Đường hầm càng lúc
càng hẹp, dần dần đã hẹp tới mức chỉ có thể xếp thành hàng đôi mà đi.
Đường có chật hẹp cũng không đáng sợ, mà đáng sợ chính là phía trước họ
đã sừng sững một bức tường chắn ngang. Bức tường vô cùng kiên cố, không
một khe cửa, không một vết nứt. Họ đã sa vào ngõ cụt!
Nước sôi đã chảy đến nơi, ở ngay sát gót người đi cuối cùng là Nhậm Hoả Cuồng. Mọi
người chỉ còn cách cố gắng dồn sát về phía trước.
Lúc này, nước
càng sôi dữ dội, bọt bắn tung toé, hơi bốc cuồn cuộn, bởi vì thứ đang đổ tới ngay phía sau dòng nước là dung nham rực lửa. Dòng nước đã sắp bốc
hơi cạn kiệt đến nơi.
Nhậm Hoả Cuồng cố nhích người vào trong
thêm chút nữa. Nước sôi và hơi nước nóng ông ta có thể chịu được, nhưng
tuyệt đối không dám để cho dòng dung nham rừng rực kia chạm tới người.
“Uỳnh!”
Một tiếng nổ vang dội vọng lại dọc theo con đường hầm, khiến cả bọn đầu ong ong, tai ù đặc. Dòng dung nham vừa liếm tới mép giày Nhậm Hoả Cuồng
bỗng khựng lại một thoáng, rồi bất ngờ chảy ào đi theo hướng ngược lại,
một thoáng sau đã không thấy đâu nữa. Nếu như không có nền gạch cháy
đen, đầy những đốm lửa rải rác và nghi ngút mùi lưu huỳnh cháy khét,
chẳng ai tin được rằng dung nham vừa mới đây thôi đã đuổi sát tới chân.
Những tiếng ong ong trong tai còn chưa tan hết, thì trong đường hầm lại tiếp
tục vọng đến những tiếng “rầm rầm” liên hồi không ngớt, chạy từ xa đến
gần.
Đó là tiếng gạch đá trên nóc hầm đang sập xuống. Con dường
dài dằng dặc ngoằn ngoèo tựa mê cung giờ đây hệt như những quân bài
Đô-mi-nô, theo nhau đổ sập tan hoang, biến thành một hố miệng khổng lồ
đen ngòm, sắp sửa nuốt chửng lấy đám Lỗ Nhất Khí, khác nào địa ngục đang mở rộng đến tận đây. Đứng trước cảnh tượng khủng khiếp này, chẳng có ai đủ sức vãn hồi, chỉ còn biết bó tay nhắm mắt chờ tử thần tới rước, mặc
cho ngọn núi đổ sập nghiền nát thân mình. Họ chỉ còn biết cố gắng chen
nhau lùi lại một cách vô thức, ngõ hầu có thể kéo dài thêm một chút thời gian.
Đúng vào lúc đó, bức tường phía sau chịu không nổi sức
chèn ép của cả đám người đã bất ngờ đổ sập. Chính trong khoảnh khắc con
đường hầm lát gạch sắp đập nát họ, thì bọn họ đều ngã nhào ra ngoài cùng với đám gạch đá hỗn loạn.
Họ lại rơi xuống một con đường dốc
ngược. Những cú lăn trượt, lộn nhào liên tiếp vẫn chưa khiến Lỗ Nhất Khí mất đi tri giác, cậu và Thuỷ Băng Hoa ôm chặt lấy nhau, bất chấp phía
trước là sống hay chết.
Cuối cùng, bọn họ đã chạm tới mặt đất
phẳng. Lỗ Nhất Khí lập tức lôi viên đá huỳnh quang Ba Tư ra, trước mặt
họ lại là một không gian kín mít.
– Bên trên có đường rối mắt!
Viên đá huỳnh quang Ba Tư vừa loé sáng, Phó Lợi Khai đã phấn khởi reo lên.
Đường rối mắt là một thủ pháp thường dùng trong kỹ thuật của Lỗ gia, tức uốn cong, xoay chuyển các đường nét hoặc đường thẳng song song, khiến
cho khi nhìn vào hình vẽ sẽ nảy sinh sai lệch thị giác, đem lại cảm giác hình vẽ kéo dài vô hạn. Xuất hiện dạng đồ hình như vậy chứng tỏ rằng
bọn họ vẫn đang ở trong phạm vi bố cục của tổ tiên Lỗ gia, vẫn chưa rơi
vào tuyệt địa vô vọng.
– Hai con mắt lệch của ngươi có nhận ra đường chính xác không đấy? – Nhậm Hoả Cuồng hỏi.
