“Bẩm hoàng thượng, thần có chuyện cần khải tấu.” Trung thư thị lang Cao
Quang Viễn cao giọng xin thưa. Kể từ lần trước đến nay, Cao Quang Viễn
mới lại đứng ra bẩm tấu.
Lý Hạo khoát tay, hờ hững nói: “Chuẩn tấu.”
Cao thị lang bước ra, lên tiếng: “Bẩm hoàng thượng, thần mới nhận được tin
cấp báo, ở lộ Hồng đột nhiên bùng phát dịch bệnh đáng sợ, những người
mắc bệnh bị triệu chứng nóng sốt liên tục, khắp người nổi lên mụn nước,
mẩn đỏ. Dân tình ở đó hiện nay đang rất hoang mang. Tin cấp báo dồn dập
gửi về, khẩn xin triều đình cứu trợ nhân dân.”
Tỏ vẻ bàng hoàng,
Lý Hạo gấp gáp hỏi: “Lại có dịch bệnh đáng sợ như thế? Bây giờ phải làm
sao? Các khanh mau nghĩ cách để giải quyết vấn đề.”
Thái úy phụ
chính Tô Trung Từ dõng dạc cất tiếng: “Vấn đề này cần phải hỏi thượng
thư bộ lễ mới phải. Huỳnh thượng thư, ngài có cao kiến gì, mau nói ra để mọi người cùng bàn bạc.”
Thượng thư bộ lễ Huỳnh Xuân Trinh lập
cập đi lên: “Bẩm hoàng thượng, dịch bệnh này có thể là bệnh truyền nhiễm lạ mới xuất hiện. Vấn đề cấp bách hiện nay, là phải cử ngay người của
viện Thái y mau chóng tới vùng bệnh để kịp thời chữa trị, ngăn ngừa căn
bệnh lan rộng trong toàn dân. Và đội ngũ đi cứu chữa cần phải có người
dẫn đội đủ danh vọng, để chủ trì những chuyện phát sinh ngoài ý muốn.”
“Được, các ái khanh, có ai nguyện ý đi xử lý chuyện này?” Lý Hạo hồ hởi nói.
Cả điện chầu im phăng phắc, không một ai đáp ứng lời đề nghị. Đùa à? Tới
vùng có bệnh truyền nhiễm. Đầu óc ngươi bị nhúng nước hay gì? Đi làm
chuyện dại dột như vậy, trừ phi ngươi ngại sống quá lâu.
Đời là
thế! Chuyện tốt thì ai cũng nhảy vào tranh nhau sứt đầu mẻ trán. Chuyện
nguy hiểm, không lợi lộc thì ai cũng từ chối lắc đầu, đùn đẩy cho nhau.
Ngay lúc Lý Hạo định nói vài câu khuyến khích, một âm thanh khàn đục, già
nua chợt vang lên: “Khụ khụ, bẩm hoàng thượng thần nguyện lĩnh đội đi
tới vùng bệnh, khụ khụ, cứu chữa bệnh dân.” Lão Thái úy Đỗ Kính Tu ở
tuổi gần đất xa trời, đã lâu không phát biểu lời nào, đột nhiên ôm ngực
ho khan, bước ra gánh vác trách nhiệm nặng nề. Quả thực khiến cho những
quan viên đương trường phải đỏ mặt xấu hổ.
“Đỗ ái khanh, ngài đã
già như vậy, đâu cần phải đi tới vùng xa xôi, lại còn nguy hiểm, để chịu cực chịu khổ.” Lý Hạo lo lắng bảo.
Gương mặt Đỗ Thái úy tiều tụy xanh xao như tàu lá chuối, nhưng giọng điệu cương quyết: “Bẩm hoàng
thượng, sức khỏe thần vẫn còn rất tốt, thần làm quan chỉ mong góp sức
giúp đời. Nay dân chúng gặp tai ương, bệnh dịch, thần xin đi tận nơi thị sát tình hình, góp chút tài mọn. Thần mong mỏi hoàng thượng đáp ứng
thỉnh cầu.”
