Cũng không biết Mộc Phong Đình
thương lượng với những tiểu đạo sĩ này như thế nào, ba người ở Tế Thiện Đường
nghỉ ngơi tá túc một đêm, hôm sau dùng xong điểm tâm liền khởi hành lên núi.
Chỉ thấy trong nắng sớm, Thục
Sơn khí thế hào hùng, sừng sững cao tuyệt. Đỉnh núi như đội đất chọc trời, cheo
leo trơ trọi, cao vút độc tôn. Giữa đỉnh núi lại có một hang động thiên nhiên
rộng rãi xuyên núi, cao chừng trăm trượng, trải dài từ sườn nam đến bắc, như
cửa huyền quan, nuốt mây phun sương. Lại giống như một tấm gương sáng khảm trên
màn trời xanh thẳm, như họa như bình, đoạt tạo hóa của trời đất, nhận linh khí
của vạn vật, có thể nói quỷ phủ thần công (tay
nghề điêu luyện, sắc sảo).
Soái ca ‘tự nhiên’ thấy Mạc Hi
vẻ mặt vô cùng tán thưởng, giới thiệu: "Cảnh này tên là ‘cửa trời phun
sương’. Vô luận thời tiết biến hóa như thế nào, nơi đây quanh năm mây mù bốc
hơi, mỹ lệ vô cùng. Ngày âm u có ngàn đám mây bay, ngày trời trong có hào quang
vạn trượng, biến hóa thất thường, giống như chất chứa huyền cơ vô tận của thiên
địa, tựa như cảnh ảo. Sử kí của đất Thục từng ghi lại: "Thời huyền cổ, có
người bản xứ thấy hào quang từ trong mây tỏa ra, ánh tím quấn quanh, ngày càng
mở rộng, chiếu khắp bầu trời, cho là điềm lành, cung kính phục bái". Cho
nên đỉnh Thục Sơn còn được gọi là 'vân mộng tuyệt đỉnh'."
Lạc Hằng tiếp lời nói:
"Cửa trời vốn tượng trưng cho điềm lành của thiên giới, tục truyền mỗi khi
thiên địa âm dương luân hồi, sẽ có rất nhiều khổ nạn ập xuống nhân gian, lúc
này mọi người chỉ có lên cửa trời ở Thục Sơn khẩn cầu trời xanh ban cho bình an
hạnh phúc, tự mình vượt qua "Thiên môn khảm", mới có được đạo nhập
thế. Bởi vậy hàng năm hai mùa xuân hạ đều có vô số người hành hương mong muốn
bình an, may mắn, phú quý cát tường tới đây cầu nguyện. Năm đó ta vừa thành
thân, đã từng cùng nội tử (vợ) tới
đây." Có lẽ là rơi vào hồi tưởng, hắn rất lâu không nói thêm gì nữa.
Là cửa trời, tất nhiên không
thể tùy ý cúng bái, nếu không người ta đã không nói khó như lên trời. Chỉ có
người tâm hồn trong sáng, bền gan vững chí, mới có thể đến thiên môn thánh
cảnh. Bởi vì thông đạo duy nhất thông đến cửa trời, chính là một cái
"thang trời trên không" chín trăm chín mươi chín bậc! Đường này có ý
năm bước bốn dốc, hợp thành chín chín, biểu thị đường đời nhấp nhô lên xuống,
phải trải qua nhiều gian nan lận đận mới thành châu báu.
Mộc Phong Đình nói:
" Mạc Hi nghe vậy, tháo dây cột
tóc màu xanh nhạt trên đầu xuống, đi tới cột lên đài "Trường Sinh".
Mộc Phong Đình nhìn sợi dây cột
tóc phất phơ trong gió lạnh, hỏi: "Cô nương còn trẻ như thế, sao phải lo
lắng về tuổi thọ?"
Mạc Hi mỉm cười, không đáp hỏi
lại: "Không biết huynh cầu cái gì?"
