Đàn Cổ Cầm Khỏa Thân
Năm 581, triều nhà Trần
Mặt trời lên cao vượt qua thành Kinh
Châu và tấm biển sơn đen ghi dòng chữ: “Cửa Sông”. Mặt trời chẻ đôi mây
mù và ném những mũi lao ánh sáng của nó vào khu chợ. Năm này sang năm
khác, thực phẩm ngày càng đắt và khách chỉ quen bu vào những sạp nhỏ. Họ giẫm đạp lên nhau và trả treo phun cả nước bọt vào nhau để rồi chẳng
tìm được gì hợp với túi tiền của mình. Họ thất vọng đi lang thang ngoài
đường, buông những lời lẽ chế giễu người này, người kia. Rồi đùng một
cái, họ bổ nhào vào một lái buôn đang bán đổ bán tháo mọi thứ. Ôi thôi
là tiếng nói, ôi thôi là tay nào tay nấy cố giơ cao. Người ta chen lấn
rồi cãi cọ. Rau quả bay tới tấp giữa đám cãi cọ ồn ào.
Chàng
thổi sáo đi bộ giữa đường. Chàng đi thẳng và cứ đi thẳng chẳng để ý gì.
Đầu quấn vải màu tối, mặc một bộ quần áo cũ kĩ đã sờn màu, chàng bước đi trên đôi chân cao ráo, luôn giữ dáng thẳng, còn lưng hơi khòng. Những
kẻ đói ăn và đang vội đi ngang qua chàng mà không hề xô đẩy chàng. Có lẽ họ nhìn thấy cây đàn cổ cầm chàng mang trên lưng nên hiểu rằng chàng
kiếm sống bằng âm nhạc và đến chợ không phải để giành miếng ăn với họ.
Có lẽ họ nhận ra trong bước chân chàng sự mệt mỏi và lạnh lùng của một
kẻ tay trắng, có lẽ họ tránh đụng vào chàng để khỏi bị lây sự xúi quẩy
và khốn khổ.
Gió vuốt nhẹ khuôn mặt chàng và gửi vào tai chàng
một chuỗi âm thanh xì xào. Chàng mở mắt ra. Khu phố được bao quanh bởi
những ngôi nhà mái ngói nâu đỏ dựng đứng giống như một con cá dữ câu
được trên biển Hoàng Hải. Tiếng xì xầm của người, tiếng lăn bánh của xe
hàng, tiếng lách cách của chai lọ, tiếng dao thớt và tiếng gà vịt bị cắt tiết vẳng lại, hòa vào nhau tồi tán ra làm thành một thứ âm nhạc chầm
chậm, len lỏi trong đầu chàng rồi vào đến tận ngực. Chàng lắc lư cái đầu đánh nhịp.
- Thẩm Phong, không chào nhau một tiếng sao?
Âm nhạc ngưng bặt. Chàng quay lại.
Lưu Bé Bự, tay buôn đồ cổ, vẫy vẫy chàng ở trước cửa tiệm.
- Đến đây! Cạn chén trà nào!
Chàng ngập ngừng một thoáng rồi đi tới.
- Đã nói trăm nghìn lần, khi nào qua phố thì ghé đến đây. Lúc nào cũng có trà nóng nhé! Đến đây! Đến đây! Vào đây, nhanh nào!
Chàng theo chân Lưu Bé Bự lên lầu. Hai cô hầu gái nâng rèm lụa chào mời:
- Đại nhân, xin mời vào!
Đi qua cửa, Thẩm Phong cảm nhận được cái nhìn lén của hai cô hầu vào đôi
giày dính đầy bùn của chàng. Đêm qua trên núi trời mưa. Để vào thành
buổi sáng, chàng đã phải băng núi ban đêm. Mải mê lắng nghe tiếng oàm
oạp của ếch nhái và tiếng vo ve của côn trùng khi đi qua rừng nên nhiều
lần chàng bị trượt chân, ngã nhoài trong bóng tối.
Một tấm thảm bằng lụa và len màu đỏ son được trải trong phòng. Lưu Bé Bự chỉ cho chàng một chiếc ghế có gối thêu:
- Ngồi, ngồi đi!
Ngồi trên ghế, Thẩm Phong cởi giày. Đôi tất rách của chàng cũng bị những cô
hầu nhìn soi mói. Họ thầm chế nhạo chàng. Lưu Bé Bự giả vờ không biết gì hết. Y ra lệnh mang trà đến. Thấy chàng đã yên vị, y nói lớn:
- Thẩm Phong, đưa ta xem vật báu này xem nào! Tên nó là gì?
Không chờ câu trả lời, tay buôn đồ cổ chụp lấy nhạc cụ, tháo sợi dây mảnh rồi lôi nhạc cụ ra khỏi bao. Y mang cây đàn ra chỗ có ánh sáng, mân mê
trong đôi tay của mình để ngắm nghía hình dáng và màu sắc của nó.
- “Sóng cuộn”, – y đọc được ở mặt trong của thùng đàn.
Y đặt cây đàn cổ cầm lên đầu gối, dùng ngón trỏ gõ nhè nhẹ vào thân đàn.
Thẩm Phong thót cả tim khi Lưu Bé Bự đặt bàn tay thô lậu của y lên cây đàn.
Chàng luôn thấy khó chịu khi người khác chạm vào những cây đàn của mình. Chàng nhìn ra chỗ khác và tập trung thưởng thức trà đã dọn ra.
Không cần xin phép chàng, tay buôn đồ cổ gảy lần lượt cả bảy dây đàn rồi bắt đầu chơi nhạc. Sau đó y hét lên:
- Tinh khiết! Sâu thẳm! Quả là đặc biệt. Thẩm Phong, cậu làm đàn còn giỏi hơn cả sư phụ của cậu đó!
Chàng trai trẻ nhấp một ngụm trà, không trả lời. Lưu Bé Bự cũng nâng chén, suy nghĩ một chốc rồi nói, giọng thương xót:
- Ông thợ đàn già nua khỏe không? Đã lâu rồi không thấy vào thành. Hay là lão ấy bệnh rồi?
- Sư phụ tôi vẫn khỏe, cảm ơn ông quan tâm.
- Thẩm Phong à, ta là bạn với sư phụ cậu từ lâu rồi, ta biết lão ấy từ
triều trước kìa. Đừng có dối ta. Sao dạo gần đây đàn toàn do tay cậu làm cả chứ? Sư phụ cậu đâu? Lão bận đàm đạo với thầy pháp cả rồi sao?
- Ít có người đặt làm đàn. Tôi làm là đủ.
Lưu Bé Bự cười gian xảo.
- Ta đã nói với sư phụ của cậu rồi mà! Mà lão có nghe ta đâu kia chứ! Ở
phương Bắc, các vương triều man rợ chém giết nhau mãi. Còn ở đây, xứ
mình thì nội chiến tàn khốc quá. Hai bên dòng Dương Tử giờ chiến tranh
kinh hoàng làm hỏng hết lỗ tai và bóp nghẹt hết tâm hồn rồi. Quý tộc
chẳng còn dạy dỗ lũ trẻ nữa, còn người nghèo thì chết đói hay tòng quân
cả rồi. Chả còn ai ham học đàn, học nhạc nữa. Trước đây, ta đón những
văn nhân thi khách thượng hạng của xứ Trung Nguyên. Giờ thì chỉ có đám
tiện dân hầu bao đầy vàng ngọc là lui tới chỗ ta thôi. Chúng nó mua hàng rồi chẳng quay lại nữa. Vì ngay sau đó chúng bị chém đầu cả rồi! Chẳng
còn nhiều người đặt hàng nữa âu cũng là lẽ đương nhiên. Thiên hạ lầm
than quá, lầm than quá. Thẩm Phong, cậu nghĩ gì vậy?
Chàng không nghĩ gì và cũng không bàn tán gì. Thiên hạ lầm than cũng như đôi giày
cũ kĩ làm từ lông cừu mà chàng đi ngoài đường sá, cũng chẳng khác gì
tình trạng của chàng. Chàng định đi nhưng tay buôn đồ cổ giữ chàng lại:
- Trước khi đi, hãy nghe ta nói. Sư phụ cậu già rồi. Kệ lão ấy nếu lão
chẳng nghe ta nói. Còn cậu, cậu còn trẻ, cậu phải nghĩ tới tương lai của mình. Há chẳng phải cậu muốn lấy một cô vợ xinh đẹp, sinh hạ cho cậu
con đàn cháu đống sao? Cuộc đời chốn sơn lâm mãi võ chả hấp dẫn gì những cô gái đâu. Rồi để ăn no mặc ấm thì cần phải có tiền. Phải trả tiền cho hết bà mai rồi tới gia quyến nữa. Không có tiền, cậu chỉ lấy được hạng
đui què mẻ sứt hay điên điên khùng khùng thôi… Hoặc là không bao giờ
cưới được vợ, vì giá phụ nữ tăng lên qua từng cuộc chiến tranh…
Ánh mắt chòng chọc của Lưu Bé Bự làm chàng đỏ mặt đến tận mang tai. Thẩm
Phong có cảm giác Lưu Bé Bự đọc được từng giấc mơ ban đêm của chàng.
Chàng nhấp thêm trà để xóa nỗi hoang mang. Nhưng giọng nói của tay buôn
đồ cổ lại vang lên:
- Thời nay chẳng mấy ai biết nghe nhạc. Nghệ thuật chơi đàn cổ cầm tiêu biến rồi mà cái vinh dự có được một cây đàn
thì vẫn còn. Những quan lại mới nổi và quan lại triều đình vốn ngày xưa
chỉ là những kẻ hèn mạt, những ông hoàng này ngày xưa chổng mông cặm cụi ngoài đồng giờ lại đâm ra mê những đồ cổ còn sót lại qua nhiều cuộc
chiến. Kẻ nào cũng mơ có được một cây đàn cổ cầm cổ trên bàn để ra vẻ
quý phái và có học. Khi chúng mua đàn, chúng thích tán dương lẫn nhau.
Vì chỉ có những kẻ giàu có và uy quyền nhất mới mua được đàn đắt nhất.
Cách đây tám tháng, ta bán được một cây từ thời Tam Quốc mà theo truyền
thuyết là cây đàn của tướng quân Chu Du nhà Đông Ngô. Cậu đoán giá chót
xem bao nhiêu…
Khuôn mặt Lưu Bé Bự nhăn lại như bông hoa lài. Y ghé sát tai Thẩm Phong thì thầm:
- Không ít hơn một trăm lượng vàng ròng.
Lưu Bé Bự đứng dậy, đi ra phía sau tấm màn gió có bức vẽ thư pháp tuyệt đẹp khảm xà cừ, rồi đi ra với một hòm gỗ thếp màu tím có hoa bằng vàng
trong tay. Y quỳ gối, cẩn thận đặt nó lên thảm, lấy đai chìa khóa trên
thắt lưng rồi chọn một chiếc mở cái khóa. Y nhấc một vật được quấn nhiều lớp vải lên. Y nhẹ nhàng tháo băng vải, để lộ ra một cái bao tre hơi tã rồi lôi ra một cây đàn đầy cát có một góc đã hỏng.
- Một kỳ
quan chứ hả? Đích thị là vậy! Này, chạm vào nó xem! – Lưu Bé Bự vừa nói
the thé vừa đặt nó lên đầu gối của chàng thợ đàn trẻ.
Thẩm Phong thổi bụi trên mặt đàn rồi nâng vạt áo chùi từng chút. Thoạt nhìn, chàng nhận thấy đó là một cây đàn có nước sơn cũ lắm rồi, mang trên mình
những vết rạn hình vảy cá. Chàng đem nó ra ánh sáng rồi quay ngược nó
lại. Bên dưới, một cái tên được khắc theo kiểu khắc trên trống vàng đã
bị phai đi nhiều. Duỗi thẳng tay cầm, chàng ngắm nghía nó ở xa một chút. Dù nhạc cụ đã được đẽo theo kiểu phổ thông nhất dưới thời Hán, nó vẫn
không có được vẻ thanh thoát vốn có của thời ấy. Chàng trả nó lại cho
Lưu Bé Bự mà không nói lời nào.
- Nhìn nó lần nữa đi. Chẳng thể
ngắm được vẻ đẹp nào tương tự nó đâu. Nó là kỳ phẩm thời nhà Hán vinh
hiển đó. Thật kỳ diệu, nó đã thoát khỏi những bộ tộc dã man cướp phá và
sống sót qua chiến tranh! Cậu có biết nó thuộc về ai không? Thuộc về
nàng Sái Văn Cơ, tác giả của Bi phẫn thi và Hồ già thập bát phách. Cậu
không muốn thử âm thanh của nó hay sao? Cậu có muốn lên dây ngay tại chỗ không?
- Không. Không cần. – Thẩm Phong trả lời. – Cây đàn cổ
cầm thời Hán giả sẽ tạo ra những âm thanh đục ngầu: nó dùng để trang
hoàng bàn ăn hoặc để treo trên tường, không dành cho nghệ sĩ. Cảm ơn vì
chén trà. Xin phép ông cho tôi được đi.
Khuôn mặt của tay buôn đồ cổ méo xệch. Y hết nhìn cây đàn rồi nhìn chàng thợ đàn trẻ tuổi. Bất thình lình, y bật cười.
- Được. Được lắm. Nó là đồ giả đó! Ta muốn thử mắt cậu thôi! Sư phụ của
cậu nói với ta, lão đang nuôi dạy một thiên tài. Ta nghĩ lão bốc phét.
Nhưng lão đã không dối ta! Thẩm Phong, ta cần cậu và cậu cần ta. Ta muốn cậu làm cho ta một cây đàn theo kiểu thời nhà Hán sao cho người ta
không bao giờ nghi ngờ nó là đồ giả. Ta sẽ cho cậu một phần tư tài sản
của ta.
Thẩm Phong nghiêng người lần nữa rồi đứng dậy.
- Xin thứ lỗi. Tôi phải đi.
Tay buôn đồ cổ nhảy phóc dậy, mặc dù y rất nặng nề, rồi biến mất sau tấm màn gió trước khi nhanh chóng trở lại.
- Hãy cầm lấy, một món quà. Cuốn Hồ già thập bát phách. Cẩn thận, nó đã
được sao chép từ bản viết tay ở thư khố triều đình Đông Ngô. Trong số
những phiên bản còn tồn tại, nó nổi tiếng là trung thành nhất với bản
gốc.
Thẩm Phong muốn từ chối nhưng tay chàng đưa ra nhận cuốn
sách dù không hề muốn. Chàng gần như giật nó từ tay gã buôn đồ cổ rồi
cúi người thật thấp.
- Không cần cảm ơn, – Lưu Bé Bự hoan hỉ nói. – Hãy nghĩ tới đề nghị của ta. Chúng ta sẽ kiếm được rất nhiều tiền đó!
