàng vụng về để nàng nằm dưới mình như một cây đàn cổ cầm rồi tay chàng lướt qua làn da của nàng. Nàng run rẩy rồi lặp lại:
- Âm nhạc, âm nhạc, em xin chàng. Em đã phải chịu đựng im lặng quá nhiều!
Chàng gục đầu vào tóc nàng, chàng ngửi mùi hương rồi cắn vào gáy nàng.
- Hãy siết em chặt hơn, – nàng run lẩy bẩy nài nỉ. – Em là của chàng. Em là âm nhạc của chàng.
Chàng áp người vào nàng. Nàng rên rỉ. Theo nhịp càng lúc càng nhanh lặp đi
lặp lại, chàng đổ vào nàng như đang lặn xuống hồ tìm những sợi dây đàn
trong da thịt người phụ nữ. Nàng thở hổn hển rồi nấc lên.
Chàng
đi vào trong một nơi chật hẹp đến mức chàng thấy đau. Một đợt run rẩy
chạy từ đầu đến chân chàng. Những ngọn sóng trắng nối đuôi nhau, những
bóng tối xoay tròn. Hồ nước là một chiếc lọ mà người ta đi vào để lớn
lên, trốn tránh, làm đầy mình. Chàng không còn nghe được nhịp đập của
tim nữa. Chàng quên cảm giác đau. Sự khác biệt giữa người sống và người
chết biến mất. Chàng nghe tất thảy mọi thanh âm xì xào. Đó là tiếng thì
thầm của hai con người. Một người đàn ông và một người đàn bà song tấu
cùng nhau. Tựa như tiếng chim sơn ca trong đêm, họ ứng biến với nhau,
điều chỉnh cao độ, tìm cách tạo thành hợp âm. Người này nhanh thì người
kia chậm lại, họ đan xen niềm vui và nỗi buồn. Giọng họ lướt đi lên đỉnh hy vọng, xoay tròn rồi ném mình vào buồn khổ. Người này lượn sóng băng
qua người kia. Họ rời xa nhau để rồi lại về với nhau. Mặt đối mặt, họ ôm nhau thật chặt. Họ tìm những ngọn sóng run rẩy của chung, đầu họ, chân
họ, ngực họ và chân họ bám vào nhau, lồng khớp vào nhau, hợp thành một.
Bất ngờ, Thẩm Phong nghĩ tới Chu Bảo và người nữ tu. Chàng hiểu vì sao họ
nôn nóng rời thành, hiểu quyết tâm đào trộm mộ, hiểu ước nguyện được
cùng nhau đếm mức phải chết vì điều đó. Chàng, Thẩm Phong, chưa bao giờ
biết thứ âm nhạc này, lại tưởng đã biết tất cả về đàn cổ cầm.
Thấy chàng lơ là, nàng nằm lên chàng. Nhịp thay đổi của nàng làm chàng run
rẩy và rên rỉ liên hồi. Chàng cũng có thể phát ra những nốt nhạc. Đàn
ông và phụ nữ phải chăng là hai mảnh gỗ làm nên mặt đàn và đáy đàn cổ
cầm? Thẩm Phong nghĩ. Duyên tiền định sẵn cho nhau, họ phải gặp nhau,
quấn lấy nhau, để phát ra một điệu nhạc duy nhất.
Họ trườn qua
chiếc chiếu rơm, lăn trên mặt đất rồi cùng thở ra rã rời. Bất ngờ, má
Thẩm Phong đập vào một vật cứng và nhọn. Chàng sờ chiếc áo mình đang nằm trên đó. Ngón tay chàng chạm vào cái túi trong đó có tám đồng vàng.
Ai đó gõ mạnh vào cửa. Một người hàng xóm thì thầm hoảng hốt:
- Thẩm Phong, dậy đi con! Binh lính! Binh lính tới! Trốn đi con…
Chàng nhảy dựng dậy. Một con rồng xanh đã vào làng. Nơi nó đi qua, những hàng rào và mái nhà lung lay, những ngôi nhà tranh bị đốt cháy, tiếng la hét và tiếng khóc vang lên. Những chiếc bóng lảo đảo rồi xô nhào nhau. Dân
làng bị đánh thức đang đổ về phía giếng nước. Binh lính huơ đuốc hét
lớn:
- Châu báu trong mộ cổ đâu?
- Các người chôn châu báu ở đâu?
- Tên Thẩm Phong sống ở đâu?
Chàng quay phắt lại. Người phụ nữ vẫn không biến mất. Đó không phải là một giấc mơ.
Nàng đứng sau lưng chàng. Nàng trắng nõn và bừng sáng như ánh trăng. Nàng nhìn vào mắt chàng rồi nhoẻn miệng. Nàng mỉm cười.
- Em là châu báu của chàng. Đi thôi.