Bất đắc dĩ lắc đầu, Lý Hạo thở dài: “Được rồi, ý
khanh đã quyết, trẫm cũng không cản nữa. Trẫm hạ chỉ, Thái úy Đỗ Kính Tu toàn quyền chỉ huy vấn đề phòng trừ bệnh dịch ở lộ Hồng.”
Không ai để ý đến một chuyện, vùng đất Nam Sách do Phạm Lãi cai trị, nằm ở lộ Hồng.
* * * * * * * * * *
Sau hơn một tuần quan sát, cuối cùng Lý Hạo đã tìm được hai nhân tài đang
làm việc ở Sảnh. Người thứ nhất tên là Lý Văn Quý, thuộc một nhánh nhỏ
của gia tộc họ Lý. Cha mẹ của hắn mất từ sớm, may có thầy đồ ở cạnh nhà
thương tình nhận làm con nuôi. Thuở nhỏ, Lý Văn Quý nổi tiếng là người
ham học, thông minh, có trí nhớ tốt, học một biết mười. Năm lên mười
tuổi, hắn đã đọc được nhiều bài trong Kinh Thi. Năm hai mươi tuổi, hắn
đã học khắp kinh, truyện, các sử, các sách của bách gia chư tử.
Đỗ đạt cao trong kỳ khoa cử, hắn được bổ nhiệm làm chức quan Vệ đại phu.
Tiếc thay, bởi vì tính tình bộc trực, không có khiếu lăn lộn chốn quan
trường, Lý Văn Quý đắc tội một Thị lang họ Lý thuộc dòng dõi hoàng tộc.
Nên hắn bị đẩy vào Sảnh, làm chân lóc cóc leng keng, sắp xếp văn thư ở
đó, đến tận khi gặp được Lý Hạo. Và hắn không ngờ con đường quan lộ của
hắn đã bước sang trang mới kể từ cái ngày định mệnh ấy.
Người thứ hai tên là Ngô Công Tài, tính tình cẩn thận, chu đáo, thông minh, tháo
vát. Hắn được sinh ra và lớn lên ở vùng quê nghèo khổ, bằng cả ý chí nỗ
lực vươn lên, hắn học hành thành tài, lặn lội tới kinh thành, đi thi
khoa cử do triều đình mở. Hắn không hiểu tại sao bài thi của hắn làm rất tốt, điểm đạt rất cao, thế nhưng hắn vẫn không được cắt cử chức quan
nào, lại bị đẩy vào Sảnh để làm những công việc nhàm chán từ ngày này
qua tháng khác.
Ngô Công Tài cứ ngỡ vận mệnh của hắn đến đây là
hết, có lẽ suốt đời này hắn chẳng biết hai chữ “thăng quan” được viết
như thế nào. Ấy vậy mà, khi niềm tin của hắn suy sụp đến mức thấp nhất,
hắn lại gặp được người ấy. Người đã thắp lên hy vọng cho hắn, người đã
làm cho hắn hiểu lẽ sống nghĩa là gì, người đã cho hắn thấy tương lai
rạng rỡ của đất nước, tương lai huy hoàng của dân tộc Đại Việt.
Người ấy chính là đương kim hoàng đế Đại Việt, Lý Huệ Tông. Ngài đã triệu hắn đến điện Trường Xuân và trò chuyện rất lâu cùng hắn. Ngài hỏi mọi
chuyện về thân thế, quá khứ của hắn. Từ ánh mắt sắc bén của ngài, hắn
cảm giác như ngài có thể hiểu thấu mọi suy nghĩ trong lòng hắn. Không
dám giấu diếm nửa lời, hắn thành thực kể lại toàn bộ quá khứ của bản
thân.
Ngài rất thích thú trước những chuyện hắn kể, luôn miệng
tán dương không ngớt. Sau đó ngài cùng hắn đàm đạo nhiều vấn đề khác
nữa. Hắn càng trò chuyện thì càng bất ngờ trước những lý luận sắc bén
của ngài về tình hình đất nước, về phương hướng phát triển của đất nước
trong tương lai. Rồi ngài hạ chỉ cho hắn làm việc bên cạnh ngài, cùng
với hắn còn có một người nữa, cũng là đồng liêu với hắn ở Sảnh, Lý Văn
Quý.