Mộc Phong Đình mỉm cười nói:
"Trải qua phong ba, hướng đến đất Phật. Ta cả đời chỉ cầu được làm theo ý
mình." Thấy Mạc Hi không cho là đúng, hắn lại bổ sung nói: "Có lẽ cô
nương sẽ nghĩ tại hạ không biết trời cao đất rộng. Kỳ thật cũng chỉ là đổi cách
thức, núi không theo ta thì ta theo núi, như vậy liền có thể vừa lòng đẹp
ý."
Mạc Hi không khỏi mỉm cười gật
đầu, nàng lúc trước không đồng ý bất quá cũng chỉ là cảm thấy đời người việc
không như ý đã có tám chín. Lời nói của soái ca ‘tự nhiên’ tuy rằng nghe qua có
chút tinh thần AQ*, nhưng lại có một cảm giác đại trí giả ngu, giống như nhân
vật hào phóng như hắn lòng dạ rộng rãi cũng không phải là không thể.
* AQ là nhân vật chính trong tác phẩm AQ chính truyện của Lỗ Tấn, AQ
luôn tự tìm kiếm sự chiến thắng về tinh thần, luôn cho rằng mình hơn tất cả mọi
người về mọi mặt, không bao giờ chấp nhận thua dù thực tế là hắn thua. Tinh
thần AQ là tinh thần lạc quan, tự tin một cách quá đáng vào bản thân, tự tin mù
quáng mà không căn cứ vào thực tế.
Thang trời trước mắt giống như
một cầu vồng nối trên trời và nhân gian, lại giống như một con rồng lớn bay
lượn trên trời xanh mây trắng, dựa núi áp thành, ngoi lên tận trời, thật rất
khoáng đạt kỳ tuyệt.
Một mạch leo lên mười bậc, vô
luận là vách đá cheo leo, đường nhỏ giữa núi, hay là rừng cây bụi hoa, nơi tầm
mắt nhìn đến đều phủ lên một lớp bông tuyết thật dày, thác băng, nhũ băng,
sương muối, băng hoa có thể thấy ở khắp nơi, tùy theo hướng gió khác nhau mà
tạo thành hình dạng khác nhau. Mạc Hi ngước mắt nhìn một mảnh xanh thẳm trên
đầu, ánh nắng từ bầu trời cao xa chiếu xuống, cả núi trong suốt lấp lánh như
lưu ly, tựa như đặt mình trong vương quốc thủy tinh.
Càng lên cao, Lạc Hằng đi càng
chậm, Mạc Hi nghe hắn hô hấp dồn dập, sắc mặt ửng đỏ, liền biết đã có phản ứng
cao nguyên (càng lên cao không khí càng
loãng, lượng oxy ít nên dẫn đến chóng mặt, khó thở,…). Tuy rằng còn chưa
đến đỉnh, nhưng độ cao nơi này cũng hơn một ngàn mét so với mặt nước biển. Thật
làm khó một người không có võ công như hắn.
Mộc Phong Đình hiển nhiên cũng
phát hiện Lạc Hằng không khoẻ, hắn nói với hai người: "Chờ một chút, ta đi
rồi về ngay." Vừa dứt lời thân hình đã lướt lên, vọt qua một vách núi cheo
leo. Tư thế bay lên kia, phiêu hốt như thần, rất có dáng vẻ tùy ý tiêu sái tung
hoành giữa trời đất.
Hắn hái thứ gì đó trên một bụi
cây mọc hoang nơi vách núi, phút chốc liền nhảy xuống bậc thang đầy tuyết
trắng, đưa cho Lạc Hằng vài lá cây hình trứng, mép lá nhẵn bóng, nói:
"Huynh hẳn là nhận ra. Nhai vào sẽ tốt hơn."
Lạc Hằng cám ơn, nói: "Thì
ra là 'thánh thảo'." Hắn vội nhai một lá, lại thở dài: "Không thể
tưởng được tiểu huynh đệ công phu lại cao tuyệt như thế. Thật sự là người không
thể nhìn bề ngoài. Lúc trước huynh nói mang ta lên núi, ta còn tưởng rằng huynh
nói khoác."