– Đưa ánh sáng cao lên chút nữa, để tôi xem điểm vặn* của đường rối mắt ở đâu! – Phó Lợi Khai nói.
* Trong kỹ thuật của Lỗ gia có những vật trang trí hoặc hoạ tiết trang
trí có dạng hình chữ nhật dài hẹp hoặc đường nét dài, sẽ được xoay
chuyển góc độ tại một vị trí thích hợp, kết hợp nhiều chỗ xoay chuyển
như vậy sẽ sinh ra lệch lạc thị giác, cảm giác chúng được kéo dài liên
tục. Vị trí xoay chuyển đó được gọi là điểm vặn.
Lỗ Nhất Khí đứng dậy, giơ viên đá huỳnh quang Ba Tư lên cao, cũng nhìn chăm chú vào
đường rối mắt phía trước, cất giọng bình thản mà nói:
– Tìm mau lên xem có đường thoát không, núi lửa sắp phun rồi!
Ở đây tuy có đường rối mắt do tổ tiên Lỗ gia để lại, song xem ra có vẻ
giống như một hang đá thiên nhiên hơn. Trên vách hang bám tầng tầng lớp
lớp rêu xanh và bùn đất, quả là rất khó nhận ra sự khác biệt giữa các
đường nét. Hai con mắt Phó Lợi Khai đã bị va đập đến sưng vù, vành mắt
cũng biến dạng, song lại khiến cho đôi mắt to nhỏ của gã quan sát được
chuẩn xác hơn, quả nhiên một lát sau đã tìm ra điểm vặn.
Điểm vặn nằm ở chính giữa nóc hang. Nhậm Hoả Cuồng chùng chân xuống tấn, hai tay đánh mạnh lên trên. Quỷ Nhãn Tam mượn lấy lực đạo đó, tung mình nhảy
vụt lên nóc hang.
Quả nhiên ở đó có một điểm vặn. Nóc hang xem ra rất bằng phẳng, song Quỷ Nhãn Tam lại có thể đu người lủng lẳng trên
đó. Bên dưới lớp đất bùn và rêu xanh có một gờ mép, một gờ mép chỉ có ở
điểm vặn.
Quỷ Nhãn Tam móc toàn bộ các ngón tay vào trong gờ mép, rồi đu người xoay ngang, tì hai mũi chân lên nóc hang hình vòm, giẫm
đạp loạn xạ một hồi, khiến bùn đất và rêu trên nóc hang bong tróc từng
mảng lớn. Theo những cú đạp, đẩy liên tục của hắn, gờ mép đã dịch
chuyển, và một khe hở xuất hiện. Quỷ Nhãn Tam co người lại, đưa bàn chân vào trong khe hở rồi đạp mạnh, một lát sau đã mở ra dược một lỗ hổng
hình chữ nhật chừng ba thước vuông.
Lỗ hổng vừa được mở ra, Lỗ
Nhất Khí lập tức cảm thấy có một luồng khí cuộn trào hệt như ngọn lửa
đang ngùn ngụt cháy, còn Nhậm Hoả Cuồng lại ngửi thấy mùi của một thể
khí hỗn hợp. Thứ mùi này ông ta thường ngửi thấy từ lò lửa sau khi được
bỏ vào thứ than cực phẩm.
– Tuyệt đối không được đốt lửa, trong
hang có hỏa khí! – Lỗ Nhất Khí đã biết được khái niệm “hoả khí” từ
trong“Tây Vực phong vật lục“**. Song cậu lại không biết rằng, hoả khí
trong “Tây Vực phong vật lục“ là chỉ khí đốt thiên nhiên, cũng tức là
khí ga; còn hoả khí ở đây lại là khí diêm tiêu, là một loại khí do quặng chứa diêm tiêu nhả ra tích tụ lâu năm, có thể bốc cháy.
** Chỉ
khác một chữ so với cuốn “Tây Vực dị vật lục” do Ngô Cảnh Toàn, tiếp
tổng sứ đạo Tây Lương đời Đường biên soạn, nội dung ghi chép về phong
tục tập quán các nơi ở Tây Vực. Hiện chỉ còn bản tàn khuyết.
Những tiếng nổ dồn dập lại tiếp tục vọng tới, cả trái núi nghiêng ngả đảo
điên, đá vụn và bùn đất từ trên nóc hang trút xuống rào rào. Những hiện
tượng này đã thúc giục bọn họ phải hành động lập tức.
