Bầu trời trên núi, sắc xanh đặc biệt trong trẻo, mấy đám mây trắng
dịu dàng trôi trên nền trời, như điểm thêm hai nét tao nhã cho khoảng
không trống trải.
Lúa mạch trên triền núi đã sớm được thu hoạch, lưu lại rơm đợi xử lý, đông một đám tây một đám, đôi khi còn được bó thành một đống. Trời
tháng tám, thái dương đã treo lên giữa không trung, sắc lửa đỏ đã bắt
đầu biến thành ánh sáng trắng chói mắt, khiến người ta không dám nhìn
thẳng.
Trên con đường mòn đi dọc lên núi, bà Lan đi đầu, dẫn mấy đứa nhỏ theo, phải đi qua sườn núi mới tới miếu Quan Âm.
Ninh Vũ thích hoạt động như vậy, không có bảy tám bà cô phí sức quản
chuyện Lan Hinh kết hôn, cũng không có mấy ông tay cầm ống điếu, vừa hút thuốc về tò mò chuyện làm ăn công việc của Lan Hinh.
Con đường mòn trên triền núi cây cối uốn lượn dày đặc, ánh mặt trời
xuyên qua kẽ lá hắt xuống, dừng lại trên cỏ dại mọc đầy bên đường, ở
giữa để lộ một con đường đất khoảng chừng một thước, tạo thành những
quang ảnh loang lổ mà hoa mỹ.
Sáng sớm trên núi cũng không nóng, sương sớm còn đọng trên tán lá,
trong suốt sáng ngời, có chú dế nhảy ra từ bụi cỏ, không cẩn thận đáp
lên một tán lá, khiến giọt sương vỡ tan…..
Vạn vật đều yên tĩnh như thế, nhưng hết thảy lại đều sống động đến
vậy. Chim chóc, ong mật, châu chấu, còn có đám ve dính với nhau ở trên
cây không ngừng kêu vang, cùng với ếch nhái hoặc cóc ở cái ao nhỏ ở bên
đường, rồi cả đám nòng nọc bé xíu đen đen vẫy cái đuôi bơi qua lại trong ao. Tất cả những thứ đó đối với Ninh Vũ mà nói phần lớn đều chỉ từng
nhìn thấy trong sách, giờ phút này lại chân thật hiện ra trước mặt, tươi đẹp như thế.
Núi rừng như chốn tiên cảnh, người yêu lại ở ngay bên cạnh, hít thở
bầu không khí tươi mới, nghe tiếng chim thanh thuý kêu vang, thi thoảng
lại bị sương đọng trên lá rơi xuống trúng người, lành lạnh. Đi mệt có
thể dừng chân bên con suối nhỏ ven đường, vốc nước suối rửa mặt, cảm
giác mát mẻ trong nháy mắt liền ngập tràn, người cũng cảm thấy lên tinh
thần rất nhiều.
Tất cả những điều đó khiến tâm tình suốt hai ngày qua bị sự nhiệt
tình muốn làm chuyện tốt của bà con hàng xóm khiến cho buồn bực được
giải phóng hoàn toàn, trở lại như ảo tưởng của núi rừng trong cảm nhận
của Ninh Vũ — tươi mát, tự nhiên, sạch sẽ, tốt đẹp.
Nếu không phải vì có người lớn ở đây, Ninh Vũ cảm thấy mình có lẽ sẽ
tìm một chỗ bằng phẳng trên núi, nằm xuống, để cho ánh nắng nhỏ vụn
xuyên qua khe hỡ giữa tán lá dày đặc rơi trên người mình. Có lẽ mình sẽ
lẩm nhẩm hát một bài ca, có lẽ sẽ ngâm một bài thơ, cũng hoặc là không
làm gì cả, chỉ nhắm mắt lại, ôm người mình yêu hít thở bầu không khí
trong lành này.
Con đường mòn uốn lượn gập ghềnh cũng không thể chứa quá nhiều người
đi song song, Ninh Vũ liền để Lan Duệ và tiểu Húc đi trước, nàng kéo Lan Hinh đi cuối cùng, đoạn đường núi lãng mạn như thế, nếu không thể nắm
tay cùng người mình yêu, Ninh Vũ cứ cảm thấy có chút không đủ hoàn mỹ.