Mộc Phong Đình biết ý của Lạc
Hằng, cũng không vạch trần. Thục Sơn này Lạc Hằng vô luận như thế nào cũng phải
lên, làm sao nỡ nói Mộc Phong Đình không thể giúp hắn, khiến người khó xử.
Mộc Phong Đình nói với Mạc Hi:
"'Thánh thảo' này tên thường gọi là 'lục kim tử', có thể làm thuốc. Ức chế
phản ứng cao nguyên, gia tăng thể lực, không còn gì tốt hơn."
Mạc Hi gật gật đầu, nàng đoán
cái gọi là 'thánh thảo' này cùng với lá coca của hiện đại cũng không khác là
bao. Cây coca vốn sinh trưởng tại Nam Mỹ, cocaine chính là một loại thuốc phiện
hữu hiệu. Cocaine là một loại thuốc kích thích trung khu thần kinh tự nhiên, có
thể dùng để gây tê, hiệu quả mạnh mà có sức, nhưng dùng liên tục sẽ khiến người
ta yếu đi. Người dùng sẽ hưng phấn, sung sướng, tinh lực dư thừa, cảm thấy mình
không gì không làm được. Chỉ là sử dụng một lượng lớn trong thời gian dài sẽ
tạo thành nguy hại rất lớn đối với cơ thể. Nhưng như Lạc Hằng nhai nuốt một ít
lá chưa tinh chế như vậy sẽ không ngại.
Cứ như thế, hai người lại mang
theo Lạc Hằng nỗ lực đi nửa ngày, cuối cùng cũng tới cửa trời.
Chỉ thấy ánh sáng bảy màu từ
trong động chiếu ra, chung quanh tươi sáng rực rỡ, trên sườn núi đón gió có một
khoảnh lớn toàn hoa mai rừng, cánh hoa phấn trắng bay bay như mưa, phảng phất
như lạc vào tiên cảnh.
Thật làm cho người ta có một
loại cảm giác "ngã dục thừa phong khứ, quy vu thiên cung khuyết" (ta muốn bay theo gió, đi đến nơi thiên cung
lầu gác).
Chỉ là muốn tới đỉnh Thục Sơn,
lúc này mới đến giữa sườn núi, vẫn còn rất xa. Nhưng muốn lên tiếp lại không có
thang leo lên, cho dù là ba mùa xuân, hạ, thu, nếu không phải người có võ công
trác tuyệt, muốn lên đỉnh không khác gì khó như lên trời, càng không cần phải
nói lúc này đang là mùa đông tuyết lớn gió mạnh.
Mạc Hi nói: "Chúng ta thay
phiên mang Lạc Hằng lên đi."
Mộc Phong Đình nói: "Cũng
được. Ta đưa trước."
Ai ngờ Lạc Hằng lại nói:
"Tại hạ sao có thể để một cô nương mang lên, hơn nữa..." Mạc Hi thấy
hắn muốn nói lại thôi, biết hắn có ý nghi ngờ võ công của mình không tốt, cũng
không cãi lại, chỉ mỉm cười, nói với Mộc Phong Đình: "Vậy xin nhờ huynh
trước."
Mộc Phong Đình cõng hắn, một
hơi liền nhảy lên hơn trăm trượng. Lạc Hằng thấy Mạc Hi một đường theo sát,
dáng vẻ phiêu diêu, vẻ mặt điềm tĩnh, thầm nghĩ: "Ta quả nhiên là ếch ngồi
đáy giếng, lúc ở quân doanh nghĩ rằng công phu của mình đã coi như tốt, ai ngờ
cho dù mình chưa bị thương cũng kém một ngón tay của tiểu cô nương người
ta." Lại sợ mình mới vừa rồi khinh thị, đắc tội nàng, liền nghĩ nên như thế
nào xin lỗi mới tốt, ngược lại tạm thời giải trừ sự thấp thỏm không yên trong
lòng sợ đến đây không biết có thu hoạch hay không.