Lỗ Nhất Khí thò tay vào trong áo Thuỷ Băng Hoa, giật phăng mảnh yếm lụa, vứt ra
thật xa. Cậu sợ rằng vải lụa khi ma sát sẽ sinh ra tia lửa tĩnh điện,
dẫn nổ khí diêm tiêu trong không gian phía trên. Thuỷ Băng Hoa không
tránh né, song nét mặt vẫn thoáng chút ngượng ngùng.
Phó Lợi Khai cũng vứt luôn ống đánh lửa luôn mang theo bên mình, tung một bước dài,
giẫm lên đùi lão mù mượn lực nhảy vọt lên, vung tay trái túm lấy Quỷ
Nhãn Tam, tay phải chụp vào gờ mép của lỗ hổng trên nóc hang, leo lên
phía trên.
Đã có hai người ở bên trên, những người còn lại muốn
lên trên lại càng dễ dàng. Lão mù lên sau cùng, lão giơ đầu gậy cho Quỷ
Nhãn Tam và Phó Lợi Khai giữ chắc, rồi bắt chéo hai cánh tay gầy guộc
vận lực vào thân gậy, thoăn thoắt leo lên nhẹ như không.
Trong
lòng hang phía trên, vách đá đều là tiêu thạch. Hang này do con người
đào thành, không biết đã bị bịt kín bao nhiêu năm, bên trong nồng nặc
mùi khí diêm tiêu. Nhậm Hoả Cuồng dặn dò kỹ lưỡng, tuyệt đối không được
để đồ vật bằng sắt thép chạm vào vách đá tiêu thạch, chỉ cần một chút ma sát hoặc va chạm nhỏ cũng có thể sinh ra tia lửa, gây cháy nổ.
Dưới ánh sáng lờ mờ toả ra từ viên đá huỳnh quang Ba Tư, Lỗ Nhất Khí nhìn
thấy trên vách đá và nóc hang có rất nhiều hình vẽ. Những hình vẽ này
cậu đều đã bãt gặp trong sách vở, song lại không biết ý nghĩa của chúng
là gì.
– Là bùa Địa linh tế hoả, thắp lửa đất vô hình, luyện
thành vàng cứu thế! Đây là thuật tế Huyền nguyên thời cổ xưa, không biết có tác dụng thực hay không! – Quỷ Nhãn Tam đứng bên cạnh đã giải thích
giúp cậu.
– Ồ! – Lỗ Nhất Khí bỗng như bừng tỉnh, những thứ tản mát lại bắt đầu được lắp ghép thành hình trong trí não.
Tổ tiên Lỗ gia đã xây dựng ám cấu giấu Kim bảo trong Ngũ hành tại đây.
Theo như suy đoán ban đầu của cậu, Kim bảo sẽ được giấu ở trong điện
không xà không nóc, đặt tại vị trí trái tim của cơ thể mẹ, nơi có thể
hấp thu được nhiều nhất tinh hoa nhật nguyệt. Cách bố trí này đối với
những kẻ đi tìm bảo bối bình thường đã có thể coi là vô cùng xảo diệu,
song đối với cao thủ Chu gia vốn kế thừa được kỹ thuật điểm huyệt bày
khảm của Mặc gia song bản lĩnh từ lâu đã vượt xa hai nhà Lỗ, Mặc, lại
quá ư đơn giản. Cao thủ Chu gia đã tới đây trước, song tới giờ vẫn chưa
tìm ra nơi cất giấu Kim bảo, chứng tỏ cách bố trí của tiền bối Lỗ gia
tại nơi đây trái hẳn với phép thường, hẳn là có lề lối khác.
Bây
giờ ngẫm kỹ, quả đúng như vậy. Ở đây có lửa đất vô hình được tích tụ từ
tiêu thạch là “Hoả”; vị trí của nó lại nằm sâu trong trái núi, nương
theo sơn mạch để nối liền với “Thổ” trên núi; hệ thống ống dẫn đưa nước
ngầm dưới đất liên tục tuần hoàn, khiến hơi nước bốc lên mù mịt bao
quanh chính là có “Thuỷ”; trên núi cây cối um tùm là có “Mộc”, lại cộng
thêm bản thân Kim bảo, nên đây chính là cục tướng Ngũ hành hoà hợp, là
bố cục bốn hành thai nghén một hành. Nó lợi dụng rừng cây hấp thụ tinh
hoa của nhật nguyệt mưa móc, lại thông qua đất đá để truyền vào bảo cấu; dùng nước ngầm để hấp thu địa khí, dùng bùa Địa linh tế Hoả và quặng
tiêu thạch để tích tụ lửa đất, cùng nuôi dưỡng tài bồi cho Kim bảo,
khiến cho trong suốt hơn hai nghìn năm qua, bảo khí không suy, hung
huyệt khó mở.