Mà Lan Hinh tựa hồ luôn hiểu biết lòng nàng, theo ý Ninh Vũ, giao bàn tay hơi gầy của mình vào tay Ninh Vũ. Ninh Vũ cảm thấy mình có thật
nhiều thật nhiều điều muốn nói, nhưng nắm tay Lan Hinh rồi, trong nháy
mắt lại cảm giác tựa hồ cái gì cũng không cần nói mà cô đã hiểu rõ cảm
giác trong lòng mình. Hai người ngẫu nhiên đối diện, Lan Hinh cười đến
ôn nhu, Ninh Vũ cười đến sung sướng. Ngay cả khi không lên tiếng, lại
tựa hồ hoàn toàn thấu hiểu.
Cảm giác này rất kỳ diệu, con đường núi uốn lượn mà lên, như thể
không chỉ là hai người, mà là hai trái tim nhẹ nhàng cùng chung bước
trên con đường trong cõi lòng. Cho nên, mọi lời nói ngược lại có vẻ dư
thừa.
Miếu Quan Âm cũng không xa lắm, đi qua một triền núi, lại băng ngang
một ngọn đồi, đến khi mặt trời treo cao trên đỉnh đầu, một góc của miếu
Quan Âm ló ra từ rừng sâu đã ở gần ngay trước mắt.
“Miếu Quan Âm linh nghiệm lắm, trong đó có một lão thần tiên là thầy
tướng số, cũng rất lợi hại.” Bà Lan nói: “Hồi xưa trước khi mấy đứa thi
đại học, mẹ đều đặc biệt chạy tới miếu bái Quan Âm, cầu Quan Âm bồ tát
phù họ các con thi cử thuận lợi, có thể đậu đại học tốt nhất.” Bà Lan
vừa nói, vừa chắp tay tạo thành chữ thập, vẻ mặt thành kính.
“Còn rút thăm nữa, cũng linh lắm, mọi người quanh đây đều nói linh
nghiệm. Trước khi Lan Hinh và Lan Gia thi mẹ đã quỳ trước mặt Quan Âm bồ tát, cầu Ngài phù hộ cho hai đứa vào được trường tốt nhất, sau đó liền
rút thăm, chữ trên đó mẹ đọc không hiểu, nên tìm sư phụ giải sâm, ông ấy nói là quẻ tốt nhất, tuyệt đối không thành vấn đề, nói gì mà công danh
chỉ trong sớm muộn. Mẹ chỉ biết, khẳng định không thành vấn đề, quả
nhiên hai đứa đều thi đậu!” Càng gần miếu Quân Âm, mấy người trẻ tuổi
đều thở hồng hộc, chỉ duy nhất người luống tuổi kia quanh năm làm lụng
trên núi ngược lại càng nói càng có tinh thần, miệng không ngớt: “Lúc
vào miếu Quan Âm, chỉ cần nhớ đến Quan Âm bồ tát thì sẽ không mệt.”
Đến cửa miếu đã ngửi thấy mùi hương nồng đậm, bà Lan lẩm bẩm chắp tay vái ba cái về phía cửa miếu, sau đó mới dẫn đám trẻ vào.
Ngôi miếu cổ trong núi này đã được xây vô số năm tháng trước, tuy
cũng không huy hoàng, nhưng mái cong hàng cột cũng coi như có chút khí
thế.
Hương khói ở đây đương nhiên không thịnh vượng như trong thành phố,
nhiều khi cả ngày không có người, bình thường mỗi lúc hội chùa mới có
nhiều thu nhập. Bất quá dù thế, bởi vì quê nhà thờ phụng, đến ngày hội
chùa luôn có người cầu thần bái phật muốn đưa chút tiền nhang tiền dầu,
hoặc là những người đi làm công xa cầu tài vận, hay người thân mang bệnh cầu được khoẻ mạnh, hay ai thấy vận khí không tốt nên đến cầu bình an,
người kết hôn rồi thì đến cầu con cái. Đương nhiên, cũng có nông dân đến chỉ vì cầu cho mưa thuận gió hoà, heo khoẻ gà mập.