Nhìn chằm chằm khuôn mặt của người thợ đàn trẻ tuổi, y hớn hở nói đến bắn cả nước bọt:
- Con gái của nhà thơ vĩ đại Sái Ung là nàng Sái Văn Cơ từng bị người du
mục bắt. Trong mười hai năm, nàng đã sống trong gió phương Bắc, giữa
ngựa và cừu, nàng đã viết mười tám điệu phách cho đàn cổ cầm để thể hiện nỗi buồn và thương nhớ quê nhà. Nàng đã được Tào Tháo chuộc lại bằng
một xe chở đầy vàng ngọc, châu báu cho người man di. Theo thiển ý của
ta, một cây đàn nàng từng chơi chắc sẽ có giá ít nhất là hai trăm lượng
vàng ròng. Được rồi… ta có một vụ hay hơn… Khi nàng Sái Văn Cơ trở về
Trung Nguyên, nàng đã tặng cây đàn của nàng cho Tào Thực, là con thứ hai của Tào Tháo. Cũng là một nhà thơ nổi tiếng giống cha là Tào Tháo, Tào
Thực bị anh mình là Tào Phi giết vì ghen tài. Tào Phi soán ngôi, lật đổ
triều Hán, lập triều Tào Ngụy. Sau đó, cây đàn này đã thuộc về bộ sưu
tập của các hoàng đế. Nhưng hỡi ôi, trong cuộc chinh phạt cuối cùng của
người man di, nó đã bị một con hầu trong triều cướp mất rồi trốn thoát
khi triều đình vượt sông Dương Tử. Một trăm năm sau, ta, nhà buôn đồ cổ
họ Lưu, tìm được nó trong nhà một người nông dân. Sao ta lại nói nó
thuộc về nàng Sái Văn Cơ ư? Nghe này Thẩm Phong và ghi nhớ trong lòng
cậu, bởi vì trên lưng nó được khắc tên là…
Lưu Bé Bự ngừng lại, đằng hắng rồi vừa phủi phủi tay vừa nói tiếp:
- “Đàn du mục”! Cây đàn nào cùng tên, ta sẽ bán ba trăm lượng vàng! Nói
xem, ta phải để dành một phần tư số tiền kiếm được cho kẻ môi giới, rồi
ta đưa cậu một phần tư trong khoản còn lại, cậu sẽ có nhiều tiền vàng
lắm đó. Lấy đó mà mua một ngôi nhà trong thành cho cậu và sư phụ của
cậu, hầu gái và nô bộc sẽ vây quanh cậu, rồi cậu sẽ có một đám cưới đẹp
như mơ.
Thẩm Phong ngập ngừng một thoáng rồi trả cuốn sách lại cho tay buôn đồ cổ.
- Tôi không thể. Sư phụ và tôi không phải là kẻ làm đồ giả. Chúng tôi không giữ được thanh danh nếu làm như vậy.
Một nụ cười nhếch mép hiện trên khuôn mặt của tay buôn đồ cổ nhưng y vẫn tiếp tục cười nói.
- Giữ cuốn sách đi. Cậu làm vậy khác gì sỉ nhục ta! Thậm chí, nếu cậu
không làm cây đàn cho ta, thì hãy cứ giữ món quà này! Vì âm nhạc.
Tới cửa, y đưa tay phải lên che miệng rồi thì thầm:
- Đừng nói với ai nhé! Bí mật đấy. Đi đi, về nhanh lên. Đừng có ngớ ngẩn. Cậu đang ở tuổi lập thất. Sư phụ cậu sẽ rất vui nếu có cháu chắt đó!
Hai cô hầu trẻ cúi người nâng rèm cửa, tươi cười:
- Kính chào đại nhân!
Thẩm Phong đi xuống đường, Lưu Bé Bự đi theo.
- Bí mật là ở chỗ: Cổ nhân đã không ghi chú trong kinh thư nhà Hán hình
dáng và những điểm đặc biệt của những cây đàn thuộc về nàng Sái Văn Cơ.
Tùy cậu đấy…
Thẩm Phong đi giữa đường, giữa những tiếng ồn ào.
Chàng sờ ngực mình. Cuốn sách nhạc vẫn ở đó, dính chặt vào ngực chàng.
Như thể nó đánh thức chàng ra khỏi một giấc mơ hỗn loạn và không màu
sắc; một cảm giác lạ lùng, sung sướng lẫn buồn bã, ghê tởm lẫn hy vọng
choàng lấy chàng.
Những giọng nói lảo đảo, tung vào nhau, văng
tục và đáp trả nhau. Những con buôn nay đây mai đó hết lời ca ngợi điều
kỳ diệu ở những nồi niêu, xoong chảo, hũ lọ, vải vóc, đồ ăn thức uống,
rồi thổi cả ống sáo để gây sự chú ý của khách. Những người bán hàng thuê những đứa trẻ con giọng còn thanh để chèo kéo người qua đường. Các nhà
sư hành hương đi ngang qua thành thì gõ gõ chuông đồng. Ở một góc ngã
tư, người làm xiếc nhào lộn theo nhịp trống hoặc đấu kiếm với nhau trong khi những đứa trẻ đánh cồng bằng đồng và xướng to công dụng của các
loại thảo dược làm người chết bỗng sống lại và làm kẻ bất lực bỗng trở
nên mạnh mẽ trên giường. Tất cả những âm thanh đó nhét đầy tai chàng.
Như những trái chín bị một bàn tay vô hình vò nát, những âm thanh đó
biến thành một ngụm rượu nhỏ thơm nồng.
Thẩm Phong không quen cô gái nào cả. Ở vùng núi Bắc, trong làng, phụ nữ giống hệt đàn ông. Họ
còn mạnh khỏe hơn đàn ông, ngày ngày địu con trên lưng đi làm ruộng. Họ
cắt tiết thỏ rừng và vặt lông gà lôi trước cửa nhà giữa một vũng máu
tươi. Khi gặp mâu thuẫn với hàng xóm, họ phỉ báng nhau rồi ẩu đả. Khi
đàn ông bị ngã xuống vực hay bị hổ báo tấn công, cũng chính họ sẽ cầm
lấy cung tên và rìu. Những góa phụ có thể đi săn, đẽo gỗ, đi vào thành
bán rau quả và thịt thú rừng săn được.
Cậu bé chơi với lũ con
gái trong làng, thi xem ai tè xa nhất. Điểm khác biệt duy nhất là con
trai có thể vẽ trên tường còn con gái chỉ được vẽ dưới đất. Từ mùa xuân
đến những ngày cuối thu, cả làng giặt giũ và tắm táp dưới thác nước lớn. Những phụ nữ trần truồng mang hai bầu vú trước ngực, còn đàn ông có tới ba, nằm giữa hai chân.
Gần đây, chàng thợ đàn cảm thấy có chút
buồn rầu vì một cảm giác lạ làm chàng bồn chồn mỗi khi chàng ở quá lâu
trong làng dưới sự trông coi của sư phụ già nua. Ngay khi có thể là
chàng nhảy vào thành, lòng tràn ngập niềm vui. Khi đã ở trong phố, bơi
giữa đám người thành thị, chàng nhận ra rằng, sự phấn khích và chen lấn
không thể nào cầm được cơn khát của chàng. Ngược lại, chúng còn làm
chàng thèm khát hơn trong sự chờ đợi một cái gì không thể gọi tên và
chưa từng biết.
Gió thổi vào mũi chàng một mùi hương dìu dịu. Đó không phải là mùi phấn hoa, cũng không phải mùi trái chín. Chàng nhìn
quanh và phát hiện thấy một người xuất hiện. Nàng cưỡi lừa và có hai con hầu nhỏ mang đồ đạc theo hộ tống. Khoác áo gấm thêu hình bướm và mặc áo vải màu thiên thanh, nàng đội trên đầu một cái nón rơm thật lớn. Một
tấm khăn voan dài bằng vải trong và mịn màu trắng che khuôn mặt nàng để
làm mờ các nét trên khuôn mặt. Khi nàng đi ngang qua ánh nắng, khuôn mặt nàng chợt sáng bừng lên, để lộ cái mũi thon, cái miệng tròn trĩnh, cái
cổ cao duyên dáng nghiêng về phía trước.
Chàng thợ đàn trẻ tuổi
nhìn theo nàng không chớp mắt. Nàng nhúc nhích một chút trên lưng lừa.
Nhanh như cắt nàng nhảy lên, nhảy xuống. Theo từng chuyển động nhịp
nhàng của cơ thể, hai tay áo của nàng rung rung để lộ ra nhiều lớp áo
bên trong, dưới lớp áo khoác ngoài. Thẩm Phong bước vội, vượt qua nàng,
rồi quay lại để nhìn được rõ hơn. Nàng đi vào chỗ có bóng râm. Khuôn mặt nàng biến mất sau những nếp nhăn của tấm khăn voan. Nhưng chàng có cảm
giác sau tấm voan trắng mờ, nàng đang nhìn chàng sâu thẳm và thì thầm
với chàng: “Phụ nữ.”
Phụ nữ!
Chàng đỏ mặt quay đi và hòa lẫn vào đám đông. Thấp thoáng sau rừng những bờ vai và mũ nón, chàng
thấy nàng đi xa. Nàng cũng đi vào giữa con đường. Trong ánh nắng, bóng
nàng như phồng lên rồi biến mất trong một thế giới không bao giờ có thể
tới gần được.
Đó là một kiều khách đang đến một buổi dạ tiệc.
Tiệm Lỗ Tứ nép mình bên tháp chuông. Ở cửa ra vào, một con khỉ ngồi bắt chấy cho một con chó. Bên dưới lồng chim, một con mèo nâu duỗi người, kêu
meo meo, xù lông khi Thẩm Phong đi ngang qua nó.
Lỗ Tứ là thương nhân bán nhạc cụ, gốc gác thuộc một bộ tộc phương Nam. Tổ tiên của ông
ta không phải quý tộc gốc nhưng họ đã thành quý tộc khi làm quân sư ở
sân Rồng nhà Đông Ngô thời Tam Quốc. Khi Tào Ngụy thâu tóm Đông Ngô sau
tám mươi năm liên miên chiến tranh, gia đình Lỗ Tứ mất hết gia sản nhưng chuyện dòng họ này ai ai cũng biết. Từ đó, dòng họ Lỗ Tứ không còn nắm
quyền hành nữa. Tuy nhiên, họ vẫn giữ mối quan hệ giao hảo với những
quan lại mới, nhờ vào tiếng thơm của dòng họ mình.
Là người hoạt bát và nhiệt tình, ông ta có thể kể lại chuyện đời xưa của tất cả các
triều đình đã đóng đô ở bờ Nam sông Dương Tử. Tài năng diễn thuyết của
ông ta và kiến thức lịch sử về bờ Nam nuôi sống ông ta. Để bán được các
nhạc cụ, ông ta tới nhà khách hàng, làm các cuộc tiệc tùng sôi nổi hẳn
lên nhờ vào những lời đối đáp khôn khéo của mình. Ông ta kể hết những âm mưu của các hoàng thân đến những cuộc liên minh và chia rẽ giữa các
quan lại thời chiến. Phe phẩy cây chổi phủi bụi bằng lông cứng, ông ta
có thể mô tả những âm mưu, những phi vụ trong cấm cung và sự leo thang
quân sự. Câu chuyện hay nhất của ông ta là về trận thủy chiến Xích Bích
mà tổ tiên ông ta đã tham chiến. Mua nhạc cụ của Lỗ Tứ, tức là có được
những linh hồn, những vương quốc đã mất. Thẩm Phong lên cầu thang. Những cánh cửa trượt mở rộng và cửa nhỏ bằng vải màu đã vén lên. Bên trong,
trên một tấm sàn bằng gỗ đỏ, một vài nhạc cụ đặt trên những chiếc bàn
thấp có chân được uốn cong mảnh khảnh. Một chiếc bình cao cắm một bông
lan vàng trước một bức tranh phong cảnh.
Thẩm Phong đánh nhẹ
chuông rồi ngồi bên bậc thềm. Dù Lỗ Tứ không có gốc gác là người thượng
lưu ở Trung Nguyên và ông ta là con cái một người vô danh tiểu tốt được
nhận làm quý tộc nhưng ông ta rất tự hào về thứ bậc được đức vua của
vương quốc hiếu chiến Đông Ngô phong cho và rất ghét bị những kẻ bình
dân xem như ngang hàng. Ông ta luôn bắt những người thợ đàn phải chờ ở
cửa. Ở cuối phòng, một vách tường nhúc nhích và một bóng người cao cao
dần hiện ra. Để thể hiện sự quý phái của mình, khuôn mặt Lỗ Tứ được đánh phấn trắng và đôi mắt viền đen. Bận một chiếc áo dày có tay áo rộng,
ông ta di chuyển như đang bay. Ông ta cầm một cái que bằng ngọc thạch
trắng đính lông chim cứng. Đó là cái chổi phủi bụi, vật đi liền với giới quý tộc.
Thẩm Phong vái chào.
Giọng trầm trầm của Lỗ Tứ vang lên:
- Đứng dậy đi, Thẩm Phong. Đàn của cậu đâu?
Chàng đặt nó ở lối vào phòng rồi lui lại ngồi trên bệ cửa.
- Tên gì?
- “Sóng cuộn”.
Lỗ Tứ cầm lấy nhạc cụ rồi đặt nó lên chiếc bàn thấp. Ông ta lấy nó ra khỏi bọc rồi lên dây. Một thứ âm nhạc chầm chậm và duyên dáng cất lên.
- Âm thanh mềm và âm vang khá tinh tế. Nốt cao chìm trong nốt trầm như
bóng con chim mòng trắng lướt đi trên sóng nâu. Đẹp. Rất đẹp… Nhưng…
Giọng Lỗ Tứ xoay vòng trong không khí. Gảy một dây đàn, ông ta thở dài, nói như đang ngâm thơ:
- Bên bờ Bắc dòng Dương Tử, ở nước Chu, con gái Dương Kiên, một tướng
quân gốc Hán, phải làm hậu cho các tộc man di. Ông ta đã thay đổi di
chúc của hoàng thượng lúc băng hà và tự xưng là nhiếp chính sau khi đã
đưa cháu trai mình lên ngôi. Năm hoàng tử, anh em của đức vua băng hà,
gây chiến chống Dương Kiên để trục xuất ông ta khỏi triều đình. Nhưng
Dương Kiên được sự hỗ trợ của vợ là con gái một tướng lĩnh của tộc người Độc Cô nổi tiếng gốc man di, há chẳng phải ông ta gây ra cuộc chiến một chống năm này để thống trị toàn bộ vương triều nhà Chu đó sao? Nếu năm
hoàng tử thắng, họ sẽ tước ngôi của cháu trai Dương Kiên, và một trong
năm sẽ được thay thế trở thành hoàng đế. Dương Kiên, một mưu lược gia
tài ba và một chiến binh hung tàn đã cao cờ nhìn năm hoàng tử huynh đệ
tương tàn. Ông ta vừa đấu với họ vừa để họ tiêu diệt lẫn nhau. Cuối cùng Dương Kiên thắng cuộc, soán ngôi cháu trai và lập ra nhà Tùy. Khi đã là quân vương, ông ta nuôi mộng đánh chiếm miền Nam để thống nhất Trung
Hoa. Ta, Lỗ Tứ, tổ tiên của ta đã uống nước dòng Dương Tử này trước khi
người Hán đến, ta phải bảo vệ phương Nam độc lập. Ta sẽ không đi về
phương Bắc để bán nhạc cụ nữa, ở đó trộm cướp đang hoành hành…
Lỗ Tứ đứng dậy, đi qua phòng tiếp khách, biến mất sau bức tường tranh rồi trở lại.
