Biết được bí mật mà Tiết Đình Chi viết sau cuốn tập,
là chủ nhiệm lớp, Tịch Nhan không quá ngạc nhiên, vẫn từng câu từng chữ sửa bài
cho học trò của mình như bình thường.
Một cô trò nhỏ bé yếu ớt, kiệm lời, vậy mà lại có thể
viết nên những câu văn đẹp khiến người ta kinh ngạc. Cô biết, trong trái tim cô
bé này là cả một thế giới rực rỡ sắc màu, đủ để cô chống chọi với thế giới u ám
thê lương bên ngoài.
Là vì cái tên mà cô đã giấu kín trong tim, vì cậu nam
sinh có nụ cười ấm áp ấy?
Gặp người thầy hay vị phụ huynh nghiêm khắc, cứng nhắc
nào đó, rất có thể đã coi đây là “yêu sớm”. Thế nhưng, đó liệu có thực đã là
tình yêu?
Đối với học sinh cấp hai, đó có thể gọi là “ái mộ”, âm
thầm lặng lẽ thích một người, hoặc có thể bị các bạn gán ghép thành một đôi,
hay chỉ vì không muốn cô đơn mà kiếm tìm một tình yêu nho nhỏ, liệu có mấy
người thực sự hiểu được “tình yêu” là gì? Chẳng qua chỉ xem vài bộ truyện tranh
Nhật Bản và phim thần tượng Đài Loan, rồi gặp một người khác giới khiến mình
ngưỡng mộ, trong lòng hiếu kỳ, cũng muốn học theo diễn tập thực tế một phen.
Thế nhưng, không ai có thể phủ nhận sức mạnh của chữ
“yêu”, và biết đâu đấy, đó lại là ánh chớp bừng lên trong đêm dài tối tăm, là
ánh sáng và hơi ấm duy nhất trong cuộc đời học sinh ảm đạm.
Nhờ vào vầng hào quang của Tô Hàng, Tịch Nhan đã đấu
tranh giải phóng bản thân mình ra khỏi chốn u ám thê lương, nếu không, cô vẫn
sẽ mãi bị cái thế giới tối tăm ấy trói buộc.
Ngày đầu tiên tới trường báo danh, tại hành lang văn
phòng, cô gặp lại cô giáo Đường, giáo viên chủ nhiệm lớp cấp hai ngày trước.
Người mà cô từng sợ hãi căm ghét suốt một thời niên thiếu, nay gặp lại chợt
thấy thân thiết vô cùng.
Đối diện với cô giáo cũ bây giờ hai bên tóc mai đã
chuyển màu hoa râm, cô cung kính cất tiếng chào: “Em chào cô, cô giáo Đường!”.
Cô giáo Đường nheo nheo mắt, ngẫm nghĩ hồi lâu, mới
nhận ra: “Ồ, Đỗ Tịch Nhan, là Đỗ Tịch Nhan ngồi ở dãy bàn cuối, lên lớp toàn
ngủ gật, là học sinh cá biệt điển hình, lười học phải không?”.
Tịch Nhan cười, có chút ngại ngần: “Cô vẫn nhớ hết vậy
sao?”
“Đương nhiên là nhớ rồi”, cô giáo Đường cười vui vẻ,
“Khi ấy nghe tin em và Tô Hàng yêu nhau, cô còn nghiêm khắc phê bình em một
trận. Có điều, năm đó em thay đổi nhiều quá, lại còn thi đỗ trường cấp ba có
tiếng của thành phố, giờ lại thành giáo viên, thực sự khó mà có thể tưởng tượng
được!”.
Đúng là khó mà tưởng tượng được, một học sinh với
thành tích hạng bét như Tịch Nhan, chỉ bằng nỗ lực của một năm cuối cấp, lại có
thể làm nên kỳ tích, bứt phá lên tốp đầu của lớp, rồi được trường cấp ba có
tiếng của thành phố tuyển chọn với thành tích xuất sắc hơn 30 điểm thi tốt
nghiệp.
“Thế còn Tô Hàng, em có tin tức gì của cậu ta không?”,
cô giáo Đường đột nhiên hỏi.