Cứ thế lao nhanh, ba người cũng
không nói chuyện với nhau, ước chừng qua nửa ngày. Còn khoảng một phần tư đoạn
đường liền đến đỉnh núi. Chỉ là Mộc Phong Đình mang Lạc Hằng khó tránh khỏi khí
lực không đủ, liền thả hắn xuống dưới nghỉ ngơi.
Mạc Hi nói: "Kế tiếp để ta
cõng hắn cho." Nhanh chóng đến đỉnh núi trước khi trời tối mới là thượng
sách.
Lạc Hằng thấy Mộc Phong Đình
không có ý kiến gì khác, liền gượng gạo lên lưng Mạc Hi. Mộc Phong Đình thấy
Mạc Hi dưới chân dùng lực một chút, dáng người đúng là không chút cố sức vọt
đi, thầm nghĩ: "Mới qua mấy ngày, võ công của nàng lại tiến bộ rồi."
Bên này Mộc Phong Đình âm thầm
tán thưởng, bên kia Lạc Hằng cũng là âm thầm kêu khổ, hắn đường đường là nam
nhi bảy thước, dựa trên người một cô nương gầy yếu như thế, tay dài chân dài
đều không biết nên để ở chỗ nào, chỉ chốc lát tay chân liền cứng ngắc, thật sự
là khổ không thể tả.
Mạc Hi đương nhiên cũng cảm
thấy hắn không được tự nhiên, lại làm như không biết. Trong lòng oán thầm: cô
nương ta đồng ý cõng ngươi, là phúc khí ngươi đã tu luyện mấy đời, còn đến
phiên ngươi kén chọn nữa à. Huống hồ nếu Mộc Phong Đình thằng nhãi này đủ lợi
hại, cô nương ta cũng không thèm làm việc khuân vác này đâu.
Khi đoạn đường còn chừng hai
chung trà, Mộc Phong Đình vượt lên nói: "Ta nghỉ ngơi đủ, đến lượt ta đi.
Cô là con gái, chung quy không tiện."
Mạc Hi thật vui sướng khi thoát
khỏi bao cát thịt người Lạc Hằng này, đương nhiên vui vẻ đồng ý. Thầm nghĩ:
"Soái ca ‘tự nhiên’ cũng không phải luôn khiến người ghét." Tuy rằng
bao cát Lạc Hằng này là Mộc Phong Đình chủ động vác trên người (ý nói Mộc Phong Đình rủ rê Lạc Hằng đi
cùng), nhưng bỗng nhiên được thoải mái, nàng đại nhân có đại lượng, cũng sẽ
không so đo nhiều như vậy.
Mộc Phong Đình lại cõng Lạc
Hằng đi tiếp. Đoàn người cuối cùng cũng tới "vân mộng tuyệt đỉnh".
Từ đỉnh núi nhìn xuống, khắp
nơi trắng xóa, núi uốn lượn như con rắn bạc, đóng băng ngàn dặm. Từ đỉnh núi
đến chân núi đều là băng tuyết mênh mông trùng điệp, ngàn vạn bông tuyết như
sương lóng lánh, nở rộ trên vạn dặm núi tuyết, tạo nên một thiên đường bát ngát
băng thanh ngọc khiết.
Theo thường lệ, việc giao tiếp
với người khác Mộc Phong Đình toàn bộ bao hết, tùy hắn đi gõ cửa.
Tiểu đạo sĩ mở cửa nhìn thấy
đoàn người bọn họ vô cùng kinh ngạc, có lẽ là không ngờ rằng trong lúc tuyết
lớn gió lạnh còn có người có thể lên kim đỉnh. Nhưng tiểu đạo sĩ cũng biết
người lúc này có thể lên đỉnh núi ắt có võ công phi phàm, vì thế cực khách khí
đón bọn họ vào.