- Ở phương Nam, nhà Trần đang suy yếu. Hoàng đế của chúng ta chểnh mảng
việc nước mà say đắm trong những trò nhục dục thể xác. Ông ta soạn nhạc
để chuộc lỗi với đám tỳ thiếp. Ông ta cho họ vào một dàn nhạc mà ông ta
điều khiển để họ học tình bằng hữu và sự hòa hợp. Con trăng vừa rồi, dàn nhạc gồm hàng nghìn kiều nữ đã hát một bài ca do ông ta soạn. Họ vừa
mới đặt ta thêm hai trăm cây tỳ bà, ba trăm cây sáo, năm trăm trống con
và năm trăm trống cái. Cung điện không còn quan tâm đến đàn cổ cầm đơn
tấu. Cậu phải đổi nghề thôi. Ta cần nhiều thợ làm tỳ bà. Cầm lấy, Thẩm
Phong, cầm lấy khoản tiền này. Ta biết rằng nếu ta từ chối mua đàn của
cậu, ông lão sư phụ và cậu sẽ không có gì để ăn, rồi xương cốt của sư
phụ cậu sẽ không sống nổi. Nhưng hãy nhớ rằng, ta không có thời gian để
tìm người bán cây đàn của cậu đâu.
Lỗ Tứ ngừng lại, một nụ cười cay đắng hiện trên khuôn mặt ông ta.
- Đàn cổ cầm là cội nguồn của âm nhạc, là niềm khoái lạc của đại trượng
phu. Những năm trước, ta đi với khách hàng cả chục bận để bán từng cây
đàn một, ta ngồi với họ, bàn luận, giải thích, hướng dẫn họ hiểu cái bí
mật của loài phượng hoàng bằng cách cho họ những bài học cụ thể. Không
có kẻ nào làm khác được tất cả những điều đó. Nếu như có, ta đã không có tiếng tăm như bây giờ. Giờ ta phải lo thuận theo thiên triều, nếu
không, ta sẽ bị mất cái đầu đang nằm trên cổ này. Hãy đến gặp ta sau
mười hai con trăng nữa. Có thể từ giờ tới lúc đó ta có một lời đặt hàng
cho cậu chăng.
Thẩm Phong sững sờ cầm lấy món tiền ông ta đưa
cho mình mà không nói lời nào. Lỗ Tứ là một nhà buôn tử tế. Nhưng vào
thời điểm này, Thẩm Phong muốn nghe ông ta nói dối hơn là nói sự thật.
Chàng vừa lui ra vừa nhìn cây đàn Sóng cuộn lần cuối cùng. Trên chiếc
bàn thấp, hình dáng thanh mảnh của nó lóe sáng. Nó có dáng thanh thoát
và vẻ bình thản vững vàng. Chàng đã mất hai năm để xử lý gỗ, rồi thêm
sáu tháng để đục đẽo thân đàn. Chàng đã nâng niu nó, vuốt ve nó, đánh
sơn cho nó. Chàng đã cho nó một hình hài và mang cho sự im lặng của nó
một tiếng nói. Nó cũng có những đòi hỏi của mình, nó bắt chàng phải trau chuốt từng đường nét và bo gọn những đường cong. Âm thanh của nó thay
đổi dần, nó trốn chàng, hờn dỗi chàng, làm chàng bất ngờ. Nhưng thái độ
của nó lúc nào cũng đúng mực. Nó đã dẫn chàng ngày này sang ngày khác
vào bên trong trái tim nó, nơi nó hé mở cho chàng xem từng thớ từng vân
gỗ cùng tất cả những gì hoàn hảo và chưa hoàn hảo trong âm thanh của nó. Mùi thơm của nó thay đổi. Nó lần lượt có mùi gỗ, mùi các dụng cụ, mùi
keo, mùi sơn, mùi mồ hôi, mùi từng cơn mưa… cho đến tận khi nó thức dậy
trong mùi thơm của cuộc sống. Đó là lúc nó và chàng phải xa nhau.
Thẩm Phong cúi lạy rồi nhấc gối cáo lui. Lỗ Tứ khẽ gật đầu chào chàng. Nhà
buôn nhạc cụ không biết rằng cái lạy chào tôn kính đó của chàng là dành
cho cây đàn Sóng cuộn mà chàng phải chia tay vĩnh viễn. Thẩm Phong đứng
dậy rồi đi xuống cầu thang. Con khỉ nắm lấy bụng chàng làm chàng nhăn
mặt vì đau. Chàng hít thật sâu, đi ngang qua sân rồi đi như chạy ra
đường.
Chàng nhìn trời. Mặt trời đang đúng Ngọ. Theo thói quen,
khi vào thành và bán được cây đàn cho Lỗ Tứ, chàng sẽ gặp Chu Bảo và
nhóm bạn ở quán Vượng Phong. Chàng nhảy múa, gọi bò nấu tiêu và uống
rượu với họ. Lúc tính tiền, nhóm của Chu Bảo sẽ không bao giờ trả tiền.
Thẩm Phong hoan hỉ ném tiền của mình lên bàn. Những đồng tiền bằng đồng
nảy lên, chạy vòng vòng, kêu leng keng: chúng chơi bản nhạc của thế giới vật chất.
Thẩm Phong đi ra giữa đường, tay siết túi bạc. Tiền
kiếm được không đủ để sư phụ và chàng sống qua mười hai con trăng để
quay lại nếu chàng ghé quán Vượng Phong. Chàng đặt túi bạc trong một nếp gấp trong đai quần. Bụng chàng cồn cào nhưng cổ họng nghẹn ngào đến mức chàng không muốn ăn uống gì. Chàng nhớ tới một quầy xe kéo bán một đồng ba chén rượu. Chàng đi tìm chiếc xe đó.
Nếu Lỗ Tứ không có thời gian để tìm khách bán cây đàn cổ cầm, chàng sẽ phải tìm một nhà buôn
khác. Ở phía đông, có một dãy những cửa hiệu san sát nhau dựa lưng vào
thành. Đó là cửa tiệm của những gia đình làm nhạc cụ, cho thuê và bán,
đồng thời cung cấp các nhóm nhạc công cho đám cưới và đám ma. Dù Thẩm
Phong đã cố gắng thuyết phục nhưng họ không quan tâm đến đàn cổ cầm. Ai
lại muốn mua một nhạc cụ chỉ để chơi và cảm thụ một mình, giai điệu chậm chạp và âm thanh buồn tủi không ăn nhập gì với không khí của lễ tiệc
kia chứ? Tìm những thi nhân và gõ cửa nhà họ ư? Thẩm Phong không phải là kẻ lắm mồm. Chàng không thể gần gũi với những người lạ mặt rồi trở
thành bạn của họ chỉ sau một chén rượu được. Tìm ra một góc chợ, trải
chiếu xuống đất và bán đàn như người ta bán rau, bán thịt ư? Đó sẽ là
điều tồi tệ nhất với một người thợ đàn.
Tuy nhiên, danh dự không nuôi sống được cái miệng và chàng phải tìm ra cách để mang tiền về làng.
Chàng thấy sư phụ đang mang một cây đàn trên lưng, tất tả đi phía trước. Vốn
là một đứa trẻ gầy gò, chàng phải chạy và nhảy để theo kịp ông. Vào lúc
đó, triều nhà Lương vẫn chưa bị lật đổ, chưa bị nhà Trần thay thế. Sư
phụ và chàng sống ở kinh đô Kiến Khang. Mặc quần là áo lượt, họ có thể
đi băng qua những bức tường bao quanh khu phố của các tổng đốc và thư
lại triều đình. Họ đến chầu trước cổng sơn son thếp bạc có lính tráng
canh gác. Những nô lệ ra gặp họ, dẫn họ vào trong và mời lên những bậc
thang, nơi họ có thể ngồi trước cửa vào và chào những vị đại nhân từ xa. Sư phụ chàng rút cây đàn cổ cầm ra khỏi bao, chơi một bản và đưa cây
đàn cho viên quản gia mang vào phòng tiếp khách. Sau một hồi im lặng,
tới lượt các đại nhân và phu nhân gảy đàn.
Ở thành Kiến Khang,
sau khi bán được đàn, sư phụ chàng đi tới nhà Hoa, lên lầu với một bé
gái để dạy nó đàn và chỉ xuống lầu lúc đêm xuống. Để trả công Thẩm Phong chờ ở cửa, ông dẫn chàng tới quán ăn, gọi một đĩa thịnh soạn và giục
chàng uống rượu. Thẩm Phong đã quen với rượu từ nhỏ như vậy. Mỗi lần dạy học cho cô bé kia xong, sư phụ hết sức vui vẻ. Những nếp nhăn trên
khuôn mặt ông bị xóa đi, còn hai gò má thì đỏ hồng. Ông kể hết chuyện
này đến chuyện khác để làm Thẩm Phong vui trong khi chàng thì ngáp lên
ngáp xuống:
“Ngày xưa có đức Phục Hy. Vừa sinh ra đã lớn nhanh
như thổi rồi một ngày nọ trở thành khổng lồ với đầu người và thân rồng.
Ông nhận ra xung quanh mình, người ta toàn ăn vận da thú và uống máu để
sống. Ông dạy họ kiếm lửa và không ăn thịt sống nữa. Bắt chước cái mạng
nhện, ông làm thành lưới để bắt cá. Quan sát các vì sao và thưởng ngoạn
mặt đất, ông vẽ ra bát quái để thiên hạ có thể mô tả công việc hằng ngày và mô tả thời gian trôi. Một ngày nọ, đang đi dạo trong núi, Phục Hy
thấy mây ngũ sắc trên trời bay xuống. Nheo mắt lại, ông thấy giữa ánh
sáng chói lòa hai con chim khổng lồ đuôi dài lấp lánh bay ra. Ông nhận
ra đó là hai con phượng hoàng. Cặp đôi đậu lên cành cây rồi ngay lập tức tất cả các loài chim khác bay từ nhiều vùng khác nhau đến hót vang. Khi cặp phượng hoàng bay đi, Phục Hy đốn gục cái cây mà lúc nãy cặp chim
đậu, chọn một khúc gỗ có tiếng không quá trầm, cũng không quá bổng, ngâm khúc gỗ bảy mươi hai ngày dưới sông, sau đó phơi khô và biến nó thành
một nhạc cụ phát ra đúng tiếng con chim phượng hoàng. Ông nghe tiếng gió từ tám hướng và tạo ra tám nốt trong nhạc lý. Ông gọi mọi người đến và
nói: “Ta đã đục đẽo khúc gỗ này và biến nó thành một cây đàn cổ cầm. Đàn dài ba xích, sáu thốn, năm phân [1], ứng với ba trăm sáu mươi lăm ngày
trong năm, rộng sáu thốn [2] tượng trưng cho Trời, Đất, Nam, Bắc, Đông,
Tây, sáu góc của thiên hạ. Mặt đàn tròn như vòm trời, còn đáy phẳng như
mặt đất. Phần bên trái rộng tượng trưng cho Hồ, phần bên phải hẹp tượng
trưng cho Suối. Hồ rộng tám thốn, vì nó chứa tám ngọn gió trong trời
đất. Suối dài bốn thốn, vì nó ứng với bốn mùa…” Con thấy không, Thẩm
Phong, cây đàn cổ cầm không phải là một nhạc cụ. Nó là vật báu của trời
đất…”
[1] 1,28 m.
[2] 21,48 cm.
Dưới mặt trời
giữa trưa, những con đường chỉ là những chấm đen và vạch trắng. Thẩm
Phong đi lang thang, không biết mình đi đâu mà giọng sư phụ thì ám lấy
chàng: “Đàn cổ cầm được Phục Hy tạo ra để phân biệt con người với thú
vật. Khi luyện các điệu, quy tắc hít thở và làm chủ cảm xúc, con người
vượt lên cao hơn các sinh vật đơn giản khác và đến gần với thánh nhân.
Người làm đàn không phải là người thường. Chúng ta mang một nhiệm vụ
được trời đất ủy thác.”
Thế rồi Hầu Cảnh, một tướng quân bị đày
lên phương Bắc đã phản bội các hoàng đế nhà Lương, những người đã cho
hắn lánh nạn. Khi hoàng đế băng hà vì đói trong tù và triều đình sụp đổ, những ngôi nhà thanh nhã bị thiêu rụi và những người biết chơi đàn cổ
cầm đều biến mất trong khói lửa nội chiến. Nếu con người không còn biết
đến đàn cổ cầm nữa, Thẩm Phong thở dài, điều đó có nghĩa là họ sẽ trở về trạng thái nguyên thủy và sẽ trở lại thành động vật chém giết lẫn nhau
sao? Chàng đang ngẫm nghĩ tới đó thì bị thúc mạnh vào lưng một cú. Chàng rùng mình quay lại.
- Tao có tai mắt khắp nơi… Khi mày vừa đặt chân vào thành tao đã biết và chờ mày ở Vượng Phong…
Chu Bảo thở hổn hển chùi trán bực tức:
- Mày làm gì ở đây? Sao không đến chỗ tụi tao?
Thẩm Phong ấp úng không biết bắt đầu giải thích thế nào. Chu Bảo nói tiếp:
- Các món ăn đã được gọi rồi. Tao nói mọi người bắt đầu ăn đi, còn tao đi tìm mày… Đừng có nói với tao là mày ăn rồi đấy!
Thẩm Phong trả lời chàng chưa ăn.
Chu Bảo kéo tay áo chàng đi.
- Được rồi, vậy đi với tao. Mình đi quán Đồng xanh! Hồi sáng tao thấy có bán cá hồi đó!
Thẹn từ mặt tới tai, Thẩm Phong nói chàng thích một bát xúp hơn.
Chu Bảo đoán:
- Hết tiền rồi hả? Tao mời mày! Đi. Tao cũng muốn nói với mày chuyện này nữa.
Hai mươi năm trước, triều nhà Lương gọi tòng quân mỗi gia đình hai thanh
niên để mở rộng quân đội chống giặc man di phương Bắc, rất ít người trở
về. Chu Bảo lớn lên ngoài đầu đường xó chợ như bao đứa trẻ mồ côi khác.
Trộm cắp, tống tiền, chuyên gây gổ, chúng sống thành băng đảng và lui
tới những kẻ bần cùng trong xã hội. Quán Đồng xanh là hang ổ của chúng.