Tịch Nhan thất sắc, nhẹ lắc đầu: “Dạ, em cũng không rõ
lắm ạ”.
“Tô Hàng trước khi ra nước ngoài, còn trở lại trường
thăm cô một lần”, cô giáo chăm chú nhìn Tịch Nhan bằng ánh mắt hiếu kỳ, “Nghe
nói, em và cậu ta từng yêu nhau, có thật vậy không?”
Mười hai năm trước, cũng dãy hành lang này, cũng chính
cô giáo này, từng nghiêm mặt trách cứ cô tuổi còn nhỏ mà không lo học hành, lại
đi dụ dỗ cậu học sinh ưu tú là Tô Hàng yêu đương sớm, là con sâu bỏ rầu nồi
canh.
Vậy mà giờ đây, cũng vẫn cô giáo già sắp về hưu nhàn
rỗi ấy, lại quan tâm tới “chuyện tình yêu” của cô và Tô Hàng.
Nhìn vẻ mặt quan tâm của cô giáo đối diện, trong lòng
Tịch Nhan bỗng cảm thấy có chút khôi hài.
“Cô xem, kể cả giữa em và Tô Hàng có những tình cảm
vượt qua ranh giới tình bạn thật đi nữa, cũng bị cô tiêu diệt từ trong trứng
nước rồi còn đâu”, cô trả lời qua loa.
Cô giáo Đường thoáng bối rối, lúng ta lúng túng: “Là
cô giáo chủ nhiệm, cô cũng có cái khó của mình, chẳng qua là sợ yêu đương sớm
ảnh hưởng đến việc học của các em mà thôi?”
“Các em” ở đây khi ấy không bao gồm “Đỗ Tịch Nhan”. Tô
Hàng là học trò cưng, nghĩ cho thành tích của cả lớp, là một giáo viên chủ
nhiệm, tuyệt đối không thể để một học trò ưu tú như thế bị học sinh yếu kém lôi
kéo được.
Điều này thì Tịch Nhan hiểu, đã bao nhiêu năm trôi
qua, cô từ lâu đã quên đi những lời tổn thương mà cô giáo nói năm ấy.
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, chẳng mấy chốc mà tất
cả đều đã thành quá khứ, còn có gì mà không thể tha thứ? Ngôi trường năm xưa cô
chán ghét, nay lại trở về, và còn trở thành một cô giáo, một thành viên ở đó.
Cô đã trưởng thành, đã có đủ dũng khí để có thể mỉm
cười đối diện với cô giáo từng làm tổn thương lòng tự trọng của mình, dáng vẻ
nhẹ nhõm như mây bay gió thổi.
Thế nhưng, trong thâm tâm, cô vẫn sợ phải nghĩ tới quá
khứ. Mỗi khi nghĩ tới, lại không ngăn được cảm giác âu sầu.
Đương thời niên thiếu xuân áo mỏng. Trong những ngày
tháng ấy, càng đặt mình vào giữa mọi người, lại càng cảm thấy cô đơn.
Rời xa ông nội hiền từ, chuyển tới một nơi xa lạ. Niềm
vui gia đình sum vầy từng mất đi, không những không được bù đắp mà càng trở nên
xa cách, hời hợt bởi chia ly đã quá lâu. Ở nhà, nhìn bố mẹ và chị Triều Nhan
ngày ngày vui vẻ nói cười, thân mật với nhau, cô có cảm giác như mình là người
ngoài vậy.
Sáu tuổi nhập trường đi học, vẫn chưa hiểu biết, thành
tích kém đến không thể kém hơn. Trong con mắt khinh khi xem thường của thầy cô
và bè bạn, cô bắt đầu chán ghét chính bản thân mình, mặc cảm tự ti mình là
người vô dụng.
Tịch Nhan mười bốn tuổi, tự giam mình trong cái thế
giới hoang vu tối tăm. Ngồi ở góc khuất nhất của lớp, thờ ơ nhìn các bạn cùng
lớp hò la huyên náo, trong lòng không hiểu chúng vì sao lại cao hứng tới vậy.