Ít tiền thì bỏ vào hòm công đưc năm đồng, ra ngoài kiếm được tiền thì bỏ vào hòm hai mươi đồng, đôi khi thấy người vào miếu tốn hai đồng mua
cái đèn trời*……
(*thiên đăng – đèn Khổng Minh)
Tiền công đức tuy kém ra với những ngôi chùa lớn trong thành phố,
nhưng cũng không tham ô như thế, tiền công đức ở đây, trừ để làm chi phí cho hai vị hoà thượng trong chùa, gần như đều dùng để sửa chữa chùa
miếu. Huống chi hoà thượng đã khai khẩn hai mảnh đất ở bên cạnh miếu,
trồng rau xanh củ cải, đồ ăn uống đôi khi những vị hương thân quanh đó
cũng sẽ đem lại đây, cơ bản cũng không cần tiêu tiền gì. Đến khi cần sửa chữa, lại lên núi kiếm ít rơm, củi, thậm chí gạch đá, nhân công. Ngôi
miếu này cũng coi như do làng xóm quanh đó mười dặm tu bổ gìn dữ.
Bước vào cửa miếu, hoà thượng ngồi xếp bằng trước tượng Phật gõ chiếc chuông đồng bên người một chút, tiếng chuông vang lên, có ý đón khách.
Bà Lan lập tức cười chắp tay khom người với vị hoà thượng già: “Ai di đà Phật.”
Hoà thượng tuổi đã cao, hàm răng rớt mất mấy cây, trên khuôn mặt đen đúa tràn đầy nếp nhăn.
“Chị Lan dẫn mấy đứa nhỏ đến à.” Hoà thượng ở nơi này không giả bộ
bao thâm. Kỳ thật những người quanh đó chỉ cần thường xuyên đến miếu thì hoà thượng này đều nhận ra, thường chào hỏi tiếp đón.
Bà Lan trò chuyện mấy câu với vị hoà thượng đó, ông liền nói vài câu chúc may mắn, hỏi bà Lan muốn thắp hương hay rút thăm.
Hương nhất định phải thắp, bà Lan không chỉ đặc biệt mua nến thơm,
còn thắp đèn cho từng đứa, lại nhét tiền giấy đỏ thẫm vào hòm công đức,
khiến lão hoà thượng cười đến toe toét.
Từng người lần lượt trật tự dựa theo ý bà Lan quỳ lạy trước Quan Âm
bồ tát. Bà Lan liền ở bên cạnh niệm: “Cầu phù hộ con trẻ thân thể khoẻ
mạnh, làm ăn thuận lợi, phù hộ con gái sớm tìm được đối tượng, phù hộ
tụi nhỏ tình cảm thuận lợi, phù hộ con trai thành tích học tập thật tốt, tìm được việc làm…….”
Cuối cùng theo thường lệ là rút thăm.
Mỗi người một quẻ.
Sau đó dựa theo số đánh trên quẻ đi tìm tờ giấy chú giải trên giá gỗ.
Lan Duệ thầm nhủ, đây là cái gì chứ, “lục súc vượng, trạch cát, thất vật hiện….”
Lần đầu tiên Ninh Vũ rút thăm, cảm thấy rất thú vị, trong ống có mấy
chục quẻ tre, cầm lấy lắc lắc, thẻ nào rơi ra đầu tiên chính là thần
chỉ*.
(*Ý chỉ của thần)
Ninh Vũ được quẻ thượng, mà Lan Hinh là quẻ trung.
Chữ trên quẻ là chữ phồn thể, hơn nữa mực in là kiểu cũ, chữ viết cũng không quá rõ ràng.
Quẻ của Ninh Vũ nói: “Du nhiên hoa nhất chi, tĩnh đãi hoa khai thì,
đãi đáo xuân nhật lai, nhật nguyệt tương chiếu tế. Hậu diện lưỡng bài,
bất quá thuyết ta quán lệ, chư như bệnh dũ, trạch cát, sinh nam, súc
vượng” linh tinh gì đó.