Những năm đầu tiên, khi Thẩm Phong và sư phụ ở trong núi Bắc, khi họ vào
thành, băng đảng ném đá vào họ ngay khi thấy họ từ xa. Chúng bao vây lấy Thẩm Phong ngay khi người thợ đàn già vào trong nhà Hoa rồi đấm đá
chàng túi bụi. Thẩm Phong đánh trả dữ dội và không thèm xin ân huệ của
bọn chúng. Sự dũng cảm của chàng làm thằng đầu đảng là Chu Bảo thích
thú, rồi khi nó biết Thẩm Phong mồ côi, nó ra sức bảo vệ chàng.
Quán Đồng xanh là một cái lều dựng giữa bốn gốc cây. Vì giờ ăn đã qua nên
quán vắng và chủ quán nằm nghỉ trưa trên sàn ở giữa phòng. Chu Bảo đá
ông ta một cú vào mạng sườn.
- Dậy đi mày, thằng lưu manh già. Cho tụi tao ăn uống!
Người đàn ông lớn tuổi, tóc lem luốc đầy mỡ, nhảy xuống đất, mắt trợn trừng.
- Thằng cha tội nghiệp bị điếc, – Chu Bảo giải thích.
- Chúng tao muốn ăn cá hồi mập và nướng cho ngon! – Nó hét lên.
Tay nó huơ huơ trong không khí vẽ một con cá rồi làm động tác nướng cá.
Người chủ quán gật đầu rồi đi vào trong bếp sau bức rèm.
Chu Bảo dẫn Thẩm Phong qua một cái bàn thấp. Nó nhìn con đường, người qua kẻ lại rồi vuốt vuốt cái cằm lún phún râu thì thầm:
- Mày có nghĩ tới lúc giàu lên không, Thẩm Phong?
- Không.
- Mày chưa bao giờ nghĩ sẽ làm gì với hai rương đầy bạc sao?
- Chưa bao giờ.
- Mày có tưởng tượng một ngày nọ mày không còn đi chân đất nữa, mà là đi
ngựa, không còn ngủ trên rơm thối hoắc nữa mà trên một tấm chiếu thơm
tho, lót bông dày êm ái không? Mày có từng mơ có một túi tiền luôn căng
hơn sau mỗi bữa ăn thịnh soạn?
- Không.
Chu Bảo liếc nhìn chàng.
- Tại sao?
Chàng thợ đàn trẻ tuổi trả lời:
- Những người sinh ra bần hàn như mày và tao sẽ không bao giờ giàu. Chẳng cần phải mơ mộng làm gì. Nếu người ta ham làm giàu, người ta sẽ phải
khổ đau nhiều hơn là nghèo. Nếu người ta không nghĩ tới việc làm giàu,
người ta sẽ không nghĩ là người ta nghèo.
- Vứt mấy cái triết lý dở hơi khốn kiếp đó đi!
Chu Bảo vặn mình.
- Tao sẽ cho mày thấy mày gàn dở!
Biết là mình nói quá to, Chu Bảo đặt tay lên miệng rồi vừa nhìn xuống đường nó vừa nói thật nhỏ, tách từng tiếng một:
- Ngày mai, mày sẽ giàu.
Thẩm Phong bật cười.
- Giải thích nghe xem!
Chu Bảo nháy mắt vẻ ranh mãnh.
- Nếu mày không thích tiền, ít nhất mày sẽ thích được sung sướng. Thẩm
Phong, mày đã từng bao giờ mơ được nằm ườn bên hiên nhà, vợ mày dệt lụa, còn mày cầm tay con trai mày, dạy nó bước đi chưa?
Thẩm Phong nghe những lời của Chu Bảo như bị đấm từng cú vào giữa lồng ngực. Chàng quay ra đường nhìn khách bộ hành.
- Tao đang có việc lo lắng lúc này… Không ích gì mà mơ tưởng. Tao phải tự xoay xở thôi.
- Tao cũng vậy, tao cũng có lo toan, – Chu Bảo nói tiếp. – Nhưng những lo toan của tao mở mắt cho tao và mang lại cho tao cơ hội.
- Cơ hội? Sao mày có được?
- Hê hê.
Chu Bảo gãi gãi râu, cười cười, không trả lời. Sau một thoáng im lặng, nó cũng tiết lộ:
- Một ngôi mộ, tao đã tìm được một ngôi mộ của triều đình trong núi Bắc.
Mình mở ra, lấy châu báu, rồi mình sẽ giàu và sướng… Tất cả sẽ diễn ra
trong đêm nay. Mày thấy sao?
Từ thời Hán, đào mộ là một việc phổ biến. Để trả tiền thuê lính tráng, các viên tướng đào những nấm mộ
triều đình và mộ các công hầu nổi tiếng để thò tay vào những châu báu
chôn theo người chết mong họ sống đầy đủ ở cõi vĩnh hằng. Chính tướng
Tào Tháo đã từng trông coi việc đào những ngôi mộ và coi những báu vật
như chiến lợi phẩm. Theo gương ông, lính tráng đi trộm cướp ở những địa
phương bại trận không bao giờ quên kho tàng dưới lòng đất.
Thẩm Phong cười nhạt.
- Tao nghe nói ở bờ Bắc cũng như bờ Nam dòng Dương Tử, không một ngôi mộ
nào chưa bị đào, thậm chí các hoàng đế đã làm ô uế những ngôi mộ của các triều đình thất trận để lấy tiền xây cung điện mới. Đừng có nghe chuyện người ta kể cho mày.
Chu Bảo ngắt lời:
- Không phải tất cả…
Nó im lặng khi người chủ quán xuất hiện, đặt lên bàn một hũ rượu và hai cái chén mẻ.
- Thẩm Phong, cạn!
Rượu dở xát vào lưỡi chàng thợ đàn trẻ làm cổ họng chàng bị kích thích. Sau
hai chén liên tiếp, đầu óc chàng bắt đầu lênh đênh. Kế bên chàng, Chu
Bảo không ngừng líu ríu:
- Người nghèo chết vui vẻ vì khi chết,
họ đỡ lạnh và đói. Nhưng các ông vua và quý tộc ở trong những ngôi nhà
ấm cúng, nằm trên giường lụa, ăn ngày năm bữa thì sợ bị lạc trong cõi
Bóng đêm. Còn những người lúc sống là thương nhân sẽ kiếm tiền để đút
túi những người canh giữ địa ngục để khỏi bị hành hình, tra tấn. Dường
như người ta tìm được mọi thứ trong một ngôi mộ sung túc: ngũ cốc, dầu
ăn, chiếu gối, quần áo, đồ trang sức, chén đĩa vàng và những rương đầy
bạc.
- Những kẻ đào mộ thường là những người xây mộ, – Thẩm
Phong nói. – Họ cha truyền con nối với nhau. Tùy theo vị trí và hình
dáng của ngôi mộ, họ có thể lần ra những tính toán thiên văn, luật phong thủy và tái tạo mô hình ban đầu do các kiến trúc sư thiết kế theo luật
địa lý. Họ có thể qua được những khúc quanh đường hầm trong lòng đất,
qua được cửa đá gắn đầy vũ khí, cung tên và chất độc để tìm ra vị trí
chính xác của hành lang dẫn đến phòng mai táng chính, nơi cất vàng bạc.
Không có những kiến thức đó, những kẻ đi thử vận may mù quáng sẽ đánh
cược cả tính mạng của mình.
Chu Bảo không thèm nghe.
-
Mày và tao, nếu tụi mình chết, người ta sẽ chôn mình trong một cái chiếu rách rồi ném mình xuống lỗ. Dưới đất, thân thể của tụi mình sẽ phân rã
và hôi thối. Chúng ta sẽ đến vương quốc Bóng đêm, rách rưới, tả tơi.
Nhưng những ông hoàng và bà hậu đã tính trước điều đó. Mộ họ còn to hơn
cả ngọn đồi kìa. Họ dựng bia cao khắc truyện kể về cuộc đời họ: đến xứ
sở người chết, họ muốn được mọi người nhận ra và tôn kính họ. Cơ thể của họ được tắm rửa sạch sẽ, tẩm dầu thơm trước khi đặt vào áo quan. Bụng
họ chứa đầy thảo dược và miệng họ ngậm ngọc trai. Họ đội vương miện vàng và mặc áo bào, nằm trong quách bằng vàng và xung quanh họ là những hòm
đầy vàng bạc, những thứ đó có thể sẽ là của cải của chúng ta: hồ tắm
bằng vàng, đèn thắp hương bằng vàng, giày vàng đính ngọc, kiếm chuôi
vàng nạm hồng ngọc và lục bảo, thắt lưng xích vàng… Bất cứ thứ gì trong
số này đều sẽ cho chúng ta một cuộc đời sung sướng.
Chủ quán ăn quay lại với đĩa cá nướng.
Chu Bảo im lặng một chút, rồi vừa ăn vừa tiếp tục:
- Trước khi chết, tao muốn biết hương vị cuộc đời tươi đẹp: mọi bữa ăn
đều có thịt và có thể mua giày dép cho các con. Mày không muốn vậy sao?
- Thậm chí nếu mày có nói đúng, – chàng thợ đàn trẻ tuổi nói, – mày có
tin là người ta có thể đào mộ triều đình bằng hai cái cuốc và bốn cái
tay? Tướng Hạng Vũ từng muốn đào mồ Hoàng đế Tần Thủy Hoàng. Mười nghìn
quân đã đào ngày đêm, họ chỉ tìm được những bức tượng đất nung, không
phải là phòng của Hoàng đế. Có vẻ như để tránh bị đào mồ, Hoàng đế Tần
Thủy Hoàng đã cho xây dựng một vương quốc dưới lòng đất rộng hàng trăm
lý, còn quách của ông ta làm bằng đá pha lê khối chảy trên một dòng sông thủy ngân. Tất cả những ai vào được phòng Hoàng đế đều bị chết vì nhiễm độc. Lúc sống, các vị vua ngự trị ở Tử Cấm Thành, lúc chết, mồ của họ
đầy cạm bẫy. Khi đẩy những cánh cổng đá, người ta nhận ngay một cơn mưa
mũi tên và những mũi thuốc độc. Người ta bị lọt hố gãy chân hay mất tích trong đường hầm bất chợt sụp đổ. Có những ngôi mộ nằm giữa một túi cát. Khi kẻ trộm mộ trèo xuống mộ, cát trào ra và họ chết ngạt trong cát.
- Mày nghe những chuyện này ở đâu thế? – Chu Bảo hỏi.
Thẩm Phong không trả lời. Chàng cắn một miếng cá hồi rồi lấy một cái xương
ra khỏi miệng. Chàng hứa với sư phụ không bao giờ nhắc tới những người
bạn lang thang trên sông của ông trước mặt người lạ.
Chàng nhớ
khi băng qua một con đường dốc ngược chỉ có sư phụ và chàng biết, họ đi
xuống tới bờ sông Dương Tử. Họ có thể phải chờ nhiều ngày mới thấy bóng
đen của một chiếc thuyền xuất hiện ở đường chân trời. Lúc đó, họ vẫy tay ba lần từ dưới lên cao. Chiếc thuyền tiến lại gần rất nhanh rồi neo
lại. Những ngư dân mời họ leo lên thuyền rồi chia sẻ thức ăn với họ.
Cũng như ông thợ đàn già, những ngư dân này đã sống nhiều cuộc đời. Bị buộc
đi lính, họ đã chiến đấu dưới nhiều màu cờ từ Nam chí Bắc. Khi quân họ
thất trận, để chạy trốn kẻ thù và những toán quân của chính phe họ, họ
phải lánh nạn trên sông Dương Tử. Có kiếm và cung tên của quân lính, họ
tấn công các thuyền buôn, đưa qua lại hai bờ Nam Bắc những vật dụng bị
cấm, trong đó có chiến lợi phẩm của những tay đào mộ.
Giang tặc
trên sông Dương Tử sống bên lề cuộc đời. Với khuôn mặt hốc hác, dáng
đứng thẳng, một vài người trên mặt còn mang con dấu đóng bằng sắt nóng
để làm dấu tù nhân, những người khác lại phô ra trên vai hình xăm nguyên thủy của những bộ tộc du mục. Bị triều đình hai bên bờ Nam – Bắc truy
bắt, họ rất ít khi rời khỏi thuyền và luôn di chuyển theo nhóm. Sư phụ
của chàng chữa bệnh cho họ và ngược lại, những giang tặc trả cho ông
những tấm gỗ lấy từ các quan tài cổ lên.
Một cây đàn hay phải
được làm từ gỗ thông, gỗ chi lai, gỗ sụ ít nhất năm trăm tuổi. Vì các
cuộc chiến tranh liên miên phá hủy các kinh thành và vì những viên quan
mới cho xây nhiều cung điện trên những phế tích của những cung điện cũ,
những cây cổ thụ càng ngày càng hiếm vì chỉ nhũng cây cổ thụ mới có thân lớn thích hợp làm rường cột cao và xà vững chãi. Những thợ đàn quay
sang tìm những quan tài bị cướp trong những ngôi mộ giàu sang, các
hoàng tử và quý tộc cung cấp những tấm gỗ trăm tuổi tốt nhất, không hề bị hủy hoại dưới đất sâu. Nếu người ta cộng tuổi thọ của cây và những năm
tháng quan tài nằm dưới đất lại với nhau thì thợ đàn có được vật liệu
tốt nhất để làm đàn.
Những giang tặc không biết gì về nghề làm
đàn và trêu ghẹo sư phụ chàng. Để làm Thẩm Phong sợ, họ kể cho chàng
nghe những câu chuyện rùng rợn nghe được từ những kẻ đào mộ – phường
đòn. Hai mắt mở to, vểnh tai lên nghe, Thẩm Phong cố nín thở để không
lọt mất từ nào:
“Sau cơn bão đêm khủng khiếp, ông già Lý nghe có tiếng gầm gừ. Ông ta ra khỏi nệm rơm và thấy một vạt vách đá đã đổ sập. Ở đó, một cung điện tối tăm được dựng lên, một gã đàn ông ăn vận giàu
sang nằm giữa những cô gái trẻ. Ông lại gần chào họ. Bất ngờ, cái ghế
gãy vụn và những bộ quần áo rách tươm. Chỉ còn lại một bộ xương khô.
Người chết chắc là một người quan trọng! Người ta đã thờ phụng cả đám tỳ thiếp của ông ta. Những cô gái này bị chôn sống quanh quan tài của ông
ta…”
“Đêm đó, đứa con trai tên Tôn quyết định đi ngang qua nghĩa địa, con đường ngắn nhất để về nhà. Trăng lên cao. Tuyết lấp lánh và
kêu sột soạt dưới chân nó. Cầm con dao trong tay, nó đi vùn vụt ngang
qua những ngôi mộ. Khi nghĩa địa đã ở phía sau lưng, nó thở phào đeo dao vào đai quần. Chỉ còn không xa nữa là tới ngôi làng thì xuất hiện một
rừng dương. Khi đi ngang qua rừng, nó nghe có giọng một cô gái: “Cho em
theo với!… Cho em theo với!” Nó ngước cổ lên. Một cô gái mặc đồ đỏ ngồi
trên cành cây. “Cõng em theo với…” Cô gái van xin. “Cho em theo với, đi
chàng.” Có rất nhiều chó sói trong vùng này và nó nghĩ cô gái sợ đi một
mình trong đêm. Nó cho cô gái xuống đất rồi cõng trên lưng. Nhưng nó cảm thấy sao càng lúc cô gái càng nặng và nó thấy lạnh lưng. Chân nó run
cầm cập còn trán thì vã mồ hôi. Nó quỵ ngã ngay trước lối vào làng. Hôm
sau, người ta thấy nó đã chết trên tuyết, trên lưng cõng một tấm bia mộ
đá…”
Đường về làng quả là nhọc nhằn. Cõng những phiến gỗ quan
tài buộc lại với nhau bằng dây thừng mảnh trên lưng, Thẩm Phong và sư
phụ phải trèo đèo lội suối về làng. Họ bị ngã rồi đứng lên mấy bận.