Không có tình bạn, chẳng có tình thân, không chút hơi
ấm, phần lớn thời gian cô đều cụp mắt, trốn tránh con mắt soi mói của người
xung quanh.
Tuổi dậy thì, trong khi Triều Nhan trước sau phổng
phao, nở nang đầy đặn ra dáng một thiếu nữ, thì cô lại ngày càng gầy đi, cao
trội hơn so với các bạn nữ đồng lứa, không còn chốn nào để ẩn náu. Giữa mọi
người, có những ánh mắt vô tình hay hữu ý, tưởng như muốn ăn tươi nuốt sống cô.
Không ai biết rằng, cô chán ghét trường học, sợ phải
lên lớp đến như thế nào. Mỗi sáng chờ đón xe buýt, cô chỉ mong nó mãi mãi không
bao giờ tới bến. Nhìn xe gần tới trường, trong lòng cô lại dấy lên nỗi tuyệt
vọng. Cánh cổng trường mở to như chỉ chực chờ cô bước tới là nuốt tọt vào
trong.
Bước trên con đường rợp bóng cây trong trường, từng
bước từng bước, cô đơn, chán chường, mệt mỏi không sao tả xiết, trong lòng lại
chợt nghĩ, những ngày tháng u ám ê chề thế này, còn có thể gắng gượng đến bao
giờ nữa?
May thay, cuối cùng cô đã thoát ra được, không để cuộc
sống dày vò bản thân trong những tháng ngày đằng đẵng tưởng như không bao giờ
kết thúc ấy.
Nhớ lại năm xưa, nhiều lúc, cô còn thấy rất cảm kích
những tháng ngày trưởng thành ấy, nó giúp cô hiểu được tâm trạng bị người ta
coi thường và bài xích là như thế nào, giúp cô hiểu rằng mỗi học sinh đều có
lòng tự tôn, cần được đối xử công bằng.
Con vịt xấu xí ẩn náu trong góc tối trước kia bỗng lột
xác trở thành thiên nga trắng thu hút ánh mắt bao người. Cởi mở phóng khoáng,
biết tiến biết thoái. Bước lên bục giảng, ăn nói đĩnh đạc, phong thái sôi nổi.
Lúc không nói chuyện thì nhã nhặn hiền hòa, ung dung quan sát xung quanh.
Thế nhưng, trong nhiều trường hợp, cô vẫn hết sức quan
tâm tới những học sinh trầm tư kiệm lời. Nhìn thấy ánh mắt hoặc hờ hững hoặc
trốn tránh của chúng, rồi lại nghĩ, liệu chúng có may mắn mà lột xác được như
mình?
Tịch Nhan theo học tại một trường sư phạm. Học kỳ một
năm thứ tư cô tới thực tập tại một trường trung học gần đó, cũng quen với một
cậu thiếu niên như thế. Cậu tên tiểu Kha, là học sinh cá biệt của lớp, nghịch
ngợm, chán học, thường xuyên trốn học đi chơi, đánh điện tử, thi mười môn trượt
chín. Trước mặt thầy cô giáo, cậu toàn cúi gằm mặt, nín thinh, nhưng trên khuôn
mặt còn chưa hết nét thơ ngây ấy lại đầy vẻ bướng bỉnh, ngỗ nghịch.
Giáo viên chủ nhiệm lớp tiểu Kha, thầy Vương, là một
người đàn ông trung niên nóng tính, nghiêm khắc. Ngày đầu tiên Tịch Nhan tới
lớp thực tập, gặp đúng lúc thầy đang phạt tiểu Kha, thẳng tay cho cậu một cái
bạt tai, rồi véo tai cậu, lôi xềnh xệch ra hành lang phía ngoài lớp, còn dùng
chân đá cậu. Tịch Nhan trông thấy mà xót xa, bèn chạy tới ngăn lại. Thầy giáo
Vương một tay gạt cô lui ra, giận dữ quát: “Nó hôm qua lại trốn học. Một học
sinh hư như thế, không đánh thì sao mà dạy được!”