(*Kể ra mình dịch cũng được mà lười quá, các bạn đọc hiểu được ngần nào thì hiểu nhé =]] )
Thứ này không giống thơ, nếu giải thích từng từ thì lại không đúng,
mà nếu nói ý tứ thôi thì lại không thâm ảo. Đại khái có ý chờ đúng thời
điểm đến thì tự nhiên sẽ tốt. Ninh Vũ kỳ thật muốn nói thứ ba phải kiểu
cái nào cũng được này muốn hiểu theo nghĩa nào cũng được, đại khái cũng
không nhiều ý nghĩa thực tế cho lắm.
Nghiêng đầu nhìn tờ giấy mỏng trên tay Lan Hinh, mực in trên đó rất
đen, chữ cũng rõ ràng, viết theo hàng dọc từ phải qua trái, nói là: “Lai thì sơn lộ khi khu, khứ thì hoa mãn trọng lâu, đãi đáo xuân mạt hoa
điêu, hựu phục đông nhật hàn tịch, khấu thủ phật tiền tư lượng, nhất
sinh cánh khổ như tư, khước nhân lai thì tích thiện, chú định khứ thì
đắc hoan.”
Mấy câu này thật ra rất dài, từ đầu đến cuối, kín tờ giấy. Lan Hinh
nhìn hàng chữ trên tờ giấy, gần như nói trúng tâm sự của mình, chỉ mỗi
kết cục, không nói rõ được đó có phải kết cục mình muốn không.
Ninh Vũ thấy Lan Hinh trầm tư, không khỏi lấy ký văn trên tay cô lại
xem, cẩn thận suy nghĩ một chút, liền bỏ tờ giấy chú giả vào túi áo
mình, sau đó đưa quẻ thượng của mình cho Lan Hinh: “Của em cho chị, của
chị đưa cho em, nếu quẻ của chị không tốt thì chúng ta đổi cho nhau.”
Lan Hinh bị Ninh Vũ chọc cười: “Nếu đã là ý trời, sao có thể nói đổi liền đổi đây?”
Ninh Vũ cười: “Nếu là ý của Phật, vậy đổi ngay trước mặt Phật, để cho Bồ Tát lão nhân gia biết tâm ý của chúng ta.”
Lan Hinh kéo tay Ninh Vũ, thấp giọng: “Nếu thật sự là ý tứ của Bồ
Tát, vậy nếu có cực khổ thì để tôi chịu là được, cũng không thể nói lung tung trước mặt Ngài.”
Ninh Vũ cười ngây ngô, lặng lẽ ghé sát bên tai Lan Hinh nói: “Chị
nghiêm túc vậy à? Vận mệnh của con người có hàng ngàn hàng vạn, chỉ mấy
quẻ thăm chục tờ giấy này là có thể khái quát? Thả lỏng tâm, cho dù
trước kia chị phải chịu khổ thì sau này cũng sẽ không phải chịu nữa.”
Lan Hinh gật đầu, lại vẫn bổ sung một câu: “Vào miếu vẫn nên thành kính một chút.”
“Tuân mệnh!” Ninh Vũ nói.
Đám trẻ trao đổi ký văn của nhau, náo nhiệt chốc lát.
Bà Lan nói, lão sư phụ giải đoán thăm rất linh nghiệm, hẳn nên tìm
ông ấy hỏi một chút. Lan Duệ đắc ý nói, những gì viết trên ký văn đều có thể hiểu, người giải đoán sâm chỉ là để phục vụ cho người không biết
chữ thôi. Con thấy nhà mình không cần, nếu không không phải ăn học nhiều năm uổng phí sao?
Bà Lan cũng là hiền thê lương mẫu tiêu chuẩn, cũng không cố chấp, đám trẻ đã nói không cần giải thăm thì không cần.
Bất quá còn một việc là việc quan trọng nhất hôm nay, đó là xem bát tự.