Người thợ đàn già hò hét Thẩm Phong đừng để bị thương ở tay vì đôi tay
rất quan trọng trong nghề mà họ đang theo đuổi. Vai chàng đã rớm máu.
Những phiến gỗ quá nặng và chàng ngửi thấy mùi thật buồn nôn. Thẩm Phong có cảm giác đang mang trên vai những xác chết và những xác chết này
đang cho chàng thấy cái đau đớn khó tả của người chết…
Bất ngờ, Chu Bảo la lên:
- Vận may của tao ở trong một hang động. Rất dễ mở cửa vào!
Thẩm Phong phớt lờ trả lời:
- Mày có biết là có nhiều mộ giả hơn mộ thật không?
- Lại gần đây, tao kể mày nghe. Mày sẽ thấy là tao có lý.
Chu Bảo kéo Thẩm Phong lại gần khi người chủ quán đem đĩa cá hồi mới lên,
đặt xuống bàn. Nó chờ ông ta ra phía sau tấm rèm rồi thì thầm vào tai
Thẩm Phong:
- Mấy nàng tu sĩ trong chùa Đại Bi có một bí mật.
- Chùa Đại Bi? Tao biết.
Cách thành Kinh Châu không xa, trong núi Bắc, chùa Đại Bi nằm trên đỉnh núi
đối diện nhà Thẩm Phong. Lúc đó nó là đỉnh núi cao, nơi hành hương lễ
Phật dành cho phụ nữ. Họ leo ba nghìn chín trăm chín mươi chín bậc thang để đến được phòng tụng kinh có ba ông Phật là Quá Khứ, Hiện Tại và
Tương Lai. Nhưng sau khi nhà Lương sụp đổ cùng với sự lên ngôi của nhà
Trần, Đạo giáo đã xóa mờ Phật giáo rồi chùa Đại Bi không còn được cúng
dường nữa. Các miếu chùa bắt đầu hư hỏng. Lúc còn nhỏ, Thẩm Phong cùng
lũ trẻ trong làng thường đi hái trộm rau trong vườn của các nữ tu. Khi
họ phát hiện ra, họ cầm chổi tre đánh đuổi dữ tợn và bọn chúng vừa chạy
vừa tản ra như một bầy chim sẻ.
- Ở trong nghĩa địa có một ngôi mộ của bà hoàng nhà Tống.
- Tao biết cái nghĩa địa đó. Tao chưa từng thấy một ngôi mộ nào lớn, cũng như chưa thấy lăng tẩm nào phủ bột vàng. Nếu có một ngôi mộ triều đình ở quanh đó, trong làng tao người ta đã nhắc tới nhiều rồi. Hẳn là người
ta đã đào mất. Không nên tin vào những thứ mày nghe được ngoài đường.
Chu Bảo nóng nảy.
- Đi với tao. Tao sẽ cho mày thấy là đúng thật.
Thẩm Phong lắc đầu.
- Làm ô uế lăng mộ là một tội lớn. Phá hoại nghĩa địa của chùa là bị kết tội chém đầu ngay. Tao không đi đâu.
- Đừng sợ! Nguồn tin của tao chính xác mà Thẩm Phong, kho báu ở ngay tầm tay rồi. Đi với tao.
- Những kẻ trộm mộ đã viếng thăm tất cả các ngôi mộ nổi tiếng trong vùng, sao chúng bỏ quên ngôi mộ này được?
- Mày biết gì mà nói!
Chu Bảo im lặng. Thẩm Phong cũng im lặng. Gió thổi ngoài đường tạo thành
một vòng lốc xoáy bụi bặm. Mặt trời chiếu vào trong quán, xoay một vòng
rồi ra ngoài. Một nàng ruồi vo ve vào phòng. Rồi nàng ruồi đầy lông lá
nâu đen thận trọng bay tới gần cái đĩa cá, đậu xuống rồi đập đập cánh
tiến tới.
Chu Bảo dằn mạnh chén rượu trên bàn. Nàng ruồi sợ hãi bay mất.
- Mày có biết Bình Ngữ không?
- Tao không nói chuyện với các nữ tu…
- Người ta nhặt được Bình Ngữ trước cửa chùa Đại Bi vào một buổi sáng.
Nàng mới sinh có vài ngày. Các nữ tu đã giữ nàng lại và nàng chưa bao
giờ biết cha mẹ thật của mình là ai, cũng như vì sao họ lại bỏ rơi nàng. Tao biết nàng cách đây vài năm khi nàng vào thành xin lương thực cho
chùa. Nàng thẹn chín cả mặt khi tao nói nàng đưa tao một phần số tiền
quyên góp. Tao bị khuôn mặt đỏ hồng này kích thích, lúc nào tao cũng tìm cách ở ngoài đường khi nàng vào thành. Rồi…
Chu Bảo im lặng. Nó cạn thêm chén rượu.
- Mày đã làm gì?
Chu Bảo cúi gằm mặt.
- Mày đã đánh nàng hả?
- Không, không, không.
Chu Bảo nắm lấy chén rượu đưa thẳng lên môi. Nó đưa mu bàn tay lên chùi miệng.
- Nàng có mang.
- Hả?
Thẩm Phong nhảy dựng.
- Nàng mang thai đứa con của tao.
- Mày đã xâm hại một nữ tu!
- Không phải như mày nghĩ! Tao muốn cưới nàng và mang nàng đi nơi khác sống. Nàng muốn theo tao đến cùng trời cuối đất.
- Hiếp một nữ tu? Sao mày lại nghĩ được ra chuyện điên khùng như vậy chứ! Rồi tụi mày trốn được đi đâu? Ở đây, với băng nhóm của mày, mày cũng
khó mà thoát, nhưng ít nhất là mày ăn quán chẳng cần trả tiền. Còn đi
nơi khác, mày chỉ có mà ăn xin. Làm sao mày lập gia đình khi chẳng có gì trong tay chứ hả?
Mắt Chu Bảo sáng lên. Nó nghiến răng và rít lên:
- Đúng vậy! Vì Bình Ngữ giữ bí mật của chùa. Một bà hoàng nhà Tống được
chôn cất ở chùa Đại Bi. Ngoài Bình Ngữ, sư phụ và sư phụ của sư phụ, tất cả tu sĩ đều phải quét nghĩa địa. Những gì mà tao được nàng cho biết là một bí mật mà nếu để lộ, sẽ bị xử tội chết theo luật của chùa. Bây giờ
thì mày đã biết, mày phải đi với tao.
- Nếu tụi mình bị phát hiện thì cả lũ sẽ bị xử tội chết.
- Dù sao thì Bình Ngữ cũng không thể ở lại Đại Bi. Lần cuối người ta phát hiện ra một tu sĩ mang thai, cô nàng đó đã bị đánh đến chết. Đó là thứ
luật nhảm của mấy bà nữ tu. Nàng phải trốn theo tao. Trong hai tháng
nữa, nàng sẽ không thể giấu được cái bụng đang to lên. Rồi người ta sẽ
giết nàng.
- Tao không đồng ý….
- Tao chỉ có thể tin
tưởng ở mày! Lũ đàn em của tao nghe lệnh tao nhưng chúng là lũ lưu manh
có thể phản bội. Còn mày, mày là anh em của tao, mày tử tế và có danh
dự. Đó là lý do tại sao tao muốn mày giúp tao, rồi mày sẽ được trả công. Bình Ngữ có chìa khóa vào mộ, nàng sẽ mở cửa cho tụi mình và đóng cửa
khi mình đi. Không ai có thể quấy rầy tụi mình đêm nay. Đi chứ?
Thẩm Phong suy nghĩ.
- Tao có cảm giác rất xấu. Tao không thích ý tưởng đào mộ tí nào. Tụi mình phải tìm ra một giải pháp khác cho mày và Bình Ngữ.
Chu Bảo nổi giận, đập tay lên bàn rồi hét lên:
- Mày sợ người chết sao? Người chết đã chết rồi và họ phải giúp người sống được sống.
Thấy Thẩm Phong không phản ứng, nó bình tĩnh lại.
- Những năm qua, nếu tao không bảo vệ mày thì sư phụ mày và mày đã bị
cướp bóc, rồi bị giết hại! Tao chưa bao giờ đòi một xu thù lao. Mày nợ
tao. Mày sẽ trả nợ tao đêm nay!
Gió nổi lên.
Mặt trời đỏ rực lặn xuống sau đỉnh núi.
Con đường ngoằn ngoèo băng qua khu rừng. Đó là một con đường chỉ có hươu
nai và dân miền núi đi. Vì trời mưa cả đêm, những con suối tràn cả ra bờ cỏ trước khi xuống thung. Gió làm cây nghiêng ngả. Tiếng xào xạc hòa
với tiếng rì rầm của suối và tiếng chim chóc hoảng sợ khi ánh chiều tà
đang lan rộng. Chu Bảo nhanh chóng mệt lả vì không quen leo núi. Nó than vãn, bước chệnh choạng rồi phun ra một tràng những lời nguyền rủa. Nó
bị hụt chân xuống bùn, trượt ngã sóng soài trên một vũng nước. Người nó
dính đầy lá vàng. Thẩm Phong nắm lấy tay nó. Mặc kệ những tiếng rên rỉ
và cơn đau của nó, chàng kéo thật mạnh để xốc nó lên và thúc nó đi
nhanh. Phải đến đỉnh núi và vượt tường nhà chùa trước khi trời tối vì hổ báo sẽ túa ra kiếm ăn khi mặt trời tắt hẳn.
Mặt trời lặn bắn ra từng làn ánh sáng lấp lánh như lửa. Những đám mây rực lên đầy màu sắc
rồi tắt. Trong lòng thung lũng, bóng đêm tràn ra như nước sông vỡ đập
rồi ngấu nghiến lấy từng khoảnh rừng. Chim chóc ngừng hót. Gió ngừng
thổi. Một sự im lặng đáng lo ngại càng lúc càng lớn khi khung cảnh trở
nên mờ tối.
- Chạy! – Thẩm Phong la lên.
Thở hổng hộc, Chu Bảo đi khập khiễng và cố theo kịp Thẩm Phong.
Một khoảng tối hiện ra trên bề mặt phiến đá rồi chạy qua bên kia rừng cây.
Bức tường của nhà chùa giống như một con rắn chuẩn bị phun nọc độc tấn
công.
- Đó là Đại Bi. Nhanh lên! Rừng rậm sắp trở nên rất nguy hiểm.
Vừa thúc giục Chu Bảo, Thẩm Phong vừa chạy về phía nghĩa địa sau chùa. Cánh cổng gỗ bị khóa trong. Bình Ngữ phải đến gặp họ. Nhưng Thẩm Phong muốn
trèo tường vào trong để tránh thú dữ trong rừng. Chàng trèo lên một cây
cao rồi leo đến ngọn. Vừa đến được mảnh đất của nghĩa địa, Chu Bảo nằm
dài trên mặt đất rã rời. Bất thình lình, nó bật dậy. Từ bên kia tường,
một con chó sủa dữ dội, ngay lập tức một bầy chó săn theo sau.
- Quỷ tha ma bắt! Chó ngao Tây Tạng. Tụi nó có thể xâu xé người thành trăm mảnh trong chớp mắt!
Bóng đêm tràn đến. Tiếng sủa yếu dần. Rồi dần dần tiếng gà nước, tiếng tre
rì rào, tiếng rắn rít và tiếng hú của những động vật và côn trùng trong
bóng đêm vẳng lên. Dù gió thổi nhẹ nhưng những cây tre đại vẫn kêu răng
rắc ồn ào. Những rung động này làm cái tĩnh lặng của những phiến đá mộ
có vẻ ghê rợn hơn. Dẫu vậy Thẩm Phong biết những cây tre sẽ bảo vệ
chúng. Tiếng rì rào liên tục của tre sẽ bịt tai lũ chó.
Một ánh
sáng đỏ di chuyển trong đêm đen, đi qua lối đi đầy cỏ của nghĩa địa rồi
dừng lại. Chu Báo ném một viên đá. Tia sáng đỏ đưa qua đưa lại.
- Ai đó? – Tiếng phụ nữ hỏi.
- Đi, đó là Bình Ngữ, – Chu Bảo nói vói Thẩm Phong.
Một bóng nâu đè trên bóng đen của những cây tre, nhấc cao ngọn đèn lồng.
- Là ta, – Chu Bảo thì thào. – Thẩm Phong là em trai ta, nó đến giúp ta.
Thẩm Phong chưa bao giờ ở gần một nữ tu đến vậy. Tim chàng đập thình thịch
rồi chàng cúi gằm mặt. Ngọn đèn lồng màu đỏ chiếu sáng phần áo bên dưới
của nữ tu, làm lộ ra một đôi giày đen và tất trắng.
- Đi thôi, – nàng nói mà không chào một ai.
Hai người đàn ông đi theo nàng. Nàng rảo bước bình thản. Ngọn đèn của nàng
rọi sáng con đường hẹp đầy bia mộ và lăng tẩm. Thân hình nhỏ nhắn của
nàng lướt đi trong bộ đồ tối. Giữa chiếc mũ đen che cái đầu cạo trọc và
cái cổ nâu, một ô vuông hở ra làm lộ phần gáy trắng muốt.
Nàng
dừng bước rồi quay lại. Khuôn mặt nàng tròn với gò má hơi xanh làm Thẩm
Phong bất ngờ vì chàng đang tưởng tượng một sinh vật quỷ quái có vẻ đẹp
không thể cưỡng lại. Chàng ngạc nhiên vì những đường nét bình thường,
vẫn còn trẻ. Đôi mày nàng, mắt nàng và môi nàng hơi thẫm hơn nước da
trắng của nàng một chút. Dưới chiếc mũ đen, vầng trán nàng rộng và nàng
có vẻ thơ ngây của một người ở nơi xa lánh thế gian giữa những tường cao bao bọc. Thẩm Phong đỏ mặt. Chàng nhìn lướt qua chuỗi tràng hạt bằng gỗ quanh cổ người nữ tu và dừng lại ở bụng nàng.
- Vào đi, – nàng nói. – Ở đây.