“Không có học sinh hư, chỉ có người thầy và phụ huynh
chưa làm tròn bổn phận của mình”. Tịch Nhan buột miệng, thầy Vương sững ra giây
lát, mắt chăm chú nhìn cô gái nhỏ bé yếu ớt đứng trước mặt, ngực ưỡn thẳng, nét
mặt chăm chú.
Thầy giáo Vương thở dài: “Tôi hiểu tâm ý của cô, có
điều, gặp phải học sinh như thế này, chẳng ai có đủ kiên nhẫn cả, đến bố mẹ cậu
ta cũng bó tay rồi”.
Tịch Nhan bình tĩnh lại, thành khẩn nói: “Thầy Vương,
thầy cứ lên lớp đi ạ, còn cậu nhóc này thầy cứ giao cho em”. Được sự đồng ý của
thầy Vương, Tịch Nhan đưa cậu nhóc về phòng làm việc của mình, dùng khăn giấy
lau sạch mặt mũi cho cậu. Hóa ra cũng là một cậu nhóc trắng trẻo xinh trai, có
đôi mắt to, tròn, đen láy.
Chỉ trong một tháng thực tập ngắn ngủi, Tịch Nhan đặc
biệt quan tâm tới tiểu Kha, tuyệt đối không quát mắng cậu; đối với từng tiến bộ
nho nhỏ của tiểu Kha, đều không tiếc lời khen ngợi, động viên. Giờ lên lớp, cô
để ý gọi tên cậu, đặt câu hỏi cho cậu trả lời. Sau giờ học, cô cùng lũ trẻ chơi
trò chơi, mở tiệc đốt lửa trại, còn chuẩn bị món quà nhỏ cho riêng tiểu Kha,
bởi đó là sinh nhật lần thứ 12 của cậu.
Mới đầu, tiểu Kha vẫn mang tâm lý thù địch và không
hợp tác với cô, rồi dần dần, cậu chấp nhận cô, không còn cau mày nữa, mà thường
xuyên để lộ nụ cười tươi tắn.
Trước khi kết thúc kỳ thực tập, buổi lên lớp cuối
cùng, Tịch Nhan đứng trên bục giảng, nói lời từ biệt với cả lớp. Tiểu Kha giơ
tay xin phát biểu: “Thưa cô, năm sau cô tốt nghiệp rồi, cô sẽ quay lại dạy
chúng em nữa chứ ạ?”.
Tịch Nhan lắc đầu: “Cô trò chúng ta ở bên nhau vui vẻ,
giờ chia tay cũng vẫn phải tươi cười chứ!” Cả tiết học sau đó, cô không dám
nhìn tiểu Kha, bởi cô biết cậu đang nhìn cô không chớp mắt, mà trong mắt thì
ngấn đầy những giọt lệ.
Sau khi trở về trường, Tịch Nhan thường xuyên nhận
được thư của tiểu Kha, gần như là mỗi tuần một lá. Thật không ngờ, một cậu nhóc
trên lớp vốn kiệm lời là thế, lại có biết bao điều muốn nói, muốn sẻ chia.
Trong thư, tiểu Kha hình dung ba của cậu như là “ác
ma”, mẹ là “mụ phù thủy”, còn thầy chủ nhiệm lớp thì là “yêu quái”, duy chỉ có
“cô giáo Đỗ thân thương nhất” thì được là thiên sứ xinh đẹp:
“Cô giáo Đỗ, hôm qua em mơ được gặp cô, một thiên sứ
đẹp như tiên nữ, với mái tóc dài đen nhánh, mặc một bộ váy lụa màu hồng phấn,
xinh đẹp cực kỳ. Có đôi cánh rực rỡ, trong tay còn cầm cả cây trượng lấp lánh
nữa!”.
Khi ấy đang là lúc chuẩn bị tốt nghiệp, Tịch Nhan cũng
bận nộp hồ sơ, tìm việc, không thể trả lời từng bức thư của tiểu Kha. Sau này,
tiểu Kha cũng không gửi thư cho cô nữa. Cứ như vậy một thời gian, đến một ngày,
tình cờ đi xe qua trường trung học ấy, qua làn kính xe, cô bất giác đưa mắt
ngóng trông.