Phong cách kiến trúc của Thục
Sơn hoàn toàn khác biệt với Đường Môn nguy nga sừng sững, nhưng đều là nhà trệt
nối nhau bằng hành lang gấp khúc. Thứ nhất đỉnh núi hiểm trở không thể xây lầu
cao, thứ hai vẻ đồ sộ của Thục Sơn vốn nằm ở tiên sơn thắng cảnh chứ không phải
từ mái nhà phòng ốc. Cho nên chủ thể kiến trúc của Thục Sơn phái chia làm ba
gian hai điện, hậu điện là nơi chuyên dành cho khách đến nghỉ tạm. Dãy nhà trệt
này dựng trên dãy núi, lại không chút tổn hại đến khí thế khoáng đạt ở ngoài
kia. Ngoài điện cổ mộc chọc trời, thanh u nghiêm nghị. Gió núi thổi tầng tầng
tuyết trắng trên đất thành một mảnh bụi mờ, lầu gác ngàn năm, càng được tô điểm
thêm vẻ thanh tịnh trang nghiêm.
Ba người rất nhanh được sắp xếp
phòng, đều tự nghỉ ngơi không nói thêm gì.
Hôm sau, Mạc Hi tìm nơi yên
tĩnh để múa kiếm trong tuyết. Cánh tay phải của nàng vung lên, ngưng tụ khí lực
vào thân kiếm, cổ tay lượn vòng, dần dần không khí chung quanh hình thành một
luồng khí xoáy nhỏ, từng hạt tuyết bay chậm rãi tụ thành lốc xoáy mắt thường có
thể thấy được, theo cổ tay càng chuyển càng nhanh, bông tuyết hình thành lốc
xoáy cũng càng cuốn càng lớn, cuối cùng đột ngột dừng lại, bông tuyết tụ lại
trong nháy mắt lả tả rơi xuống.
Phía sau vang lên vài tiếng vỗ
tay.
Mộc Phong Đình nói: "Cô
nương kiếm pháp thật hay. Chiêu thức này có tên là gì?"
Mạc Hi kỳ thật sớm biết rằng
hắn đến đây, nhưng khoảnh khắc vừa rồi nàng rơi vào ngộ đạo, không tiếc bị
người nhìn thấy cũng vạn không thể thu thế. Phải biết rằng, loại cảnh giới này
thường có thể gặp mà không thể cầu, nếu một khi bị cắt ngang, rất có thể sẽ
không xuất hiện lại.
Mạc Hi lắc đầu nói: "Không
có."
Mộc Phong Đình nói: "Thật
ra tại hạ lại nghĩ đến cái tên 'Hồi Phong Vũ Tuyết', đáng tiếc đã có người
dùng."
Mạc Hi chuyển hướng nói:
"Huynh tới tìm ta sớm như vậy, có việc gì sao?" Trong lòng lại thầm
mắng: tên nhóc này lại muốn lấy kiếm pháp đắc ý nhất của Thục Sơn người ta để
đặt tên cho chiêu số lung tung nàng tự nghĩ ra, muốn hại chết nàng sao!
Mộc Phong Đình nói: "Tại
hạ cùng chưởng môn Thục Sơn mặc dù chưa từng gặp mặt, nhưng đã có hẹn trước. Ta
mặc dù không biết vì sao cô nương đến Thục Sơn, nhưng nếu là vì cầu kiến Cù
chưởng môn mà đến, có thể cùng tại hạ còn có Lạc đại ca tiến đến bái
kiến."
Mạc Hi vui vẻ đáp ứng.
Ba người dùng xong điểm tâm,
liền theo tiểu đạo sĩ dẫn đường đến "Bích Tiêu Các" là nơi chưởng môn
tiếp khách.
Trên "Bích Tiêu Các"
chính là Thục Sơn kim đỉnh nổi tiếng thiên hạ. Đứng trên thang treo ở Bích Tiêu
Các, dựa vào lan can trông về phía xa, chỉ thấy bốn phía sóng mây cuồn cuộn,
cùng với tuyết trắng xóa tạo thành một mảnh mênh mông tinh thuần như áo trời
không vết. Trời mây một màu, một luồng khí khoáng đạt như thuở hồng hoang phả
vào mặt.