Cuối nghĩa địa hiện ra một vách đá rêu phủ, cỏ mọc um tùm. Cả nhà chùa dựa vào vách núi khổng lồ này.
- Đưa ta chiếc đèn lồng, – Chu Bảo vừa nói vừa tiến tới.
Ánh sang leo lét chiếu vào một thảm cỏ rậm. Tre nứa mọc đến tận chân vách đá phủ cỏ rậm rạp.
- Nhưng ngôi mộ đâu? – Chu Bảo sốt ruột hỏi.
- Phía sau. Đó là một hang động mà lối vào đã bị tường che và xóa dấu vết sau khi đưa quan tài vào.
- Nàng có chắc là có một ngôi mộ bên trong không? – Chu Bảo thì thào.
Nó đưa một tay lên đám cỏ, sờ soạng. Bất thình lình nó phun lời nguyền
rủa. Nó đang nắm trong tay một con cóc. Nó ghê tởm ném con cóc ra xa.
- Những dụng cụ được giấu sau cái cây này và em sẽ đốt nến, – Bình Ngữ
nói, giọng thản nhiên. – Bắt đầu ngay đi. Hai người chỉ có một đêm thôi.
Trong ánh sáng mờ ảo của cây đèn lồng, khuôn mặt nàng không hề thể hiện chút
xúc cảm. Nàng có vẻ mặt như mới đào mồ bước ra. Thẩm Phong không hề cảm
nhận được trong giọng nói của nàng sự xấu hổ, hối tiếc hay lo lắng. Sự
bình tĩnh này, sự thiếu vắng cảm xúc này làm chàng run lẩy bẩy.
- Dụng cụ đây hả? – Chu Bảo nín thở thì thào.
Nó lấy từ trong bụi rậm ra hai cái cuốc, hai cái xẻng của phường đòn, một cái túi rỗng và hai cái liềm của thợ làm vườn.
- Nàng muốn ta đào mộ thế nào đây? – Nó nói tiếp. – Cần phải có rìu để đốn tre và búa để phá cánh cửa phía sau chứ!
- Không được phá cửa, nó có gắn vũ khí, – người nữ tu bình tĩnh trả lời.
- Nàng ấy nói đúng đây, – Thẩm Phong nói. – Mộ của những người có chức
tước thường có gắn một dụng cụ bắn tên và những túi chất độc.
- Vậy nàng có biết mở không? – Chu Bảo nói. – Nàng có chìa khóa không?
Một ngọn gió làm cây đèn rung rung. Khuôn mặt Bình Ngữ sáng lên, tối đi rồi lại sáng lên. Nàng dùng mũi giày gõ xuống đất.
- Đào đi, – Bình Ngữ nói, giống như nàng đang suy nghĩ về phần thưởng mà
Chu Bảo phải mang về cho nàng. – Phải đào một đường hầm luồn dưới cửa
dẫn trực tiếp lên phòng mai táng. Như vậy, – nàng nói thêm, – sẽ dễ xóa
dấu vết hơn.
Không nói một lời, Chu Bảo xắn tay áo, phủi phủi tay rồi cầm lấy cuốc.
Một đám mây dày che mất mặt trăng. Một tiếng xào xạc vẳng lại từ thung lũng rồi biến thành tiếng rên rỉ. Là gió thổi những ngọn tre. Không có
trăng, các lăng mộ dường như lớn hơn. Chúng giấu nghĩa địa trong bóng
tối ghê rợn của mình và phát ra những luồng gió lạnh buốt. Ngọn đèn hồng thu hút lũ côn trùng thiêu thân trên ngọn đèn.
Thẩm Phong rất
dễ sợ hãi. Chàng cứ ngập ngừng rồi bình tĩnh lại. Bên cạnh chàng, Chu
Bảo vốn dĩ nói nhiều cũng không hé răng mà đầu thì cúi gằm. Nó bỏ cái
cuốc ra rồi lấy cái xẻng và ném đất ra khỏi lỗ. Thẩm Phong phun nước bọt vào lòng bàn tay để giảm nỗi bồn chồn. Bất thình lình, từ vách đá trên
cao có ai đó ho. Chu Bảo nhảy ra khỏi lỗ, huơ huơ cái xẻng.
Cách đó hai bước chân, vách đá nhìn cả bọn khinh bỉ rồi im lặng trở lại. Bị
dây thường xuân phủ kín, nó giống hình mặt người nhăn nheo cười ma mãnh
cả bọn. Liệu nó đang che giấu một kho báu hay một con quái vật thức giấc sau mỗi cú đào bằng cuốc và xẻng? Thẩm Phong nghe một tiếng thở. Bất
ngờ, có ai đó bật cười.
- Ra mặt đi, đồ hèn! – Chu Bảo gầm giọng la lên.
Nụ cười biến thành những tiếng càu nhàu nguyền rủa không rõ.
- Đáng nguyền rủa! Đó là ma hay quỷ vậy? – Chu Bảo nghiến răng lầm bầm.
- Ra khỏi đó đi!
Thẩm Phong nắm một nắm đất rồi ném vào chỗ phát ra tiếng động. Cây cối xào
xạc. Hai bóng đen lướt giữa những cành cây rồi biến mất về phía ngọn
tre.
- Lũ khỉ! – Chu Bảo vừa nói vừa nhổ nước bọt. – Chúng làm
tao sợ hết hồn! Tao thề với mày, sau đêm nay tao chỉ đi lang thang ngoài nghĩa địa sau khi chết.
Đâu đó, trong bóng tối, một con chim hú hú rồi cười khẩy như chọc ghẹo họ. Thẩm Phong lau cái trán vã mồ hôi
rồi nhìn xung quanh. Không xa lắm, trước khóm tre, chàng thấy có một cái bóng giống như Bình Ngữ quay lưng lại phía họ. Chắc nàng đang vừa canh
chừng vừa ngắm trời đất.
Một tiếng gầm nghiến chặt màn đêm.
- Cái gì vậy?
Chu Bảo rùng mình rồi lại giơ xẻng lên.
- Một con hổ, – Thẩm Phong trả lời.
Chu Bảo nhổ nước bọt.
- Nhanh kết thúc vụ cái mộ này đi! Tao thề với mày, giờ tao đã rất hối
hận vì có con với một nữ tu. Nàng giết tao trước khi tao kịp cưới nàng!
Thẩm Phong nhìn sang Bình Ngữ. Nàng không nhúc nhích. Nàng phớt lờ nỗi sợ và những đau đớn của họ. Chắc nàng đã quyết vi phạm mọi điều cấm kỵ của
thế giới trần gian này và bỏ ngoài tai mọi quy củ Phật giáo khi đẩy Chu
Bảo tới chỗ trộm mộ của một bà hoàng sùng đạo. Phụ nữ là một đường hầm
dẫn tới cõi hư vô hay tới châu báu?
Cúi khom người, Thẩm Phong đào bằng xẻng. Chu Bảo chất đất đá vào bao mà Bình Ngữ đưa cho rồi đem đổ ở miệng đường hầm.
- Mày có chắc là mình đi đúng đường không? – Chu Bảo vừa bò vừa hỏi. – Hay mày có chắc là tụi mình đào đúng chỗ không?
- Tao không chắc gì hết, – Thẩm Phong nói.
Hòa với đất, mồ hôi chàng trở nên nhão nhoẹt. Thỉnh thoảng chàng phải dừng lại rồi chùi mắt và miệng.
Giọng Chu Bảo lại vọng tới:
- Nếu đất sụp xuống đầu mình thì làm sao?
- Đó là điều tệ nhất, – chàng thợ đàn trả lời sau khi phun nước bọt. –
Đất có thể sụp xuống và tụi mình bị lọt xuống một bao cát… Lấy cục đất
này giùm tao. Tao không thở được.
Chu Bảo bò đi rồi quay lại.
- Một cái bóng màu cam đã nhảy qua nhảy lại nhiều lần trước mắt tao. Chắc tao gặp linh hồn người chết.
- Đừng quan tâm. Đừng cố hiểu nó là cái gì. Chỉ cần nghĩ tới nó là nó đã ám vào mày rồi.
Khi Thẩm Phong và sư phụ về làng với những tấm gỗ quan tài cổ, ban ngày họ
đặt nó ngoài trời. Ban đêm, họ đem nó vào, đặt nó trên nệm rơm. Họ ngủ
trên những phiến gỗ tìm thấy trong vương quốc người chết này và phải làm cho chúng quay lại cuộc sống bằng cách cho chúng hơi người sống. Lúc
đầu, Thẩm Phong gặp ác mộng. Trong giấc mơ, chàng gặp những người xa lạ
mặc đổ kỳ cục. Chàng không biết đó là người chết trở về gặp chàng hay
chính chàng đang phiêu diêu trong cõi ngày xưa. Sư phụ dặn chàng dù
trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được trả lời câu hỏi của họ hay
nhận lời mời của họ.
Giọng Chu Bảo ù ù:
- Thẩm Phong, mày có vẻ không sợ ma nhỉ?
- Sợ hả? Sư phụ tao càng ngày càng giống ma, tao quen rồi…
Bình Ngữ đưa cho họ những mẩu nến ngắn đã đốt. Có thể nàng đã ăn trộm chúng
từ bàn thờ Tam Phật. Để tiết kiệm, Thẩm Phong chỉ dùng từng mẩu một. Bây giờ, ở độ sâu khoảng hai mươi bước chân, lòng đất phát ra mùi mốc meo.
Tiến thêm bốn bước, chàng bị ngạt thở vì những hơi khí nóng. Ánh sáng
đèn mờ in bóng đầu chàng đang nhảy múa trên vách. Chàng gãi và đào. Từng nắm đất rớt ra rồi rơi xuống. Chàng không còn cảm thấy bàn tay và cánh
tay mình đang run. Nhưng đã quá trễ để quay lại. Chu Bảo và chàng đã đào quá xa, quá sâu; họ không thể nào dừng lại. Mùi của đất và tiếng gãi
sột soạt đều đều làm Thẩm Phong buồn ngủ. Đôi mắt chàng cứ nhắm lại nên
chàng phải cố gắng giữ nó mở ra. Như một trận triều cường, nỗi buồn xâm
chiếm chàng. Nếu chàng chết trong ngôi mộ này, ai sẽ lo cho sư phụ
chàng? Lấy ai đổ nước đầy chum, ai chụm thêm củi vào cái bếp thơm mùi
gạo?
Cách đây hai năm, đôi tay người thợ đàn già bắt đầu run rẩy rồi ông không thể giữ dụng cụ để đục đẽo được nữa. Lúc đầu, tưởng mình
bị trúng lời nguyền của ma quỷ theo chiếc quan tài ám vào người sống,
ông đã uống các loại thảo dược mà theo ông có tác dụng trừ tà. Rồi sau
đó, ngày qua ngày, bệnh càng nặng thêm. Một đêm nọ, cơn đau lên đến ngực ông. Lúc ngủ dậy, sư phụ không thể nào nói rõ tiếng được nữa. Từ ngày
đó, ông lúc nào cũng cáu giận, ăn trong im lặng, ngủ trằn trọc trên nệm. Khi Thẩm Phong nói chuyện với ông, ông làm như bị điếc. Nhiều khi ông
đi vào rừng nhiều ngày và trở về với gò má hốc hác, quần áo dơ bẩn.
Những thợ săn đi ngang qua rừng kể rằng, ông ngủ trong hang động và đã
trở thành bạn của khỉ vượn cùng các vì sao.
Từ khi nỗi bất hạnh
ám lấy ngôi nhà, Thẩm Phong cũng đi mỗi khi chàng thất vọng. Ngược lại
với sư phụ, Thẩm Phong đi vào thành, chơi với băng nhóm của Chu Bảo và
lang thang trên những con đường ồn ào trong chợ. Mặt trời, mồ hôi, rượu, tiếng xì xào của các thương nhân, tiếng quân lính thao diễn đã làm lòng chàng tươi trẻ lại như một khúc nhạc ám vào não làm chàng quên đi nỗi
buồn phiền.
Chu Bảo quay lại, đá đá vào chàng. Trong ánh nến mờ
mờ, nó giống như một con sâu đen dài. Dính đầy bùn và mồ hôi, đôi mắt
sáng rực, khi nó nói chuyện, răng nó đánh lập cập trong đường hầm đỏ:
- Nếu tao chết, hãy cưới Bình Ngữ và giấu nàng ở nhà mày, được không?
- Điên! Mày không chết đâu!
Chu Bảo gật đầu.
- Bây giờ tao hối hận vì đã không nghe mày. Tụi mình sẽ không đến được đó.
- Dừng lại chút đi.
- Không! – Chu Bảo lớn tiếng.
Sau một hồi im lặng, nó tiếp tục:
- Mày có chắc đã đào đúng hướng không?
- Tao không biết.
Kéo cái bao, Chu Bảo bò trườn ra phía sau.
- Thẩm Phong, mày là anh em, dù có chết tao cũng không quên ơn mày! Khi
tụi mình tới được hầm, mày có thể lấy bất cứ gì mày muốn!
- Để xem sao. Tao cần ít hơn mày.
Chu Bảo nhích ra ngoài.
- Tao có một câu hỏi, – Thẩm Phong hỏi nó. – Và tao muốn được biết câu trả lời trước khi chết.
- Hỏi gì?
Thẩm Phong đỏ mặt. Chu Bảo gầm gừ:
- Nói! Không ai nghe thấy tiếng tụi mình đâu!
Chàng thợ đàn trẻ ngập ngừng rồi liều nói:
- Đàn bà, như thế nào?
Chu Bảo bật cười. Nó cười tới mức hít cả đất vào mũi rồi lăn ra ho sặc sụa.
- Ha ha, đàn bà!… Khi… mày có một phần… châu báu, mày đi mà hỏi Hồng Ngọc ở trong nhà… Sen. Nàng sẽ giải thích hết cho mày!
- Đó không phải những gì tao muốn nói. Mà đàn bà là gì?
Chu Bảo làm ra vẻ suy ngẫm. Bỗng chốc, nó tìm được câu trả lời:
- Đàn bà ẩm ướt và nóng. Đi vào trong bị ép chặt rồi đào, đào và đào. Rồi bỗng nhiên bị thiêu đốt và… hê hê, và có con!
Rất hài lòng với câu trả lời của mình, Chu Bảo vừa lùi ra vừa hát:
Bông hoa quý nở ra nở ra thật to
Một con sâu đất bò, bò, bò để kiếm chút mật ăn
A, a, a, người anh em, nếu bông hoa bất ngờ chầm chậm khép vào,
A, a, a, người anh em, người anh em sẽ bị kẹt bên trong và sẽ chẳng còn thấy mặt mẹ hiền…
Chu Bảo biến mất trong bóng tối. Thẩm Phong lại cầm xẻng và đào. Một cơn
mưa đất đổ xuống đầu chàng. Chàng lau mặt bằng mu bàn tay. Chu Bảo không trả lời câu hỏi của chàng. Có lẽ chàng đã nói không rõ. Phải chăng số
phận chàng không được biết đến phụ nữ? Tay chàng, mắt chàng, tai chàng,
hơi thở của chàng, bụng dưới của chàng, ngày và đêm chỉ thuộc về đàn
thôi ư? Có phải vì vậy mà chàng sinh ra đã mồ côi và người thợ đàn già
là người hướng dẫn duy nhất trong cuộc đời chàng?