– Cẩn thận đi lên phía trước, nếu kịp sẽ nhân tiện
khai quật lấy bảo bối! – Câu nói không đầu không cuối của Lỗ Nhất Khí
khiến cho cả đám cao thủ ngẩn ra chẳng hiểu gì, người nọ nhìn người kia
với ánh mắt hồ nghi.
Lỗ Nhất Khí không để ý tới phản ứng của mọi
người, tay giơ cao viên đá huỳnh quang, dắt Thuỷ Băng Hoa thận trọng men theo lòng hang tiến về phía trước, vẻ mặt vẫn bình thản như không. Chỉ
có Thuỷ Băng Hoa mới biết cậu đang ở trong một trạng thái căng thẳng và
hưng phấn cực độ, bởi lẽ lòng bàn tay cậu đã trở nên nóng rực, mồ hôi
liên tục rịn ra ướt đẫm.
Vẻ kinh ngạc dần dần hiện rõ trên nét
mặt của những cao thủ đang đi theo sau Lỗ Nhất Khí, đặc biệt là lão mù.
Trong lòng hang tối đen như mực, vòng vèo như rắn bò, cảm nhận về sự
biến đổi của địa thế dưới bàn chân lão còn rõ rệt hơn nhiều so với những con người chỉ nhìn bằng mắt kia. Họ đang đi lên phía trên, lòng hang
uốn lượn quanh co mà lên; càng lên cao, độ dốc càng tăng rõ rệt.
Trong lúc họ đang thận trọng men theo hang tiêu thạch mà đi, thì trong đống
gạch đá đổ nát tại đường hầm khi nãy, có một dòng nham thạch nhỏ mau
chóng chảy lại gần lối vào hang tiêu thạch, trong khi dòng khí diêm tiêu cũng tràn qua lỗ hổng xuống dưới, tích tụ đậm dần. Gần như cùng lúc đó, tại một chỗ ở phía trên nơi họ đang di chuyển không bao xa, có một
đường hầm lát gạch xuyên thẳng vào thân núi. Cánh cửa ngầm tại một đầu
của đường hầm lặng lẽ mở ra, qua khe cửa không rộng lắm, lần lượt lách
vào từng cỗ thây ma. Đúng vậy, đó chính là những thây ma nát bấy mà lẽ
ra đã phải nằm im trong đầm băng lạnh giá dưới chân dốc ba đoạn.
Đám Lỗ Nhất Khí di chuyển rất chậm chạp trong lòng hang tiêu thạch, vì sợ
động tác quá mạnh sẽ tạo ra tia lửa, cũng vì đoạn đường này rất dốc. Con đường rất dài, lão mù đã đếm nhẩm tới hơn nghìn bước. Tiếp đó, con
đường từ từ xoay vòng chạy lên trên, cứ đi được một đoạn lại có một khúc ngoặt với biên độ lớn. Nhậm Hoả Cuồng ngửi thấy mùi khí diêm tiêu ở đây nồng nặc hơn rất nhiều.
Khi lão mù đếm tới bước thứ hai nghìn, thì đột nhiên kêu lên:
– Trăm quanh nghìn ngoặt thiêu tâm mạch!
Không ai nói gì, mọi người đều im lặng đợi lão mù nói tiếp.
– Khi ta còn chưa bị mù, con gái út của ta từng lấy trộm được một cuốn
sách y thời cổ từ đoàn lái buôn qua đường, có tên là “Luận mạch âm dương bình”. Trong đó nói rằng tâm tư con người khi đến chỗ cực độ thì gọi là “phần tâm” (thiêu đốt tâm). Trong tình hình đó, tâm mạch quanh co sẽ
xuất hiện rất nhiều chỗ gập, xoắn nhỏ bé, khiến tim ngực không thông,
tâm tư u uất khó giải. Dựa theo bước chân của ta, con đường mà chúng ta
đang đi có vẻ khá giống với sơ đồ tâm mạch.
Phó Lợi Khai nói xen vào:
– Kể cũng đúng! Ông không nghe Thuỷ đại nương kể ư, một cô gái đang yên
đang lành tự dưng có bầu, lại đẻ ra một con rồng dữ, thì tâm tư làm sao
thoải mái cho được!
Nhậm Hoả Cuồng và Quỷ Nhãn Tam đều khẽ bật cười.
– Im lặng! – Lão mù đột nhiên kêu lên, giọng nói và nét mặt đầy vẻ kinh sợ.
Mọi người đều khựng lại, im bặt, xung quanh bất giác yên ắng như tờ.
– Nghe thấy chưa? Phía trước có tiếng động! – Lão mù nói.