Mạc Hi thầm nghĩ: phái Thục Sơn
khiến nhân sĩ võ lâm kính sợ thán phục như thế, ngoại trừ do địa vị Thái Đẩu (Thái Sơn Bắc Đẩu: chỉ những môn phái trụ
cột, có danh tiếng lớn) võ học trên giang hồ, Thục Sơn kim đỉnh với khí thế
hùng vĩ duy ngã độc tôn (chỉ riêng mình
ta) như thế chỉ sợ cũng là một trong những nguyên nhân.
Còn chưa bước vào trong điện,
một người trung niên chừng hơn bốn mươi tuổi liền ra đón, nhiệt tình nói:
"Các vị đường xa mà đến, Cù mỗ đã không tiếp đón từ xa." Người tới có
khuôn mặt chữ quốc (国 mặt vuông), tướng mạo vô cùng đoan chính. So với chưởng môn Thục
Sơn hoặc đạo cốt tiên phong hoặc phóng đãng không kềm chế được trong tưởng
tượng của Mạc Hi khác nhau một trời một vực. Nơi tiên sơn bảo địa như thế, ở
chỗ này lâu ngày, như thế nào cũng phải dưỡng ra hai phần tiên khí chứ. Hơn nữa
xem tác phong làm việc của Hà Quần Thanh thực có vài phần điên cuồng không quan
tâm, không nghĩ lại chọn ra một người thừa kế "đoan trang" như vậy.
Mạc Hi thầm nghĩ: Cù Diệu lấy
thân phận chưởng môn một đại phái của võ lâm ra đón tiếp, nếu nói là bình dị
gần gũi đến trình độ như vậy cũng hơi quá mức. Ông ta làm vậy hiển nhiên không
có khả năng là vì mình hay Lạc Hằng, xem ra thân phận Mộc Phong Đình nhất định
không bình thường.
Quả nhiên nghe Mộc Phong Đình
cười nói: "Làm phiền Cù chưởng môn tự mình đón chào, Mộc mỗ thật không dám
nhận." Dứt lời từ trong lòng lấy ra một viên đá màu máu gà, đưa cho Cù
Diệu. Có lẽ là tín vật nghiệm minh bản thân.
Cù Diệu nhận lấy, lấy hồng ấn
trên bàn bên cạnh, nhẹ nhàng nhấn trên giấy trắng một cái, một con phượng hoàng
lửa đỏ bừng bừng hiện trên giấy. Không ngờ là dấu hiệu của Mộ Yến Trai.
Mộc Phong Đình lại vái chào
nói: "Đa tạ Cù chưởng môn đáp ứng cho tệ trai viết sách."
Mạc Hi thầm nghĩ: thằng nhãi
này cư nhiên là biên tập của Mộ Yến Trai. Khó trách đối với những chuyện trong
chốn võ lâm biết rất rõ ràng, chỉ sợ không ít lần vào Nam ra Bắc săn tin, đối
với việc sinh tồn nơi hoang dã rất có kinh nghiệm.
Cù Diệu khách khí nói:
"Không dám. Không dám."
Hai người hàn huyên đã xong, Cù
Diệu mới chuyển hướng nói với Lạc Hằng: "Không biết vị này là..."
Lạc Hằng nói: "Tại hạ Lạc
Hằng. Có một chuyện muốn nhờ."
Lạc Hằng còn chưa kịp nói tỉ
mỉ, Mộc Phong Đình đã giành trước mở lời, tài ăn nói của hắn rất tốt, đem
chuyện làm sao ở "Tế Thiện Đường" dưới núi gặp được Lạc Hằng, như thế
nào cảm thông tình cảnh thống khổ vì thế đã đưa hắn cùng lên núi nói sinh động
như thật.
Đợi hắn lưu loát nói hết một
hơi, Mạc Hi cảm thấy nếu Cù Diệu không giúp Lạc Hằng vậy quả thực là thiên lý
không tha.