Thẩm Phong chỉ là một đứa trẻ khi sư phụ quyết định đánh thức khả năng thính giác của chàng.
“Âm nhạc ở khắp mọi nơi và mọi thứ đều có giai điệu riêng của nó”, ông nói. “Âm thanh của thế gian chia thành ba nhóm. Tiếng rì rầm hỗn độn của
thiên nhiên trở nên hài hòa nếu người ta bịt lỗ tai ngoại vật và nghe
bằng nội tâm. Người ta sẽ nghe được âm nhạc bằng các giác quan và ký ức. Nhưng nếu người ta bịt lỗ tai nội tâm để nghe bằng da, người ta sẽ nghe được âm nhạc của càn khôn, của mặt trời, mặt đất và các vì sao. Rồi,
nếu người ta đóng kín tất cả các lỗ tai và nghe bằng linh hồn mình,
người ta sẽ nghe ra âm nhạc của sự thông thái, của các thánh thần đang
phiêu diêu trong gió và ánh sáng, thứ âm nhạc đi vào màn đêm và băng qua những bức tường, âm nhạc của tất cả những cuộc đời.”
Sư phụ vừa nói vừa chỉ tay về phía núi: “Có bao nhiêu cây trong rừng?”
Cậu bé Thẩm Phong ngây thơ đếm bằng mười đầu ngón tay rồi nhanh chóng không thể đếm được nữa.
“Có bao nhiêu sỏi bên bờ suối?”
Thẩm Phong hẩy hẩy viên đá bằng mũi giày và không thể trả lời.
Sư phụ lại tiếp: “Có bao nhiêu sóng trên sông?”
Thẩm Phong toan đếm nhưng không đếm hết.
“Thế giới của chúng ta là vô tận. Số âm thanh của cây đàn cổ cầm cũng vô hạn.”
Bên bờ sông, có một đồi đá lớn tròn tròn. Nhìn từ xa giống như một nhóm người đang đứng ngắm sông.
“Những hòn đá đó trước kia ở thượng nguồn”, sư phụ nói. “Bị thác nước mài mòn
và bào nhẵn dưới sóng nước triền miên, chúng đã mất dần góc cạnh và mũi
nhọn. Cứ mỗi đợt triều cường chúng lại bị đẩy về phía hạ lưu. Suốt thời
gian chuyển động chầm chậm này, chúng gần lại nhau, dính vào nhau và
chồng lên nhau để cùng nhau chống lại dòng chảy.”
Theo chân sư
phụ, Thẩm Phong leo lên những tảng đá. Khi mặt trời đâm thủng màn sương, những con sóng tối tăm bên bờ đối diện rút ra và trở thành những gờ
sông dốc đứng. Vô số chim chóc nhảy múa trên những chỗ rạn nứt và trên
mép đá. Sư phụ đứng lặng yên, mở rộng vòng tay. Sau lưng ông, Thẩm Phong cũng bắt chước như vậy. Chàng hít thật sâu rồi tưởng tượng đang nhấc
một cục lửa mang lên trời. Sư phụ lúc đó nhấc cánh tay trái lên, gập
chân phải lại rồi đứng cân bằng trên chân trái, Thẩm Phong cũng làm y
như vậy. Hòn lửa lớn lên và chạy qua vai ông, vòng quanh đầu ông. Hòn
lửa trở thành một quả cầu đầy khí hài hòa đi xuyên qua da rồi chia thành hai luồng khí nóng chạy vào trong hai chân.
Giọng sư phụ chàng
vang lên: “Đàn là núi, sông, trời, đất, mây, thuyền, đá. Đàn là vũ trụ,
vũ trụ là đàn. Người chơi đàn là một nốt nhạc của vũ trụ. Hít sâu… thở
ra…”
Bỗng sư phụ chuyển động nhanh hơn, đẩy mạnh tay trái và rẽ
không khí bằng tay phải. Đứng trên chân phải, ông nâng chân trái lên
chạm đầu và tung một loạt cú đá trong không khí. Dù chân lảo đảo nhưng
Thẩm Phong vẫn bắt chước ông.
“Đàn không dành riêng cho giới trí thức”, sư phụ nói. “Đàn là nghệ thuật chiến tranh, phá hủy và chết
chóc. Thẩm Phong, ta dạy cho con võ thuật để mài giũa ý chí của con.”
Trước mặt chàng, sư phụ quay lại và làm chầm chậm các thao tác. Giọng ông xa
xăm: “Lúc đầu, vũ trụ chỉ là một vòng xoáy. Lúc đầu trốn ở trong tâm của nó, thần Bàn Cổ ngủ trong bóng tối hỗn độn suốt mười tám nghìn năm. Một ngày nọ, thần thức dậy, bước ra ngoài rồi dùng tay chân đẩy những đám
khí dày. Những vật nhẹ hơn nổi lên thành bầu trời. Những thứ nặng hơn
lắng xuống thành đất. Thần Bàn Cổ đứng dậy, gánh bầu trời trên vai. Mỗi
ngày thần cao thêm một trượng trong suốt mười tám nghìn năm nữa để rồi
cuối cùng bầu trời tách ra khỏi mặt đất và chúng không bao giờ liền lại
nữa. Khi mặt đất cứng lại và bầu trời khô đi, Bàn Cổ nằm lăn trên mặt
đất và chết vì mệt mỏi. Mắt trái của thần thành mặt trời, mắt phải thành mặt trăng. Da thịt thần và máu thần thành núi đồi, sông suối, rừng và
đá.”
Thẩm Phong lúc đó cảm thấy tràn đầy sức mạnh. Quả cầu khí chàng giữ trong tay lớn dần lên và kéo chàng lên trời.
Sư phụ chàng nói tiếp: “Hãy hạ thấp từ từ xuống gót chân. Gan bàn chân là
mặt đất. Mặt đất trải rộng ra vô cùng. Con đã thành vô cùng. Bây giờ hãy mở lồng ngực ra, nhắm mắt lại và nghe tiếng nhạc trên từng đầu ngọn tóc của con. Nhạc không thành tiếng nhưng phát sáng. Đó là tiếng nhạc của
sự thông tuệ…”
Trước một đường hầm vừa dài vừa vòng lên, Thẩm
Phong cảm thấy lạnh băng và khô khốc. Chàng dừng lại, dùng ngọn nến ủ ấm những ngón tay đang co cứng và nhìn lòng bàn tay mình, vừa rộng vừa đỏ
và đầy vết chai. Những kẻ đào mộ đào đất để cướp châu báu, còn những thợ đàn khoét gỗ để cho cái trống rỗng một cuộc sống, đó là âm nhạc.
Âm nhạc! Từ trong đường hầm phát ra âm thanh dìu dặt. Không tin là có ma,
Thẩm Phong dừng lại lắng nghe rồi bắt đầu cào mạnh. Từng cục, từng cục
đất rơi xuống ngày càng nhiều. Đó không còn là đất tươi nữa mà là một
chất cứng vón thành bột. Chàng thận trọng đổi dụng cụ để sử dụng góc của lưỡi cuốc. Giai điệu yếu ớt và ma quái dần trở thành tiếng gào thét
theo từng mảng đất giống như tro rơi ra từ phía trên vách hầm.
Thẩm Phong dừng lại.
- Mày có nghe có tiếng nhạc không? – Chàng hỏi Chu Bảo đang mải hót đất
- Cái gì? Nhạc gì?
- Không có gì, – Thẩm Phong trả lời.
Âm nhạc lại vẳng lại tai chàng như thể ngay trên đầu chàng một nhóm nhạc
công đang chơi hòa tấu đàn dây. Khi chàng cào cào theo hướng đó, chàng
càng nghe rõ hơn. Âm nhạc đó khác hẳn với tất cả những thứ âm nhạc mà
chàng nghe trước đó. Các nốt va vào nhau rất rõ và trong veo như tiếng
ngọc trai. Thỉnh thoảng, các nốt nhạc đó rời rạc tới mức có thể nghĩ đó
là điệu hát của một phụ nữ ngoại quốc.
Âm nhạc lớn lên. Các nốt
rơi vãi. Vọng âm trầm và mơ màng của chúng vỗ về tay và chân chàng, làm
chàng run rẩy sung sướng. Lưỡi cuốc càng nhanh hơn và càng lúc càng đập
mạnh hơn vào đất. Điệu nhạc đã nhập vào chàng, trườn lên trán chàng và
gọi:
- Đi với ta, đi!
Bất ngờ, một cơn mưa đất và bột đổ xuống rồi âm nhạc im bặt. Một cái lỗ xuất hiện ngay trên đầu chàng.
Thẩm Phong với tay, đưa ngọn nến lại gần hơn, còn tay kia với một vài
nhát cuốc nữa, cái lỗ đã rõ ràng. Một mùi rất nặng xộc vào mũi chàng.
Một con vật từ địa ngục nhảy lên cắn vào mặt chàng. Một cơn gió lạnh
thổi tắt ngọn nến. Bị nghẹt thở, Thẩm Phong xé miếng vải trên ngực áo,
chân chàng đào đào đất rồi chàng quay lại để hét lên một tiếng. Nhưng
không một âm thanh nào thoát ra. Chàng co rúm rồi ngất đi.
- Thẩm Phong, Thẩm Phong!
Chàng mở mắt vẻ nặng nhọc. Hàng mi chàng rất nặng. Tai chàng ù ù, đầu chàng
xoay vòng vòng. Chàng muốn nhúc nhích nhưng chẳng còn chút sức lực.
Chàng cố nhớ lại những gì đã xảy ra nhưng chẳng nhớ được gì.
Ai đó tiếp tục nói chuyện với chàng và lay mạnh chân chàng. Giọng đầy sợ hãi:
- Mày chết rồi hả, Thẩm Phong?… Mày không được chết!… Tỉnh lại đi!
Giọng nói nhỏ dần đi.
Thẩm Phong dần tỉnh lại, chàng phải tiếp xúc với ngôi mộ và có thế đã bị
nhiễm độc vì chướng khí của cái xác. Chàng nghiến răng rồi nhấc cánh tay nặng như một trái núi của mình lên. Chàng mò mẫm cởi đai quần bằng sợi
cây dầu rổi tiểu lên mình, sau đó chàng che mũi và miệng lại. Khi tai
chàng ngừng ù ù, ngón tay chàng chạm được ngọn nến trong bóng tối và mấy hòn đá lửa trong túi. Những tia sáng lúc đầu còn bắn ra, sau bị bóng
tối nuốt chửng. Chàng chờ một hồi lâu trước khi thử lại lần nữa. Ánh
sáng của ngọn nến yếu như hạt đậu nhỏ, mang lại cho chàng sức sống.
Chàng bò lại phía Chu Bảo. Chàng lắc nó, gọi nó dậy và cho nó một mẩu
vải quần thấm nước tiểu để bịt mũi. Hai đứa giúp nhau, cuối cùng cũng bò ngược ra được lối lên mặt đất.
Cả hai gỡ tấm vải bịt mũi ra và
nằm dài bên nhau. Nằm ngửa, tay bắt tréo trên ngực, chúng nhìn bầu trời. Đêm sáng sủa. Bên kia bức tường vây quanh, mấy chiếc chuông dưới mái
chùa rung nhè nhẹ. Một con chó bắt đầu sủa, rồi im. Tre xao động. Sau
những chiếc lá tre, trên trời sao đang nhấp nháy, báo hiệu một ngày đầy
nắng. Đang là mùa nào chứ? Thẩm Phong rối bời. Tre vẫn xanh quanh năm.
Trong vùng núi này, cứ sáu mươi năm tre lại nở hoa. Có lẽ lúc đó sẽ có
động đất, mưa và mặt trời cưỡng bức mặt đất, và vì kiệt sức sau khi nở
hoa, tre sẽ vàng đi, rụng hết lá và khô héo.
Chu Bảo đánh khuỷu tay.
- Mày có ý gì không? Nếu mình không tìm ra châu báu, làm sao để mình giàu lên được?
Thẩm Phong trả lời qua loa:
- Tao nghe nói vì muốn bán hàng hóa cho không chỉ các đại nhân phương
Nam, các thương gia bán lụa đã đi vào tận các vương quốc man di bất chấp chiến tranh và giang tặc trên sông. Không biết sợ mệt nhọc và nguy
hiểm, những người táo bạo nhất đã đổi ngựa lấy lạc đà, băng qua sa mạc
Tây Bắc để cung cấp cho các hoàng tử Tây Vực có mắt xanh như mắt mèo.
Lụa là dấu hiệu cho thấy một người là quý tộc và quyền lực, còn tiền bạc cho thấy một người khốn khổ và đói ăn. Có thể mày sẽ tìm ra một thương
nhân trong thành muốn mày đi về phương Bắc để canh gác các đoàn thổ.
Nhưng còn Bình Ngữ thì… phải cải trang thành đàn ông để rời khỏi bờ Nam. Bên kia sông Dương Từ, bên phần đất của các tộc man di, chúng mày sẽ
được tự do.
Chu Bảo thở dài:
- Bên bờ Bắc, từ tháng Mười đến tháng Tư, gió bấc thổi ngựa bò quỵ ngã và đông cứng những lá cờ
đang căng như những miếng sắt. Tụi tao sẽ bị ù tai và chảy máu mũi.
Phương Bắc không dành cho tụi tao, những đứa chưa biết mùa đông là gì.
Thẩm Phong ngập ngừng một chút.
- Quỷ ám mày rồi! Ngoài đường có bao nhiêu cô gái trong thành Kinh Châu này, sao lại phải là một nữ tu trên núi kia chứ!
Chu Bảo cười cay đắng.
- Quỷ ư? Là Phật đó! Đám con gái chạy theo tao để tao cho chúng tiền.
Chúng bỏ đi khi gặp gã khác giàu hơn. Còn Bình Ngữ mang cho tao niềm
vui. Lúc không có nàng, tao có thể làm mọi thứ để kiếm vài xu mà tao đã
tiêu mất không biết vào việc gì. Lúc có nàng, tao là một thằng hiền lành và tốt bụng, tao bảo vệ nàng và khiến nàng cười. Khi mặt nàng xanh xao
trở nên tươi tắn, tao quên cả đường đi, tiếng ồn ào, bụi bặm, mồ hôi,
tao thoáng thấy ánh sáng cùa một vùng đất thanh sạch.
Thẩm Phong im lặng. Chàng thầm ganh tỵ với Chu Bảo. Chàng cũng muốn có một người
phụ nữ làm chàng quên đi bệnh tật của sư phụ chàng, quên đi cuộc đời khó nhọc và cho chàng thấy ánh sáng của Phật! Liệu nàng có đi về phía chàng khi chàng có được một phần châu báu không?