Trong ô cửa sổ nào đó của ngôi trường kia, có một đám
học sinh, đã từng cùng cô chơi trò chơi, cùng cười vui vẻ. Trong số đó có tiểu
Kha, với đôi mắt sáng tinh anh ấy.
Tịch Nhan vốn không dự định làm cô giáo, khi cô đi
thực tập, trong lòng chỉ mang một tâm trạng lãng mạn hoài cổ, những mong qua
những khuôn mặt trẻ thơ ấy, làm sống lại một thời thơ ngây hạnh phúc thuở thiếu
thời.
Hôm đó không hiểu vì sao, đột nhiên có cảm giác kỳ lạ,
một nỗi sợ không tên, mơ hồ ùa đến. Cô xuống xe trước cổng trường, bước vào
trong.
Trong lớp 7/1, lũ trẻ đang trong giờ tự học. Nhìn thấy
“cô giáo Đỗ”, cả lớp đều phấn chấn cả lên, vội quây tròn quanh cô giáo, líu lo
kể chuyện, hỏi thăm cô giáo, còn có cô bé tinh nghịch hỏi: “Cô giáo Đỗ, sao cô
không dẫn bạn trai đi cùng?”
Tịch Nhan cười không đáp, nhìn quanh lớp một vòng,
ngạc nhiên hỏi: “Tiểu Kha đâu? Sao hôm nay lại không lên lớp?”
Cả lớp bỗng tĩnh lại, lặng ngắt như tờ.
Hồi lâu sau, mới có một cô bé mắt đỏ hoe, nhẹ nhàng
cất tiếng: “Tiểu Kha mất rồi. Một tháng trước trên đường tới trường, bị xe đâm
mất rồi”.
Tịch Nhan đờ người, cảm giác như vừa bị móc mất trái
tim.
Thảo nào không thấy cậu bé viết thư cho cô nữa. Cậu
nhóc trong sáng đáng yêu ấy, đã ra đi không một lời từ biệt.
Nếu có thể quay ngược về quá khứ, trở về một tháng
trước, cô nhất định sẽ cẩn thận trả lời từng bức thư của cậu, chăm chú lắng
nghe từng câu chuyện cậu kể, và nhất định sẽ không quên dặn cậu, trên đường đi
học phải chú ý an toàn giao thông…
Trên xe buýt về trường, Tịch Nhan đưa hai cánh tay ôm
tròn quanh mình, trông ra ngoài cửa xe nhìn từng tòa, từng tòa nhà lướt qua
trước mắt. Tất cả không có gì thay đổi, người xe như nước, thanh âm huyên náo,
bụi trần cuốn lên, tạp âm đinh tai.
Thành phố vẫn phồn hoa như thế, hồng trần cuồn cuộn.
Duy chỉ có một sinh linh nhỏ bé đã lặng lẽ rời xa.
Trong mười hai năm ngắn ngủi của cuộc đời, cậu luôn bị
người ta xem thường, khinh bỉ, ghét bỏ, chỉ bởi cậu là học sinh cá biệt.
Trong suốt những ngày tháng qua, cô đã luôn cố gắng
kìm nén bản thân.
Ông nội mất, cô không khóc; Tô Hàng rời xa, cô cũng
không hề rơi lệ. Nay vì một cậu trò nhỏ mới quen chưa đầy năm, cuối cùng khiến
cô không thể kìm nén thêm nữa, nước mắt cứ thế tuôn rơi.
Tịch Nhan cuộn tròn người lại, ngăn nỗi đau bỗng nhói
lên từ ngực, kêu khóc thảm thiết.
Trên xe lúc đó chỉ lác đác vài người, đều bị cô làm
kinh động, lần lượt đưa mắt nhìn cô đầy vẻ lo ngại.
“Này, cô không sao đấy chứ?”, một người ngồi gần cất
tiếng hỏi.
“Không sao…”, cô nghẹn ngào, cố ngăn dòng lệ, nhưng
không ngăn được tiếng nức nở.
Trong tiếng nức nở ấy, cô đã thề với bản thân mình…
Đời này kiếp này, phải cố gắng làm tròn bổn phận của
người thầy, hết lòng yêu thương từng học trò nhỏ.