Vậy còn chưa xong, chỉ nghe Mộc
Phong Đình lại nói: "Cù chưởng môn, công đức tế thế cứu nhân của ông,
khiến tại hạ rất là khâm phục, tại hạ nhất định sẽ dùng ngòi bút trong tay phát
dương quang đại, để người trong thiên hạ noi theo thiện tâm của ông. Việc Cù chưởng
môn nhiệt tâm tương trợ Lạc đại ca nhất định cũng sẽ làm người trong thiên hạ
kính phục."
Mạc Hi âm thầm hít một ngụm khí
lạnh, Mộc Phong Đình tên này thật là phi thường lợi hại, há miệng liền có thể
nâng người lên trời xuống đất, chỉ mấy lời đã khiến Cù Diệu đâm lao phải theo
lao, không thể không giúp.
Quả nghe Cù Diệu nói: "Xin
các vị yên tâm. Cù mỗ nhất định đem hết khả năng để giúp đỡ."
Cù Diệu cuối cùng mới chuyển
qua nói với Mạc Hi: "Vị cô nương này cùng đi với hai vị, không biết có
việc gì?"
Mạc Hi từ trong lòng lấy ra
khối mặt ngọc Hà Quần Thanh cho nàng, hai tay cung kính đưa lên, nói: "Tôi
cùng với tiền chưởng môn Hà tiền bối của quý phái từng gặp mặt một lần. Vì báo
cho Hà tiền bối biết một chuyện cũ năm xưa, giải đi khúc mắc nhiều năm của ông
ấy, nên Hà tiền bối có ý nâng đỡ vãn bối, liền đem tặng bội kiếm Thừa Ảnh, cũng
dặn tôi lấy mặt ngọc này làm bằng, đến Thục Sơn lấy kiếm."
Mạc Hi tại bến đò Phong Lăng
nghe nói Thừa Ảnh là tín vật truyền thừa của chưởng môn Thục Sơn đời sau, cũng
từng nghĩ tới không báo mà lấy (trộm ấy
mà), rồi chạy luôn. Chỉ là trải qua sự quấy nhiễu của Mộc Phong Đình, nàng
nay lại lộ diện trước mặt Cù Diệu, việc trộm rồi bỏ trốn liền vạn vạn không
thể, cho dù đắc thủ cũng hậu hoạn vô cùng.
Cho nên nàng quyết định nói
thẳng, cho dù Cù Diệu không đồng ý, chỉ cần có tín vật của Hà Quần Thanh ở đây,
sẽ không tính là vu khống, tương lai có một phần vạn cơ hội lại tìm được Hà
Quần Thanh, việc này còn có đường sống.
Huống chi trong mắt nàng, mặc
dù Thừa Ảnh là một món thần binh tuyệt thế, cũng không đến mức vì nó gặp phải
quái vật lớn như phái Thục Sơn vậy.
Thật không ngờ Cù Diệu không có
từ chối ngay, sau khi trầm ngâm thật lâu, mới nói: "Cô nương, Thừa Ảnh cô
muốn lấy chẳng những là vật riêng của tại hạ, còn là chí bảo của Thục Sơn."
Mạc Hi vừa nghĩ không còn hi vọng, không ngờ ông ấy đổi giọng, lại nói:
"Chỉ là Hà chưởng môn công phu cao tuyệt, đương thời vô nhị (không có người thứ hai ở thời này), mặt
ngọc này quả thật là ấn tín chưởng môn của ông ấy, có thể thấy tặng kiếm quả
thật là ý của Hà chưởng môn. Hà chưởng môn ở tệ phái địa vị rất cao, ý nguyện
của ông ấy tại hạ đương nhiên không thể làm trái." Ngừng một chút, ông ta
nói tiếp: "Như vậy đi, cô nương xin nấn ná lại Thục Sơn mấy ngày, đợi sau
khi thương nghị cùng vài vị trưởng lão sẽ có câu trả lời thuyết phục."
Mạc Hi không nghĩ tới Cù Diệu
dễ nói chuyện như vậy, thấy còn có hi vọng, đương nhiên khách khách khí khí đáp
ứng.
Việc ba người thỉnh cầu chỉ
trong một thời ba khắc liền có thể đạt thành, cho nên đều ở lại nơi này.