Chu Bảo xuống trước, Thẩm Phong theo sát gót. Cả hai bịt mặt bằng miếng vải tẩm nước tiểu.
Ngọn nến nhảy múa cho họ biết có chút không khí lưu thông trong hầm.
Thẩm Phong đập đập mông Chu Bảo để nó tiến sâu vào trong cái lỗ. Sau khi ngập ngừng một chút, Thẩm Phong cũng theo nó ló đầu lên. Chàng không
thấy gì ngoài một lớp sương mù dày đặc. Chàng đưa cuốc và xẻng lên rồi
nhắm mắt lại và nhảy lên.
Khi chàng mở mắt ra, chàng thấy một
lớp quầng sáng bụi bềnh bồng. Chàng đốt nến lên. Trước mặt chàng, một
cây cột hiện ra. Cột bị phủ bởi những hạt li ti chuyển động lên xuống
ghê rợn, thỉnh thoảng phát ra những chớp sáng. Khi chàng tiến lên, ngọn
nến của chàng để lại trong bóng tối một vệt sáng. Cây cột lùi lại, rồi
dang ra một loạt tay xoắn và quấn quanh Thẩm Phong như muốn giật lấy
ngọn nến trong tay chàng.
Cách đó không xa, Chu Bảo la lên kinh
hãi. Giữa một vòng xoáy bụi bặm xuất hiện một người mặc áo trắng. Thẩm
Phong mở to mắt. Hình người đó là một cái bệ thờ đẽo bằng đá khoáng; bên trên là một cỗ quan tài.
Thẩm Phong dò độ cứng của mặt đất bằng cuốc trước khi đặt chân tới đó rồi đi quanh hầm. Trái ngược với các
ngôi mộ của nhà giàu thường có cả một cung điện thực thụ ở dưới đất phân thành vô số phòng nhỏ giống như vẻ tráng lệ khi người chết còn sống,
ngôi mộ này lại chỉ có một phòng tang lễ hình tròn và Thẩm Phong không
hề thấy bia khắc tên, quê quán cùng cuộc đời người chết. Ở Trung Hoa, bờ Bắc cũng như bờ Nam, những người sống lập bia mộ cho người chết. Đối
với một số người, đó là sự tưởng nhớ về một cuộc đời vất vả, đối với
những người khác, đó là sự vinh danh một cuộc đời sáng chói. Từ người
cùng cực tới một ông vua, tất cả đều có quyền được có một bia gỗ hay đá
cẩm thạch ghi lại cuộc đời họ bằng mực đen đơn giản hoặc khắc bằng vàng.
Không có bia mộ không có nghĩa là ngôi mộ không quan trọng, chàng thợ đàn trẻ tuổi nghĩ. Đó là một người mà người ta muốn giấu đi thân thế có thể vì
bà đã bị trục xuất khỏi triều đình, hoặc cũng có thể vì người ta muốn bà tránh khỏi bị ô nhục vì mộ phần bị đào bới. Trong cả hai trường hợp, đó chỉ có thể là một người có vị trí quan trọng.
Khi Thẩm Phong
soi nến lại gần, những bức vách bắt đầu sáng lên, để lộ những lớp sơn tỉ mỉ có viền vàng. Sự có mặt của hai con linh thú là thanh long và bạch
hổ, những quân bảo vệ hoàng đế và hoàng hậu, cho thấy những gì Chu Bảo
nói với chàng là đúng. Được vẽ trên tường Đông và tường Tây, chúng dẫn
theo hai đoàn kỵ binh và bộ binh, những quan lại đội mũ áo quan văn,
những kẻ hầu trai và gái mang chum nước, chổi, quạt, chén, đĩa, thảo
mộc, tất cả các vật dụng hằng ngày của một cuộc đời sang trọng mà Thẩm
Phong chưa từng biết tới, rồi đến một bầy chim, mèo, khỉ, chó và báo
được thuần hóa. Những xe đầy lính cầm lao và cung tên bao quanh hai
chiếc xe vẽ rồng, kỳ lân và phượng hoàng, có rèm thêu chỉ vàng đóng kín. Vẻ đẹp của những quan lại mặc gấm vóc đủ cho thấy người chủ của họ quan trọng đến mức nào. Tim Thẩm Phong thắt lại. Có thể chàng đang ở trong
chính ngôi mộ của Hoàng đế triều Tống cũng nên! Để lừa những kẻ đào mộ
trong tương lai, những người quan trọng ở thời đó thường xây nhiều mộ
giả trước khi được mai táng ở một nơi bí mật với nhiều châu báu. Một
nghĩa địa của những nữ tu trên đỉnh một ngọn núi hiu quạnh là nơi lý
tưởng để chôn vùi một bí mật như vậy!
Chu Bảo đã trèo lên bệ thờ và kiểm tra cỗ quan tài. Thẩm Phong vẫn còn đang dạo nhanh một vòng
quanh phòng. Dọc theo tường, chàng không thấy hũ chứa ngũ cốc, không có
lọ đựng nữ trang, cũng không có những bức tượng nhỏ bằng đất nung hình
những người hầu và thú để cưỡi, chén bát hay bếp lò, cũng không hề có
các thùng thư tịch, họa phẩm hay quần áo mà người chết đã mặc. Phải
chăng đây là một ngôi mộ giả để đánh lừa?
Đứng giạng chân hai bên áo quan, Chu Bảo vội vã:
- Nhanh giúp tao mở nắp quan tài. Trời sắp sáng rồi!
Khi đưa nến đến gần, Thẩm Phong nhận ra đó là một cỗ quan tài đơn giản
nhưng nghiêm trang. Khi đưa tay áo chùi một góc hòm, chàng thấy lộ ra
lớp gỗ sơn đen. Chàng gõ nhè nhẹ vào đó. Một loạt âm thanh trong trẻo
vang lên. Chàng nhận ra tiếng gỗ của một thân cây có chất lượng đặc
biệt.
Thẩm Phong đưa các dụng cụ cho Chu Bảo rồi cũng leo lên.
Cả hai cùng đập vào bốn góc, giữa khe hở của nắp và thân quan tài. Những hạt bụi nhảy múa và lấp lánh quanh ngọn nến. Cỗ quan tài nhanh chóng bị khuất phục. Họ dùng các dụng cụ để nạy và di chuyển nắp quan tài. Sợ
nắp quan tài rớt xuống đất, Thẩm Phong nhảy xuống để đỡ lấy.
Một đám mây bụi rơi xuống cùng lúc với mùi xạ hương nhấn chìm khoang mũi
của Thẩm Phong dù cho chàng đã bịt mặt. Chàng trèo lên bệ rồi cúi xuống. Chu Bảo và chàng cùng đưa nến soi vào. Như những con côn trùng cánh bảy màu, những hạt bụi bay vòng rồi tản ra. Một phụ nữ còn sống xuất hiện,
rạng ngời hạnh phúc và tươi trẻ. Trên khuôn mặt hình trái xoan dần hiện
ra hai má đánh phấn và cánh mũi nhỏ nhắn. Đôi lông mi khép hờ, trán
không một nếp nhăn, nàng mang một vẻ đẹp đầy cuốn hút dù đội nón đen và
mặc váy xám của một nữ tu. Hai tay đặt trên ngực, với nụ cười mỉm trên
môi, nàng trông như đang chuẩn bị thức dậy.
Chu Bảo quỳ xuống, nắm tay lại, lạy và thì thầm:
- Bậc cao quý, xin tha tội cho kẻ tiện dân. Xin cho phép kẻ tiện dân được mượn của bà một ít vàng bạc, chỉ vừa đủ để nuôi sống vợ và con của tiện dân. Bà đã ra đi và không còn cần nữa. Ở đây, cuộc đời thật nhiều khổ
đau…
Thẩm Phong nhớ chàng từng nghe nói cơ thể của các thánh có
thể giữ được rất lâu. Nhưng thật khó để tin rằng người phụ nữ này đã qua đời cách đây ba triều đại. Còn châu báu ở đâu? Đôi tay Thẩm Phong run
rẩy làm ngọn nến rớt một mẩu cháy trên trán người phụ nữ. Da nàng nứt
khẽ, rách ra để lộ xương sọ. Trong chớp mắt, bộ quần áo rách ra để lộ bộ ngực trắng đã hóp xuống và mở ra những cái xương sườn nứt nẻ. Khi Chu
Bảo đã khấn vái xong và ngẩng lên, chỉ còn lại xương và một nhúm tro.
Thẩm Phong cảm nhận một luồng gió lạnh quật vào xuyên qua ngực chàng như một lưỡi dao. Chu Bảo nhảy vào quan tài tìm kiếm, lục lọi. Khi tay nó
chạm vào, xương sọ bị nứt ra, bộ xương sống rã ra và xương cũng vụn hết. Những hạt bụi bay lấp lánh giữa các ngón tay của nó. Thẩm Phong nhìn
hành động thô lậu này rồi quay mặt đi.
- Châu báu ở đâu? Châu báu!
Vừa hét lên, Chu Bảo vừa cầm cái xẻng đập vào đáy quan tài. Bị đập dữ dội,
cỗ quan tài nhanh chóng rạn nứt rồi vỡ toạc. Mũi xẻng đập vào bệ đá làm
tung tóe những tia lửa. Không tìm được gì, Chu Bảo nhảy xuống đất. Tay
vẫn cầm xẻng, nó tiếp tục đập phá bức tường hòng tìm thấy một cánh cổng
bí mật dẫn đến phòng chứa châu báu. Nhìn thấy bức tường đẹp đẽ bị phá
hủy dưới mũi xẻng của Chu Bảo, Thẩm Phong hối hận vì đã theo bạn và đồng lõa với hành động cướp phá của nó. Chu Bảo giờ đang đào mặt đất.
Thẩm Phong, lòng ngổn ngang, túm lấy vai Chu Bảo rồi la lên:
- Trời sắp sáng! Đi thôi.
Chu Bảo gào thét:
- Bình Ngữ không nói dối! Bộ xương không hề mang nữ trang quanh cổ, không ngậm ngọc trai trong miệng, không cầm ngọc thạch trong tay. Đó chỉ là
một con hầu còn bà chủ nằm ở phòng kế bên!
- Đi thôi! – Thẩm Phong giận dữ trả lời. – Nếu để lũ chó phát hiện và các nữ tu bắt được chúng ta, chúng ta sẽ chết.
- Tao mặc kệ! Tao không đi chừng nào chưa tìm được châu báu của tao. Thả tao ra!
Chu Bảo huých Thẩm Phong rồi tiếp tục đào bới.
- Tao về – Thẩm Phong nói với nó. – Đi với tao.
- Mày đi đi! Để tao yên!
Thẩm Phong vẫn cố gắng:
- Đi. Ra khỏi đây.
Chu Bảo nhào vào chàng rồi đẩy chàng ngã xuống đất.
- Cút đi, thằng hèn! Tao không muốn thấy mày nữa!
Khi Thẩm Phong chuẩn bị xuống lại hầm, chàng nghe tiếng gọi sau lưng mình:
- Chờ đã!
Chu Bảo ngã xuống đất, dựa vào tường. Đầy bùn và bụi, nó giống như một con
chuột đang hấp hối. Thẩm Phong ngồi xuống bên nó. Người Trung Hoa đi vào cõi chết với ít nhất là một vật thuộc về họ. Ngay cả các sư sãi cũng
được chôn với tràng hạt. Chu Bảo có vẻ đã đúng. Cái xác chỉ là kẻ thế
thân, người chết thật ở chỗ khác, có lẽ không phải trong nghĩa địa này.
Lo sợ mộ mình bị phá hoại, cơ thể mình bị ô nhục và danh dự bị vấy bẩn,
tướng Chu Du đã cho xây bảy mươi hai ngôi mộ để đánh lừa kẻ thù và
phường trộm mộ. Thẩm Phong nhìn khắp căn phòng rồi dừng lại ở nắp quan
tài nằm trên mặt đất. Nếu cái hang này chỉ chứa một kẻ thế thân, tại sao lại quàn một bà hoàng giả trong một quan tài làm bằng gỗ nghìn năm tuổi đặt trên bệ đá có họa tiết chạm khắc tinh xảo? Tại sao những bức vẽ
trên tường được mạ vàng lại vẽ vẻ huy hoàng trên đường người chết về
trời? Tại sao không đặt những đổ cúng tế rẻ tiền để làm hài lòng những
tên đào mộ thô lậu và để chúng đi mà không muốn tìm thêm gì nữa?
- Phật tổ ơi, sự từ bi của ngài mà ai cũng nói là vô biên đâu rồi?… Bình Ngữ không thể chết… – Chu Bảo rên xiết.
Thẩm Phong đứng dậy rồi nhớ ra tay buôn đổ cổ Lưu Bé Bự đã đặt chàng làm một cây đàn cổ cầm giả cổ.
- Hãy giúp tao đưa cái nắp quan tài xuống hầm, – chàng nói.
- Nó chẳng giá trị gì, chỉ để nhóm lửa thôi! Kệ nó! Tao sẽ vặn cổ những thằng lữ khách đi một mình để cướp tiền.
- Nhấc nắp quan tài lên, tao nói mày đó.
- Thôi bỏ đi! Tao mệt lử rồi.
Thẩm Phong buộc lòng phải giải thích:
- Mang nó về! Một cây đàn được làm bằng thứ gỗ cổ này sẽ mang lại rất nhiều tiền. Sẽ đủ cho mày và Bình Ngữ rời khỏi thành…
Bên ngoài, sao đã mờ dần. Ở phía đông, mỏm đá núi bắt đầu đỏ lên. Thẩm
Phong và Chu Bảo vội vã lấp cửa hang lại, trèo qua tường nghĩa địa rồi
xuống núi bằng con đường yêu thích của lũ nai rừng.
Thẩm Phong
sải từng bước dài. Chu Bảo nghiêng ngả theo sau, im lặng, bị cơn mệt và
nỗi thất vọng chiếm cứ. Trước khi mặt trời lên cao trên vòm trời, chúng
đã kịp đến bờ hồ sâu cuối thung lũng. Chúng nhảy xuống nước để từng cục
đất dính trên quần áo và tóc trôi ra, nổi lềnh bềnh. Bất thình lình,
giữa dòng nước ngập bùn, Chu Bảo đứng thẳng dậy.
- Thẩm Phong! Thẩm Phong! – Nó la lên quên cả lau mặt. – Mày làm cây đàn cổ cầm trong bao lâu?
- Hai năm để xử lý gỗ và sáu tháng đục đẽo. Sao vậy?
- Hãy quên câu hỏi của tao đi! Mày đã lừa được tao, thằng khốn!
Chu Bảo rã rời lên khỏi hồ. Không nói một lời, cũng không ngoảnh lại, nó đi giày, chạy và biến mất trong rừng.
Mặt trời hiện ra trên vòm trời vuông bị cây cối cắt xẻ rồi ném xuống một
cơn mưa những mũi tên ánh sáng trên mặt hồ. Thẩm Phong thấy mình đứng
giữa những tia lửa vàng và xanh. « Xem Chương Cũ Hơn